Thư viện

Những nhận định thiên tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Đúng lúc phát xít Nhật vừa đầu hàng, quân Đồng minh chưa kịp tiến vào, Đông Dương bị bỏ ngỏ, Hồ Chí Minh đã chỉ ra đó là thời cơ ngàn năm có một.

Thời cơ ấy đến trong mùa thu năm 1945, và đã được tận dụng triệt để. Chỉ một lực lượng nhỏ, chỉ cần dùng uy thế của quần chúng cũng lấy được chính quyền, khai tử chế độ phong kiến, nô lệ, xây dựng nền cộng hòa dân chủ. Một sự kiện vĩ đại trong vài ba sự kiện vĩ đại nhất trong lịch sử ngàn năm của dân tộc.

Điều lạ lùng là lãnh tụ Hồ Chí Minh đã đoán biết được thời cơ này từ nhiều năm trước. Đoán một cách chắc chắn, cụ thể, không chỉ bằng lời nói, mà bằng bút mực, giấy in hẳn hoi.

Đó là cuối năm 1941, chiến tranh thế giới đang tràn lan, châu Âu, châu Phi bị quân Đức, Ý giày xéo. Châu Á- Thái Bình Dương quân Nhật đang thắng thế quân Anh, Mỹ. Trung Quốc khói lửa mù mịt. Đông Dương đã rơi vào tay Nhật. Trong tình hình ấy, lãnh tụ Hồ Chí Minh vào ngày năm mới 1/1/1942 đã có một nhận định táo bạo, thiên tài: “Ta có thể quyết đoán rằng, Nga nhất định thắng, Đức nhất định bại. Anh-Mỹ sẽ được, Nhật Bản sẽ thua. Đó là một dịp rất tốt cho dân ta khởi nghĩa đánh đuổi Pháp, Nhật, làm cho tổ quốc ta được độc lập tự do.

Trong lúc ấy mà đoán được kết cục chiến tranh đâu phải dễ. Và phải nói là rất thiên tài khi thấy đó là một cơ hội cho dân tộc. Cụ thể hơn nữa, vào tháng 10/1944, vừa ra khỏi nhà tù Quốc dân đảng Trung Quốc trở về, Người chỉ rõ: “Phe xâm lược gần đến ngày bị tiêu diệt. Các Đồng minh quốc sắp tranh được sự thắng lợi cuối cùng. Cơ hội cho dân tộc ta giải phóng chỉ trong một năm, hoặc năm rưỡi nữa.”

Thực tế lịch sử đã diễn ra, cơ hội đến sau đó đúng một năm!

Điều lạ lùng hơn nữa là vào năm 1942, khi viết “Lịch sử nước ta” lãnh tụ Hồ Chí Minh đã ấn định được ngày Việt Nam độc lập. Đây là một cuốn lịch sử bằng thơ lục bát, do Việt Minh tuyên truyền Bộ ấn hành 2/1942.

Cuốn sách được mở đầu:
Dân ta phải biết sử ta
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam
Kể năm hơn bốn nghàn năm
Tổ tiên rực rỡ anh em thuận hòa…

Sau đó tác giả nhắc đến các sự kiện, các nhân vật lịch sử kể từ Hùng Vương, Thục Phán đến Bà Trưng, Bà Triệu, Ngô Quyền, Đinh Tiên Hoàng, Lê Lợi… đến Nguyễn Huệ, Hoàng Hoa Thám… Những sự kiện lịch sử gần nhất được nhắc đến là:

Kìa Yên Bái, nọ Nghệ An
Hai lần khởi nghĩa tiếng vang toàn cầu
Nam kỳ im lặng đã lâu
Năm kia khởi nghĩa đương đầu với Tây

Sau khi tóm tắt lịch sử nước nhà, tác giả kêu gọi:

Chúng ta có hội Việt Minh
Đủ tài lãnh đạo chúng mình đấu tranh
Mai sau sự nghiệp hoàn thành
Rõ tên Nam Việt, rạng danh Lạc Hồng

Điều kỳ lạ nhất của cuốn lịch sử mà chúng tôi muốn nói đến nằm ở phần phụ lục ghi chú “Những năm quan trọng”. Tác giả đưa ra 30 cái mốc quan trọng:
Trước tây lịch
– 2879 Hồng bàng
-111 Tàu lấy nước ta lần đầu
Sau tây lịch
– 40 Hai Bà trưng đánh Tàu
– 248 Bà Triệu Ẩu khởi nghĩa
– 554 Vua Lý đánh Tàu
– 608 Tàu lấy nước ta
– 939 Vua Ngô khởi nghĩa
– 968 Đời Đinh (12 năm)

…………………………………………….

– 1794 Gia Long thông với Tây
– 1893 Ông Phan Đình Phùng khởi nghĩa
– 1940 Bắc Sơn và Đô Lương khởi nghĩa
– 1941 Nam kỳ khởi nghĩa
– 1945 Việt nam độc lập

Nhận định “Nga nhất định thắng, Đức nhất định bại. Anh-Mỹ sẽ được, Nhật Bản sẽ thua” trong lúc cục diện chiến tranh đang nghiêng hẳn về phe phát xít thể hiện một lòng tin, một cái nhìn sáng suốt về sự phát triển của lịch sử, hay như ta vẫn nói, về “thế lớn trong thiên hạ”. Làm được điều này đã là thiên tài, nhưng chưa làm cho người đời sau kinh ngạc bằng việc nói lên một điều cụ thể.

Năm 1942 đen tối nhường ấy mà ấn định được cái mốc “1945 Việt Nam độc lập” thì quả là thiên tài, thiên tài đến lạ lùng!

Theo: Công thương online

hcmpc.com.vn

Quan niệm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

(TCTG) – Ở Hồ Chí Minh, mục tiêu chung của chủ nghĩa xã hội và mục tiêu phấn đấu của Người là một, đó là độc lập, tự do cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân; đó là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Đó cũng chính là mục tiêu tổng quát theo cách diễn đạt của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội.

Vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh đã hình thành một hệ thống quan điểm hết sức đặc sắc về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Trong phương thức tiếp cận chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh có nhiều định nghĩa khác nhau:

– Định nghĩa chủ nghĩa xã hội như một chế độ xã hội hoàn chỉnh đối lập với chế độ tư bản chủ nghĩa;

– Định nghĩa chủ nghĩa xã hội bằng cách chỉ ra các mặt riêng biệt của nó (về kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá, quan hệ quốc tế…);

– Định nghĩa chủ nghĩa xã hội bắng cách nêu bật mục tiêu (tổng quát và cụ thể) của nó, v.v.

Trong các cách tiếp cận đó, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Bởi lẽ, theo Người, mục tiêu là sự thể hiện cô đọng nhất các bản chất đặc trưng, tính ưu việt vốn hàm chứa trong chế độ xã hội tương lai mà chúng ta xây dựng.

Hồ Chí Minh ý thức được rõ ràng giá trị của chủ nghĩa xã hội về mặt lý luận là quan trọng, nhưng vấn đề quan trọng hơn là tìm ra con đường để thực hiện những giá trị này. Điểm then chốt, có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng của Hồ Chí Minh là đề ra các mục tiêu chung và mục tiêu cụ thể xây dựng chủ nghĩa xã hội trong mỗi giai đoạn cách mạng khác nhau ở nước ta. Chính thông qua quá trình đề ra các mục tiêu đó, chủ nghĩa xã hội được biểu hiện với việc thỏa mãn các nhu cầu, lợi ích thiết yếu của người lao động, theo các nấc thang từ thấp đến cao, tạo ra tính hấp dẫn, năng động của chế độ xã hội mới.

Vào những năm hai mươi thế kỷ XX, Hồ Chí Minh xác định mục tiêu chung của chủ nghĩa xã hội là đảm bảo cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no, việc làm cho mọi người và niềm vui, hoà bình, hạnh phúc cho mọi người. Nghĩa là, chủ nghĩa xã hội hướng tới bảo đảm các giá trị làm người chân chính trong quá trình phát triển các quan hệ xã hội mang đúng bản chất người cao quý.

Vào những năm năm mươi, sáu mươi, khi miền Bắc trực tiếp xây dựng chủ nghĩa xã hội, Người xác định rõ mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là thoả mãn các nhu cầu sinh tồn và phát triển của con người: chủ nghĩa xã hội trước hết nhằm làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc; hoặc ở mức độ khái quát cao hơn: mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là không ngừng cải thiện và nâng cao đời sống của nhân dân, cả đời sống vật chất và cả đời sống tinh thần. Đây là cách diễn đạt Người thường dùng nhất.

Ở Hồ Chí Minh, mục tiêu chung của chủ nghĩa xã hội và mục tiêu phấn đấu của Người là một, đó là độc lập, tự do cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân; đó là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Đó cũng chính là mục tiêu tổng quát theo cách diễn đạt của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội.

Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội cũng chính là khát vọng, mong muốn cháy bỏng mà Hồ Chí Minh hy sinh cả cuộc đời mình để phấn đấu vươn tới: xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, giàu mạnh và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng của thế giới.

Quan niệm của Hồ Chí Minh về khát vọng, về mục tiêu cao cả của chế độ xã hội mới-chủ nghĩa xã hội-rất gần với triết lý nhân sinh của Phật giáo: “Dĩ chúng tâm vi kỷ tâm” (lấy cái tâm của người khác làm cái tâm của chính mình). Vì thế, cách nói và diễn đạt này dễ đi vào lòng người, dễ được chấp nhận, bởi nó không hoàn toàn xa lạ với tâm thức truyền thống của dân tộc Việt Nam. Bằng cách xác định mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh cho thấy, khi đề cập đến một vấn đề hiện đại, Người vẫn đứng trên mảnh đất cội rễ truyền thống Việt Nam, tạo nên một dòng chảy văn hoá liền mạch từ quá khứ, qua hiện tại, để hướng tới tương lai theo một hệ chuẩn giá trị nhất quán, nhân văn và nhân đạo.

Theo Hồ Chí Minh, hiểu mục đích của chủ nghĩa xã hội, nghĩa là nắm bắt nội dung cốt lõi con đường lựa chọn và bản chất thực tế xã hội mà chúng ta phấn đấu xây dựng. Tiếp cận chủ nghĩa xã hội về phương diện mục đích là một nét đặc sắc, thể hiện phong cách và năng lực tư duy lý luận khái quát của Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh có nhiều cách đề cập mục đích của chủ nghĩa xã hội. Có khi Người trả lời một cách trực tiếp: “Mục đích của chủ nghĩa xã hội là gì? Nói một cách đơn giản và dễ hiểu là: không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động”(1). Hay “mục đích của chủ nghĩa xã hội là không ngừng nâng cao mức sống của nhân dân”(2). Hoặc Người diễn giải mục đích tổng quát này thành các tiêu chí cụ thể: “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc, già không lao động được thì nghỉ, những phong tục tập quán không tốt dần được xóa bỏ… Tóm lại, xã hội ngày càng tiến bộ, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội”(3). Nhiều khi Người nói một cách gián tiếp, không nhắc đến chủ nghĩa xã hội, nhưng xét về bản chất, đó cũng chính là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội theo quan niệm của Người. Kết thúc bản Tài liệu tuyệt đối bí mật (sau gọi là Di chúc), Hồ Chí Minh viết: “Điều mong muốn cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”(4).

Hồ Chí Minh quan niệm mục tiêu cao nhất của chủ nghĩa xã hội là nâng cao đời sống nhân dân. Đó là sự tin tưởng cao độ vào lý tưởng vì dân. Theo Người, muốn nâng cao đời sống nhân dân, phải tiến lên chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội là nâng cao đời sống nhân dân, quan điểm này có ý nghĩa sâu sắc đối với các thế hệ người Việt Nam trong quá trình xây dựng một xã hội mới tốt đẹp hơn. Cách tư duy lấy chủ nghĩa xã hội làm điểm xuất phát tuyệt đối, làm cơ sở cho mọi hoạt động thực tiễn cần phải được bổ sung bằng sự tác động trở lại và chủ nghĩa xã hội cũng phải được làm rõ bởi hàng loạt các quan hệ khác. Mục đích nâng cao đời sống toàn dân là tiêu chí tổng quát để khẳng định và kiểm nghiệm tính chất xã hội chủ nghĩa của các lý luận chủ nghĩa xã hội và chính sách thực tiễn. Trượt ra khỏi quỹ đạo đó thì hoặc là chủ nghĩa xã hội giả hiệu, hoặc không có gì tương thích với chủ nghĩa xã hội.

Chỉ rõ và nêu bật mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh đã khẳng định tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội so với chế độ xã hội đã tồn tại trong lịch sử, chỉ ra nhiệm vụ giải phóng con người một cách toàn diện, theo các cấp độ: từ giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, xã hội đến giải phóng từng cá nhân con người, hình thành các nhân cách phát triển tự do. Quan niệm này của Hồ Chí Minh hoàn toàn thống nhất với quan điểm mác-xít khi nói về xã hội tương lai, với tư cách là một liên hợp, trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện phát triển tự do của tất cả mọi người và đạt đến chiều sâu nhất, triệt để nhất.

Quá trình đi tới mục tiêu cuối cùng của chủ nghĩa xã hội là một quá trình lâu dài, trải qua một thời kỳ quá độ, nhiều bước trung gian, quá độ nhỏ. Đối với cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, Hồ Chí Minh cho rằng: “Chúng ta phải xây dựng một xã hội hoàn toàn mới xưa nay chưa từng có trong lịch sử dân tộc ta. Chúng ta phải thay đổi triệt để những nếp sống, thói quen, ý nghĩ và thành kiến có gốc rễ sâu xa hàng ngàn năm. Chúng ta phải thay đổi quan hệ sản xuất cũ, xóa bỏ giai cấp bóc lột, xây dựng quan hệ sản xuất mới không có bóc lột áp bức. Muốn thế, chúng ta phải dần dần biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước công nghiệp… Chúng ta phải biến một nước dốt nát, cực khổ thành một nước văn hóa cao và đời sống tươi vui hạnh phúc”(5). Như vậy, Hồ Chí Minh đã xác định các mục tiêu cụ thể của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đó là:

Mục tiêu chính trị: trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chế độ chính trị phải là chế độ chính trị dân chủ, do nhân dân lao động là chủ và làm chủ; Nhà nước là của dân, do dân và vì dân. Nhà nước có hai chức năng: dân chủ với nhân dân, chuyên chính với kẻ thù của nhân dân. Hai chức năng đó không tách rời nhau, mà luôn luôn đi đôi với nhau. Một mặt, Hồ Chí Minh nhấn mạnh phải phát huy quyền dân chủ và sinh hoạt chính trị của nhân dân; mặt khác, lại yêu cầu phải chuyên chính với thiểu số phản động chống lại lợi ích của nhân dân, chống lại chế độ xã hội chủ nghĩa.

Để phát huy quyền làm chủ của nhân dân, Hồ Chí Minh chỉ rõ con đường và biện pháp thực hiện các hình thức dân chủ trực tiếp, nâng cao năng lực hoạt động của các tổ chức chính trị – xã hội của quần chúng; củng cố các hình thức dân chủ đại diện, tăng cường hiệu lực và hiệu quả quản lý của các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp, xử lý và phân định rõ chức năng của chúng.

Hồ Chí Minh xác định rõ dân chủ như một giá trị phổ biến mà loài người mong muốn và đến chế độ xã hội chủ nghĩa giá trị phổ quát này mới đạt đến mức độ hoàn bị nhất. Giá trị dân chủ là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội được Người diễn đạt bằng một thứ ngôn ngữ bình dị, nhưng ẩn chứa nhiều điều lớn lao, hệ trọng: dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân; chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân là người chủ; bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân. Mặt khác, Người còn xác định dân chủ như một động lực của sự phát triển: thực hành dân chủ là chiếc chìa khoá vạn năng giải quyết mọi khó khăn; dân chủ là chìa khoá của mọi tiến bộ và phát triển… Quan niệm này đặt nền tảng và giữ vai trò chủ đạo trong lý luận xây dựng Nhà nước, xây dựng mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân, nhất là trong điều kiện Đảng cầm quyền và lãnh đạo Nhà nước.

Mục tiêu kinh tế: nền kinh tế mà chúng ta xây dựng là nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với công-nông nghiệp hiện đại, khoa học-kỹ thuật tiên tiến, cách bóc lột theo chủ nghĩa tư bản được bỏ dần, đời sống vật chất của nhân dân ngày càng được cải thiện và nâng cao.

Nền kinh tế xã hội chủ nghĩa ở nước ta cần phát triển toàn diện các ngành mà những ngành chủ yếu là công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp, trong đó “công nghiệp và nông nghiệp là hai chân của nền kinh tế nước nhà”. Kết hợp các loại lợi ích kinh tế là vấn đề rất được Hồ Chí Minh quan tâm. Người đặc biệt nhấn mạnh chế độ khoán là một trong những hình thức của sự kết hợp lợi ích kinh tế của các chủ thể trên các quy mô khác nhau.

Mục tiêu văn hóa-xã hội: theo Hồ Chí Minh, văn hóa là một mục tiêu cơ bản của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Văn hóa thể hiện trong mọi sinh hoạt tinh thần của xã hội, đó là xóa nạn mù chữ, xây dựng, phát triển giáo dục, nâng cao dân trí, xây dựng phát triển văn hóa nghệ thuật, thực hiện nếp sống mới, thực hành vệ sinh phòng bệnh, giải trí lành mạnh, bài trừ mê tín dị đoan, khắc phục phong tục tập quán lạc hậu…

Về bản chất của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Người khẳng định “phải xã hội chủ nghĩa về nội dung”; để có một nền văn hóa như thế ta phải phát huy vốn cũ quý báu của dân tộc, đồng thời học tập văn hóa tiên tiến của thế giới. Phương châm xây dựng nền văn hóa mới là: dân tộc, khoa học, đại chúng. Hồ Chí Minh nhắc nhở phải làm cho phong trào văn hóa có bề rộng, đồng thời phải có bề sâu. Trong khi đáp ứng mặt giải trí thì không được xem nhẹ nâng cao tri thức của quần chúng, đồng thời Người luôn luôn nhắc nhở phải làm cho văn hóa gắn liền với lao động sản xuất…

Hồ Chí Minh đặt lên hàng đầu nhiệm vụ của cách mạng xã hội chủ nghĩa là đào tạo con người. Bởi lẽ, mục tiêu cao nhất, động lực quyết định nhất của công cuộc xây dựng chế độ xã hội mới chính là con người. Trong lý luận xây dựng con người xã hội chủ nghĩa, Hồ Chí Minh quan tâm trước hết về mặt tư tưởng. Người cho rằng: “Muốn có con người xã hội chủ nghĩa, phải có tư tưởng xã hội chủ nghĩa”, tư tưởng xã hội chủ nghĩa ở mỗi con người là kết quả của việc học tập, vận dụng, phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, nâng cao lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội.

Hồ Chí Minh luôn luôn nhấn mạnh đến trau dồi, rèn luyện đạo đức cách mạng; đồng thời Người cũng rất quan tâm đến mặt tài năng, luôn tạo điều kiện để mỗi người rèn luyện tài năng, đem tài năng cống hiến cho xã hội. Tuy vậy, Hồ Chí Minh luôn gắn tài năng với đạo đức. Theo người, “có tài mà không có đức là hỏng”; dĩ nhiên đức phải đi đôi với tài, nếu không có tài thì không thể làm việc được. Cũng như vậy, Người luôn gắn phẩm chất chính trị với trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ trong đó “chính trị là tinh thần, chuyên môn là thể xác”. Hai mặt đó gắn bó thống nhất trong một con người. Do vậy, tất cả mọi người đều phải luôn luôn trau dồi đạo đức và tài năng, vừa có đức vừa có tài, vừa “hồng” vừa “chuyên”.

Quan niệm của Hồ Chí Minh về mục tiêu của chủ nghĩa xã hội được Đảng Cộng sản Việt Nam kế thừa, phát triển và ngày càng hoàn thiện dần cùng với sự phát triển tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội nói chung. Điều này được thể hiện rõ trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991). 25 năm sau, quan niệm trên đây về mục tiêu của chủ nghĩa xã hội đã được Đại hội XI của Đảng sửa đổi, bổ sung và diễn đạt lại: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng tiến bộ; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”(6).

Nếu so sánh với quan niệm được V.I.Lênin trình bày trong “Nhà nước và cách mạng” về mục tiêu của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, có thể thấy rằng có một gạch nối rất nhất quán giữa V.I.Lênin với Hồ Chí Minh, Cương lĩnh (1991) hay Văn kiện Đại hội XI Đảng Cộng sản Việt Nam. Điều đó cho thấy mục tiêu của chủ nghĩa xã hội nói riêng, của chủ nghĩa cộng sản nói chung có thể được thể hiện ra ở rất nhiều thuộc tính, thêm nữa, phần lớn các thuộc tính ấy đều được nêu ra dưới dạng dự báo, cho nên việc liệt kê các thuộc tính ấy ở các tác giả khác nhau có những khác nhau, kể cả ở các tác gia kinh điển. Điều đó khiến cho nhu cầu tiếp cận chủ nghĩa xã hội từ mục tiêu cơ bản của nó đang dần trở nên bức thiết hơn so với cách liệt kê các đặc trưng chế độ xã hội mà chúng ta xây dựng./.

PGS, TS. PHẠM NGỌC ANH

__________________________

(1), (2), (3) – Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQG, H, 1995, t.10, tr.271, 159, 191.
(4) – Sđd, t.12, tr.506.
(5) – Sđd, t.8, tr.493-494.
(6) – ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Nxb. CTQG, H, 2011, tr. 70.

tuyengiao.vn

Giá trị thực tiễn trong di huấn của Bác Hồ

(GD&TĐ) – Đã 40 năm kể từ ngày Bác Hồ kính yêu của chúng ta về với Thế giới Người Hiền và cũng là 40 năm toàn Đảng toàn dân ta phấn đấu không ngừng để làm theo các ước nguyện đã được ghi trong Di chúc mà Người để lại trước lúc đi xa. Những di huấn trong bản Di chúc quý báu đó thực sự là kết tinh của toàn bộ tư tưởng Hồ Chí Minh, soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi; là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta; là kim chỉ nam hành động xây dựng và bảo vệ Nhà nước Việt Nam XHCN của dân, do dân và vì dân, đặc biệt là trong công cuộc đổi mới, hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay của nước nhà.

Sinh thời, nhiều lần Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Thắng đế quốc và phong kiến là tương đối dễ; thắng bần cùng và lạc hậu còn khó hơn nhiều” (Hồ Chí Minh toàn tập, tập 10 trang 4). Nếu trong chiến đấu chống ngoại xâm đã có nhiều khó khăn, thử thách thì trong xây dựng hòa bình, đổi mới đất nước lại càng nhiều khó khăn thử thách. Người xưa đã dạy “Dựng khó, giữ càng khó” chính là lẽ đó. Đưa đất nước đi lên CNXH là phải xây dựng lại từ quan hệ sản xuất đến lực lượng sản xuất, từ cơ sở hạ tầng đến kiến trúc thượng tầng, xây dựng kinh tế và phát triển văn hóa “nhằm làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc” (Hồ Chí Minh toàn tập, tập 10 trang 17). Đây là sự nghiệp rất to lớn, nặng nề và phức tạp, một cuộc chiến đấu mới mà thắng lợi không thể dễ dàng giành được trong thời gian ngắn. Những lời dạy đó của Người đã được thực tế hơn 30 năm xây dựng đất nước và hơn 20 năm đổi mới của chúng ta chứng minh rất rõ nét.

Ngày nay, các thế hệ cán bộ, nhân dân đang đồng lòng, chung sức xây dựng đất nước “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”

Trong Di chúc, Người đã dặn dò rất kỹ về những việc cần làm ngay sau khi kết thúc chiến tranh để xây dựng đất nước “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” như lời Người hằng mong muốn. Ngay trong bản Di chúc soạn thảo năm 1965, Người đã dặn dò: “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”. Lần viết bổ sung bản Di chúc vào tháng 5 năm 1968, Người nêu cụ thể hơn: “Ở đây nói về kế hoạch xây dựng lại thành phố và làng mạc đẹp đẽ, đàng hoàng hơn trước chiến tranh. Khôi phục và mở rộng các ngành kinh tế. Phát triển công tác vệ sinh, y tế. Sửa đổi chế độ giáo dục cho hợp với hoàn cảnh mới của nhân dân, như phát triển các trường nửa ngày học tập nửa ngày lao động. Củng cố quốc phòng…”. Để làm được điều đó – một công việc mà Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã chỉ rõ trong Di chúc là “rất to lớn, nặng nề và phức tạp, mà cũng rất vẻ vang”, một “cuộc chiến đấu mới” – trước hết phải chú trọng: “xây dựng và chỉnh đốn Đảng”; phải “giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng”; “mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”; “bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau”…

Theo Người, cái khó khăn của “cuộc chiến đấu mới” không phải chỉ ở tầm vóc và quy mô của sự nghiệp xây dựng, mà còn ở chỗ mỗi người phải khắc phục những yếu kém của mình, chiến thắng “giặc ở trong lòng” mình, “giặc nội xâm” ở ngay trong tổ chức mình. Đó là loại giặc “vô hình, vô ảnh” nhưng rất mạnh. Nó “luôn luôn lẩn lút trong mình ta”, “khó thấy khó biết”. “Việc tranh đấu với kẻ địch ở tiền tuyến bằng súng, bằng gươm còn dễ, nhưng việc tranh đấu với kẻ địch trong người, trong nội bộ, trong tinh thần là một khó khăn, đau xót” (Hồ Chí Minh toàn tập, tập 7 trang 36). Tinh thần đó, Người đã một lần nữa nhấn mạnh trong bản Di chúc (viết bổ sung tháng 5 năm 1968): “Đây là một cuộc chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi. Để giành lấy thắng lợi trong cuộc chiến đấu khổng lồ này cần phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân”.

Cầu Mỹ ThuậnCầu Mỹ Thuận

Cuộc “chiến đấu khổng lồ” ấy Đảng và nhân dân ta đã đối mặt và bước đầu “chiến thắng“ với những thành quả đạt được từ công cuộc đổi mới, tạo tiền đề cho việc hội nhập kinh tế quốc tế ngày nay của nước nhà. Nhưng quả thật như lời Bác đã dạy, những khó khăn thách thức vẫn còn nguyên đó, dẫu dưới hình thức khác, trong hoàn cảnh khác, song hành cùng sự vận động của đất nước và những biến động không ngừng của thế giới cũng như trong khu vực. Đường lối đổi mới được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng xác định và được các Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, VIII, IX phát triển là nhằm tìm ra mô hình xây dựng CNXH ở nước ta, tìm ra con đường đưa đất nước đi lên CNXH với những hình thức, biện pháp, bước đi thích hợp. Chúng ta chấp nhận kinh tế thị trường, nhưng đó là kinh tế thị trường định hướng XHCN, một mô hình chưa từng thấy trên thế giới, nhưng bước đầu chúng ta đã đạt được những thành công nhất định như thực tế chứng minh. Chúng ta chủ trương hội nhập toàn diện kinh tế thế giới, thực hiện chính sách đối ngoại mở rộng, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế với chủ trương “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới”, vì hòa bình, độc lập và phát triển. Song hành với đó, chúng ta vẫn giữ vững được độc lập tự chủ, giữ vững chủ quyền lãnh thổ quốc gia, giữ vững những thành quả của sự nghiệp Cách mạng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và những bậc tiền bối đã mang lại cho Đảng, cho nhân dân ta, xây dựng đất nước ngày càng phát triển, thực sự “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” như ước nguyện của Người. Đó chính là nhờ toàn Đảng, toàn dân ta đã thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như những lời di huấn quý báu trong Di chúc của Người về việc xây dựng đất nước sau chiến tranh, thực hiện đúng điều mong muốn sau cùng, mà cũng là mong muốn lớn nhất của Người nhắn nhủ lại trong bản Di chúc: “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh…”.

Như lời Người đã dạy trước lúc đi xa, công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước của chúng ta ngày nay dù đã đạt được một số thành tựu quan trọng, bước đầu hội nhập với thế giới, nhưng những khó khăn thách thức vẫn còn hết sức to lớn; cái nghèo đói vẫn còn hiện hữu ở nhiều địa phương trên cả nước; các thế lực thù địch vẫn tìm nhiều cách, nhiều thủ đoạn với những âm mưu đen tối để chống phá sự nghiệp Cách mạng của nhân dân ta. Để vượt qua được những khó khăn thách thức trong thời đại mới này, đưa đất nước thực sự phát triển, “sánh vai với các cường quốc năm châu” như ước nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước ta đã xác định (và đã đặt ra thành Cương lĩnh tại Đại hội X) phải tranh thủ nắm bắt thời cơ, tận dụng vận hội, vượt qua mọi thử thách, đẩy lùi mọi nguy cơ để đưa đất nước đi lên. Vì vậy, Đảng ta đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân phải có một sự nỗ lực phi thường. Sự nỗ lực ấy trước hết tập trung vào việc nâng cao hai mặt trí và đức của mỗi người, cũng như nâng cao mặt bằng trí – đức của toàn xã hội. Phải có cái trí ngang tầm thời đại và cái đức theo gương đạo đức Hồ Chí Minh với toàn bộ tư tưởng của Người – mà kết tinh là bản Di chúc Người để lại trước lúc đi xa – chúng ta mới thực hiện được thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa, phát triển đất nước theo định hướng CNXH, chúng ta mới đi tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đó chính là ước nguyện lớn lao nhất của Chủ tịch Hồ Chí Minh trước lúc đi xa và là nhiệm vụ mà Đảng và nhà nước ta đã đặt ra với những thành quả bước đầu đạt được như ngày nay chúng ta đang có.

Thanh Hậu
(Học viện Chính trị – Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh)

nhoNguoicha

Bác Hồ trước họa “diệt cộng, cầm Hồ”

QĐND – Chính quyền nhân dân non trẻ đang trong cơn nước sôi lửa bỏng phải đối mặt với hai kẻ thù ngoại xâm: Pháp và quân Tưởng Giới Thạch. Một cán bộ hỏi Bác: “Thưa Cụ, trong hai tên giặc ấy, tên nào đáng sợ hơn? Bác hài hước nói: “Sợ nhất các chú!”.

Cuộc chạy đua nước rút

Tại Hội nghị “Chia phần” của phe thắng phát xít ngày 24-7-1945, nhờ tài “đi đêm” Chính phủ của Tưởng Giới Thạch đã được Đồng minh cho phép đưa quân vào miền Bắc Việt Nam từ vĩ tuyến 16 để nhận sự đầu hàng của quân đội Nhật hoàng (phía Nam là quân Anh). Dàn xếp xong trong nội bộ, ngày 9-8, Chính phủ Tưởng tuyên bố cử tướng Lư Hán làm Tư lệnh 20 vạn Hoa quân nhập Việt. Nhận lệnh, Lư Hán triệu ngay đại diện quân Nhật tới Côn Minh yêu cầu: Thả ngay tù binh Đồng minh; Chỉ giao chính quyền ở miền Bắc cho các nhà chức trách Trung Quốc; Quân Nhật phải giữ trật tự chờ đến khi quân Tưởng Giới Thạch đến.

Cùng ngày 27-8, hai cánh quân của Lư Hán và Tiêu Văn tràn sang nước ta kéo theo bọn Việt gian tay sai thuộc hai đảng Việt quốc, Việt cách của Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Tường Tam và Nguyễn Hải Thần với chủ mưu “diệt cộng, cầm Hồ” lập Chính phủ thân Tưởng Giới Thạch.

Chủ tịch Hồ Chí Minh trên đường trở về ATK. Ảnh tư liệu

Bác Hồ ở trên chiến khu ốm nặng, phải tối 26-8 mới về tới 48 Hàng Ngang, Hà Nội. Người chỉ thị tổ chức ngay lễ ra mắt Chính phủ lâm thời để tuyên bố trước thế giới: Nước Việt Nam đã có chính quyền mới từ ngày 2-9-1945. Một tuần sau, ngày 9-9, Tiêu Văn mới tới Hà Nội. Hai ngày sau, Lư Hán vội đáp máy bay đến Gia Lâm, lập Đại bản doanh tại Phủ toàn quyền. Quân Tưởng Giới Thạch ngang nhiên coi chúng là chủ của đất nước này.

Chữ “Nhẫn”

Lúc bấy giờ, báo chí nước ngoài mô tả quân Tưởng: “Đội quân chân đất, bụng lép, quyết bám vào cuộc nhập Việt để mưu sống. Chúng vơ vét mọi thứ muốn lấy hay cần lấy dù thứ đó là của người Việt, người Pháp hay của ngoại kiều nào, bất kể giàu hay nghèo. Các tướng tá chỉ huy càng tham tàn, hà hiếp mọi người, ở mọi nơi làm gương cho binh sĩ…”.

Riêng Lư Hán càng hống hách hơn, đòi Hồ Chí Minh phải báo cáo cụ thể tổ chức và quân số các lực lượng vũ trang trong quân đội, công an, dân quân tự vệ, đòi sắp xếp lại bộ máy chính phủ, thậm chí đòi đổi lại giờ Việt Nam theo giờ Trung Quốc… Ngày 28-9, Bộ trưởng Hà Ứng Khâm – đặc phái viên của quân Tưởng bay tới Hà Nội danh nghĩa là chứng kiến lễ tiếp nhận đầu hàng của quân Nhật, mục tiêu chính lại là nhằm: “Diệt cộng, cầm Hồ”. Chúng thúc ép thuộc cấp phải nhanh chóng chớp thời cơ trước khi quân Pháp đánh ra Bắc Bộ – kể cả khiêu khích kiếm cớ can thiệp lật đổ.

Tiêu Văn muốn lập công đầu, gửi thư cho Hồ Chí Minh, nói: “Kính gửi Cụ Hồ Chí Minh. Yêu cầu Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa cho mượn một cái nồi nấu cơm”.

Đọc thư, mọi người vô cùng phẫn nộ thưa lại với Bác: “Chúng khinh ta quá đáng”!
Bác nhẹ nhàng nói: “Nền độc lập ta mới giành được ví như chiếc bình ngọc quý. Có con kiến bò miệng bình, ta chỉ cần lấy cái que nhỏ bắc cầu cho kiến bò đi, hay lấy gậy đập chết kiến – Chắc gì kiến chết mà bình lại vỡ? Họ mượn cái nồi nấu cơm, ta cho mượn việc gì các chú phải nổi nóng?”.

Ngày 11-11-1945, Đảng Cộng sản Đông Dương tuyên bố tự giải tán (thực tế là rút vào hoạt động bí mật) để “cứu mạng sống” cho bọn Lư Hán – Tiêu Văn không bị Tưởng Giới Thạch trị tội “bất tuân thượng lệnh”. Tuy nhiên, ngoài nguy cơ lộ liễu từ phía quân Tưởng và lũ tay sai, bọn Phòng nhì Pháp đã bắt đầu tung mạng lưới do thám ra Hà Nội. Ngay lập tức, Bác chỉ đạo, ngoài tổ an ninh đặc biệt do hai ông Nguyễn Lương Bằng và Trần Đăng Ninh phụ trách, phải lập thêm trung đội đặc nhiệm nữa do Đàm Quang Trung phụ trách rải quân ở nhiều nơi để lừa chúng.

Vụ bắt cóc bất thành

Trong khi theo lệnh Tưởng Giới Thạch (do chủ trương của Mỹ muốn để Pháp thay thế Trung Hoa giải giáp quân đội Nhật ở Bắc Đông Dương). Đại bản doanh của Lư Hán – Tiêu Văn, một mặt tiến hành các tổ cảnh giới ở Thiên Tân, Thượng Hải, Quảng Châu, một mặt khác vẫn tiếp tục mưu kế “cầm Hồ”.

Sáng 25-11-1945, Thứ trưởng Bộ Nội vụ Hoàng Hữu Nam nhận được một công văn “Thượng khẩn” của Lư Hán mời Bác tới Bộ tư lệnh đại diện quân Đồng minh có việc. Cả các ông Võ Nguyên Giáp, Vũ Đình Huỳnh đều bàn thưa với Bác không nên đi, mà chỉ cử đặc phái viên Chủ tịch nước đến gặp là đủ. Bác nói: “Lư Hán lúc này lấy danh nghĩa Đồng minh giở giọng “thiên triều” ra chỉ lệnh cho “chư hầu”. Bác không đến gặp, nó tưởng ta sợ nó. Nó được nước, có thể làm điều càn bậy hơn. Miếng võ hiểm phải có “đòn văn” hiểm hơn chứ!”.

Bác nói chuyện qua điện thoại với ngài Patti, đại diện phái bộ Mỹ hẹn gặp vào buổi chiều, và bảo ông Huỳnh ngày hôm đó không được rời phòng làm việc. Xe lên Phủ toàn quyền, viên sĩ quan quân Tưởng lễ phép thưa: “Tướng quân Lư ngài bận”, y dẫn Bác xuống 64 Nguyễn Du gặp tướng quân Tiêu Văn. Bọn họ lại ngang ngược cho Triệu Bách Xương ra cổng xin lỗi Bác và đưa Người tới Quân đoàn 63 gặp Quân trưởng Chu Phúc Thành (địa điểm Bệnh viện 103 bây giờ). Bác nhận ra sự nguy hiểm do chúng đã tách ba anh bảo vệ đi theo. Người đưa mắt nhắc anh em “bình tĩnh”!

Chúng giữ Bác đến chiều. Bác bí mật cử người về đánh động cho Mỹ biết. Lập tức, ông Patti đến, ông Vũ Đình Huỳnh kể lại sự việc. Ông bạn Mỹ tỏ rõ sự bất bình, nói:

– Chúng tôi can thiệp ngay việc này.

Hẳn là có tiếng nói của quan thầy, chúng không dám hành động liều lĩnh. Bác Hồ kính yêu của chúng ta an toàn trở về lãnh đạo cuộc kháng chiến…

Bài học của 65 năm trước, đến nay vẫn còn nguyên giá trị.

Trịnh Tố Long

qdnd.vn

Thông điệp của lãnh tụ Hồ Chí Minh từ căn cứ địa Thái Nguyên

Chúng tôi muốn hòa bình trong độc lập tự do

TP – Trong thư chúc mừng chính phủ mới của Pháp, Hồ Chủ tịch viết: “Chúng tôi mong chính phủ Pháp đình chỉ ngay cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn này và tin rằng dù có nhiều khó khăn vẫn có thể giải quyết một cách hoà bình và công bằng”.

Pôn Ramađiê thay Lêông Blum làm thủ tướng Chính phủ Pháp, tuyên bố trước quốc hội: Không thể giải quyết vấn đề Đông Dương bằng vũ lực. Ramađiê cử Bôlae làm cao ủy thay đô đốc Đácgiăngliơ. Đảng cộng sản Pháp ra nghị quyết “phải nối ngay những cuộc đàm phán với Chính phủ Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh…”.

Bác Hồ với đồng chí Phạm Văn Đồng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp tại ATK Định Hóa
(Tư  liệu nhà trưng bày ATK Định Hóa)

Những nỗ lực vãn hồi hòa bình của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Trong thư chúc mừng chính phủ mới của Pháp, Hồ Chủ tịch viết: “Chúng tôi mong chính phủ Pháp đình chỉ ngay cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn này và tin rằng dù có nhiều khó khăn vẫn có thể giải quyết một cách hoà bình và công bằng”.

Từ chiến khu Việt Bắc, Đài tiếng nói Việt Nam  truyền đi lời phát biểu của Bác:

…”Nhân dân Việt Nam chỉ mong muốn độc lập và thống nhất trong khối Liên hiệp Pháp, chúng tôi cam kết tôn trọng quyền lợi kinh tế và văn hoá Pháp ở Việt Nam”.

Phạm Khắc Hoè, nguyên Đổng lý văn phòng Triều đình Huế kể lại: Vào độ cuối tháng 4 năm 1947, ủy viên Cộng hòa Pháp ở miền Bắc, Đơ Pêrêra hỏi:

Ông có quen thân với thứ trưởng ngoại giao Hoàng Minh Giám không?

Ông Hoè cho biết từng học cùng trường Quốc học Huế với ông Giám. Sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời, ông là cộng sự của ông Giám trong nhiều tháng.

Chính phủ Pháp mới nhận được thông điệp của Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà đề nghị đình chiến, mở cuộc đàm phán  giải quyết xung đột Việt – Pháp, vậy ông Giám có phải là Đảng viên cộng sản không?

Không, ông Giám là nhà giáo yêu nước, được Hồ Chủ tịch rất tin tưởng…  đàm phán sẽ thành công nếu Việt Nam độc lập và thống nhất trong khối Liên hiệp Pháp – Đơ Pêrêra nhún vai… Còn Phạm Khắc Hoè sau đó cũng lên An toàn khu tham gia kháng chiến.

Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với 8 chiến sỹ bảo vệ do Người đặt tên: “Trường – Kỳ – Kháng – Chiến – Nhất – Định – Thắng – Lợi” đến Làng Xảo, Hợp Thành, Sơn Dương, Tuyên Quang (2/4/1947). Người chủ trì hội nghị cán bộ Trung ương Đảng “Bàn việc cụ thể hoá đường lối kháng chiến…”.

Kiên trì mục đích hòa bình, nhân đạo ngăn chặn chiến tranh, Chính phủ ta gửi thông điệp (25/4/1947) cho Bôlae đề nghị hai bên ngừng bắn, lập lại hoà bình ở Việt Nam. Bolae trả lời trên đài phát thanh sẽ cử một phái viên đến gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh để chuyển thông điệp.

Đại tướng  Võ Nguyên Giáp nhớ lại(1):

Đầu tháng 5/1947 Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Hoàng Minh Giám gặp Trung tá Uyn – Sơn, Người của Tổng lãnh sự Anh ở gần cầu Đuống:

– Ông có nhớ Pôn Muýt (Paul Must) không? Người có dịp gặp ông ở Hà Nội và tiếp kiến Chủ tịch Hồ Chí Minh trước ngày 19/12/1946. Ông ấy đang ở bên kia cầu Đuống và tha thiết muốn gặp ông.

Pôn Muýt tới và nói với Hoàng Minh Giám:

– Tôi muốn gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tôi được ủy nhiệm chuyển trực tiếp đến Chủ tịch một thông điệp của Cao ủy Bôlae…

– Tôi sẽ báo cáo với Hồ Chủ tịch và trả lời về quyết định của Người…. Có thể liên hệ với tôi bằng điện đàm – Pôn Muýt trao đổi quy ước liên lạc.

Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Hoàng Minh Giám kể lại(2):

Bác nhận định cuộc gặp này không mang lại kết quả gì đâu. Nhưng cần cho phái viên Pháp thấy quyết tâm chống xâm lược của Chính phủ và nhân dân Việt Nam để Bôlae và bộ tham mưu của chúng biết…

Chúng tôi muốn hòa bình trong độc lập tự do

Các chiến sỹ công binh dựng một nhà bốn mặt che kín bằng vải bạt dưới tán cây xanh tại một phố vắng trong ba giờ đồng hồ trước khi Pôn Muýt đến. Nhà chia làm hai phòng, một để Hồ Chủ tịch cùng Hoàng Minh Giám tiếp đón phái viên, phòng nhỏ hơn để bộ phận lễ tân làm việc.

Ông Tạ Quang Chiến, một trong 8 chiến sĩ bảo vệ giúp việc được Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt tên, nay đã ngoài 80 tuổi, ở phố Nguyễn Thái Học, Hà Nội, nhớ lại:

Đường đến thị xã Thái Nguyên cũng như địa điểm gặp gỡ được lực lượng bảo vệ phối hợp triển khai đề phòng tình huống xấu có thể xảy ra. Buổi chiều, đồng chí Kháng (Hoàng Hữu Kháng), Định (Võ Viết Định) và Lợi (Trần Định) bảo vệ Bác từ ATK về thị xã Thái Nguyên.

Khoảng 9 giờ tối ngày 11/5/1947 người chiến sỹ cảnh vệ mở cửa phòng khách để đồng chí Phan Mỹ và Pôn Muýt vào rồi đứng lại ngay. Dưới ánh đèn măng sông Pôn Muýt xúc động bắt tay Chủ tịch Hồ Chí Minh, Người tuy có gầy đi nhưng vẫn giản dị, lịch sự như trước đây ông đã được gặp tại 12 Ngô Quyền, Hà Nội.

Sau khi hỏi thăm khách chuyện đi đường, Hồ Chủ tịch mời Pôn Muýt uống nước chè đường, một đặc sản nổi tiếng của Thái Nguyên cho lại sức rồi nói:

Ông chuyển cho tôi bức hoàng điệp của ông Bôlae?

Pôn Muýt cảm ơn Hồ Chủ tịch vui lòng tiếp ông và xin phép đọc thuộc lòng bản thông điệp (không có văn bản) của Cao ủy Pháp Bôlae, đặt ra bốn điều kiện cho ngừng bắn: Quân đội Việt Nam phải nộp vũ khí cho Pháp/ Quân đội Pháp được quyền đi lại tự do trên đất nước Việt Nam/ Chính phủ Việt Nam phải trả lại cho Pháp tất cả những người bị bắt (mà họ gọi là con tin)/ Chính phủ Việt Nam phải trao cho Pháp tất cả những người nước ngoài (người Nhật và Pháp  chạy sang phía Việt Nam).

Chủ tịch Hồ Chí Minh nghiêm nét mặt, Người ôn tồn hỏi:

Ông Pôn Muýt, tôi biết ông đã tham gia cuộc kháng chiến chống Hítle của nhân dân Pháp, điều đó có đúng không ?

Thưa Chủ tịch, đúng.

Vậy nếu ở địa vị tôi, ông sẽ có thái độ thế nào với bản thông điệp của ông Bôlae? Ông có thể chấp nhận những điều kiện đó không?

Pôn  Muýt lúng túng không trả lời được.

Bác nói tiếp: Tôi nghe nói ông Bôlae cũng tham gia cuộc kháng chiến chống Hítle và có thành tích. Những điều kiện ông ấy đưa ra để ngừng bắn có ý nghĩa gì? Có nghĩa ông ấy đòi chúng tôi phải đầu hàng. Lại còn điều liên quan đến người nước ngoài đứng trong hàng ngũ kháng chiến Việt Nam chống thực dân. Nếu chấp nhận chúng tôi sẽ là kẻ hèn nhát. “Trong Liên hiệp Pháp không có chỗ cho những kẻ hèn nhát”. (3)

Pôn Muýt im lặng, gật đầu tỏ ý đồng tình, rồi nói:

– Tôi hiểu, thưa Chủ tịch tôi hiểu… – Thế rồi ông ta không nói tới bản thông điệp nữa. Bác giải thích về lập trường của Chính phủ và nhân dân ta, yêu chuộng hoà bình muốn có quan hệ với nhân dân Pháp nhưng kiên quyết kháng chiến để bảo vệ độc lập và thống nhất của Tổ quốc mình.

Pôn Muýt thừa nhận rằng đó là những tình cảm và ý chí chính đáng, hứa sẽ báo cáo lại với Cao ủy Bôlae. Bác nói:

– Chúng tôi muốn hoà bình, nhưng không phải là hoà bình với bất cứ giá nào! mà phải là hoà bình trong độc lập tự do.

Các đồng chí phục vụ bưng ra rượu sâm panh để Chủ tịch Hồ Chí Minh mời khách uống. Pôn Muýt uống cạn ly chia tay rồi khuất vào bóng đêm.

Cuộc gặp gỡ cuối cùng của Chủ tịch Hồ Chí Minh với đại diện Chính phủ Pháp ở thị xã Thái Nguyên 11/5/1947, thông điệp của Bác đã trở thành lời hịch non sông bảo vệ độc lập của dân tộc Việt Nam sau lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến.

“Đánh Pháp bằng trí tuệ của nhân dân Việt Nam”

Bốn ngày sau, Bác chủ trì phiên họp Hội đồng Chính phủ tại Sơn Dương để bàn về vấn đề ngoại giao với Pháp sau cuộc hội kiến giữa Người với Pôn Muýt…  Ngày 25/5/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh có “Thư gửi đồng bào(4)

… Người kêu gọi: “Mỗi công dân phải là một chiến sỹ, mỗi làng phải là một chiến hào”.

Tối ngày 20/5/1947 Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng các chiến sỹ bảo vệ giúp việc đến đồi Khau Tý, xã Điềm Mặc, ATK Định Hóa, xây dựng Phủ Chủ tịch đầu tiên ở Việt Bắc. Bác chủ trì họp Ban Thường vụ Trung ương Đảng, ra chỉ thị “Phá tan cuộc tấn công của giặc Pháp” đánh lên căn cứ địa Việt Bắc, bằng không quân, bộ binh, hải quân của 12.000 quân địch. Ta diệt, làm bị thương 7.200 tên, bắn rơi 18 máy bay, bắn chìm 16 tàu chiến, 38 ca nô, 255 xe thiết giáp, ô tô cùng 1.000 khẩu pháo, cối, thu 4.000 súng các loại…

Cũng cần nhắc lại rằng; trước năm 1946 Hồ Chủ tịch là thượng khách của Chính phủ Pháp. Người họp báo ở lâu đài Royal Monceau Paris, một nhà báo Pháp hỏi:

– Thưa Chủ tịch, Chủ tịch tuyên bố nếu Pháp cố tình mở chiến tranh xâm lược thì  quyết địch lại chứ không sợ. Vậy Chủ tịch đánh bằng gì ?

Bác đáp lại đanh gọn : “Đánh bằng trí tuệ của nhân dân Việt Nam”

Từ câu nói ở thủ đô Paris của Người, nhân dân Việt Nam đã biến thành bài học nhớ đời của quân viễn chinh Pháp ở chiến khu Việt Bắc.

————————–

(1) Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Chiến đấu trong vòng vây (Hữu Mai ghi), Tổng tập hồi ký, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội 2006, tr 435.
(2) Hoàng Minh Giám, Đánh bằng trí tuệ của nhân dân Việt Nam (Phí Văn Báo ghi), tạp chí Xưa và Nay số 267 (9/2006)
(3) Hoàng Minh Giám, S.đ.d, Tr 6
(4) Những lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội 1956, tập I, Tr 174 – 175

Đồng Khắc Thọ

tienphong.vn

Suy ngẫm về “Công bộc của dân”

Trong thư gửi “Uỷ ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng” được đăng trên báo Cứu quốc số ra ngày 17/10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Chúng ta phải hiểu rằng, các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh vác việc chung cho dân chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật. Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân ta phải hết sức tránh. Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc đó có nhiệm vụ điều hành bộ máy nhà nước vừa bắt đầu vào nền cộng hoà non trẻ và nặng tàn dư phong kiến nên đã dùng khái niệm công bộc để hướng dẫn cán bộ công chức phục vụ nhân dân. Ta hiểu “công bộc” là gì? Theo từ điển Hán-Việt, công có nghĩa là của chung, bộc có nghĩa đầy tớ, cụm từ “công bộc của dân” có nghĩa là “người đầy tớ chung của dân” hay người đầy tớ công vụ.

Xưa có truyện Liễu Tôn Nguyên thời nhà Đường mời rượu tiễn bạn là Tiết Tồn Nghĩa sắp đi làm quan khuyên rằng: “Phàm ra làm quan ở hạt nào, phải biết chức phận của mình là người làm việc cho dân, chớ không phải khiến dân làm việc cho mình. Dân ở trong hạt đã chịu nộp thuế để lấy tiền thuê quan giữ sự công bình cho dân. Mà nay ngán thay, thiên hạ ra làm quan, tiền thuế của dân thì biết lấy cả, còn công việc của dân thì trễ biếng, thường khi lại dụng làm ăn trộm của dân nữa…Nên kẻ làm quan, nếu còn biết công lý thì ai mà không chịu giữ gìn cố làm thế nào cho đáng đồng tiền thuê của dân?”.

Nay, nhìn lại lịch sử những năm tháng gian khổ trong hai cuộc kháng chiến hào hùng của dân tộc, biết bao tâm gương cán bộ, đảng viên đã quên mình vì nước vì dân, để lại tiếng thơm mãi cho đời sau. Đó thật sự là những con người từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà phục vụ. Và cũng chính vì vậy họ được nhân dân đùm bọc, tin yêu che chở và giúp đỡ vượt qua bao gian lao thử thách đến ngày đất nước thống nhất, độc lập tự do. So với những năm tháng khó khăn gian khổ của chiến tranh và những năm đầu sau khi đất nước thống nhất, thời mở cửa và hội nhập, đội ngũ cán bộ công quyền có cuộc sống đầy đủ hơn, có nhiều điều kiện, lợi thế để học tập mở mang kiến thức hơn thế hệ cha anh. Nhưng bên cạnh đó, cũng thường xuyên tiếp xúc với những cám dỗ vật chất mà bất cứ lúc nào, nơi nào cũng dễ bắt gặp.

Phải suy nghĩ, khi hiện nay, trên các trang báo hay ngoài xã hội, người dân lúc nói chuyện với nhau, mỗi khi nhắc đến cán bộ nhà nước, nhất là lãnh đạo ở cấp quận, huyện, xã, phường…thường dùng những từ xa lạ chỉ có trong thời phong kiến hay chế độ cũ như “quan huyện” rồi “lý trưởng”, hay nhẹ nhàng hơn mà khá phổ biến là “quan chức nhà nước”…

HCM1.jpgChủ tịch Hồ Chí Minh tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ hai của Đảng (2-1951).
Ảnh tư liệu TTXVN

Đau lòng, khi có những cán bộ đã không giữ được lập trường, không thắng được sự cám dỗ của vật chất tầm thường, để rồi làm trái với luật pháp, làm mất lòng tin của nhân dân. Có việc cán bộ ăn chặn tiền của dân, kể cả những đồng tiền cứu trợ bão lụt, tiền hỗ trợ tết cho người nghèo hay những vụ chia đất công hưởng lợi ở tỉnh này tỉnh kia… làm đau lòng những cán bộ, đảng viên chân chính.

Không thể vui khi có chuyện những “công bộc” lại đi hách dịch, vòi vĩnh, nhũng nhiễu, hành dân hơn là phục vụ nhân dân. Nơi tiếp đón công dân ở một vài cơ quan nhà nước vẫn được ghi là “Phòng tiếp dân” đã làm mất đi sự trịnh trọng và phần nào quyền của những người công dân khi đến liên hệ công việc.

Thấm thía, lời dạy của Bác luôn nhắc nhở những người làm trong các cơ quan công quyền luôn phải tự nhìn nhận lại bản thân để xem đã làm những việc có lợi cho dân hay chưa, đã xứng đáng với vai trò, vị trí “công bộc” của dân hay chưa. Lời dạy của Bác đến nay và mãi về sau vẫn luôn mang tính thời sự. Thật vậy, yếu tố con người đóng vai trò, bộ phận cực kỳ quan trọng trong cơ thể bộ máy nhà nước. Những hành vi sai phạm, biến chất, thoái hoá của cán bộ trong các cơ quan công quyền sẽ khó làm cho dân tin, dân phục, vô hình trung làm ảnh hưởng đến lòng tin của nhân dân với nhà nước, với chế độ. Một chính quyền “ của dân, do dân và vì dân” không thể chấp nhận việc tồn tại những “công bộc” vi phạm kỷ cương phép nước, bản thân biết sai mà vẫn làm, như vậy là có tội, là hại dân. Xử lý nghiêm, không nương nhẹ, không châm chước đối với những cán bộ này mới làm yên dân.

Luật pháp đã có (cán bộ, công chức không dám tham nhũng, làm trái)

Hoàn thiện khung pháp lý để điều chỉnh đối tượng là cán bộ, công chức là hết sức quan trọng. Pháp lệnh cán bộ, công chức 1998 quy định về cán bộ, công chức Điều 2 có nêu rõ: Cán bộ, công chức là công bộc của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, phải không ngừng rèn luyện phẩm chất đạo đức, học tập nâng cao trình độ và năng lực công tác để thực hiện tốt nhiệm vụ, công việc được giao.

Luật cán bộ, công chức số 22/2008/QH12 được Quốc hội thông qua ngày 13/11/2008, gồm 10 chương, 87 điều quy định về cán bộ, công chức; bầu cử, tuyển dụng, sử dụng, quản lý cán bộ, công chức, nghĩa vụ, quyền của cán bộ, công chức và điều kiện đảm bảo thi hành công vụ. Trong đó mục 2 Điều 8 có ghi: Tôn trọng nhân dân, tận tuỵ phục vụ nhân dân.

Cải cách thủ tục hành chính tiến tới một nền hành chính chuyên nghiệp ( cán bộ, công chức không thể tham nhũng, làm trái)

Thực hiện Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo phải nhanh chóng xây dựng cho được một chương trình cải cách hành chính có tính chiến lược, dài hạn của chính phủ qua việc ban hành quyết định số 136/2001/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010. Khẳng định mục tiêu xây dựng nền hành chính nhà nước dân chủ, trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại hoá. Một loạt chủ trương, giải pháp quan trọng được đưa ra như điều chỉnh chức năng và cải tiến phương thức hoạt động của Chính phủ, nguyên tắc bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực; tách quản lý nhà nước với hoạt động sản xuất kinh doanh, tách cơ quan quản lý công quyền với tổ chức sự nghiệp, dịch vụ công; cải cách thủ tục hành chính. Trong đó một giải pháp hết sức quan trọng đó là xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực, thiết lập kỷ cương, chống quan liêu, tham nhũng… Cải cách hành chính là vấn đề quan trọng trong việc củng cố, hoàn thiện bộ máy công quyền, có quan hệ trực tiếp đến lợi ích của nhân dân. Đến nay, sự chuyển biến tích cực đã có ở nhiều sở, ban, ngành và nhiều cán bộ, công chức. Tuy nhiên, trên thực tế, tỉnh thoảng vẫn còn xảy ra tình trạng “hành là chính” tại các cơ quan công quyền. Điều đó có nhiều nguyên nhân, trong đó thái độ, tinh thần trách nhiệm của cán bộ, công chức chiếm một phần không nhỏ. Đặt ra yêu cầu với mỗi cán bộ, công chức cần được giao chức trách, nhiệm vụ rõ ràng, cụ thể, thường xuyên phải kiểm tra, giám sát để kịp thời phát hiện và xử lý những sai phạm, thiếu sót của họ. Cải cách hành chính cần kết hợp với việc giáo dục đạo đức và văn hoá công sở.

Chế độ đãi ngộ (cán bộ, công chức không cần tham nhũng, làm trái)

Công bằng mà nói, hiện chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức chưa sát với thực tiễn cộng vụ mà mỗi cán bộ, công chức đảm nhiệm. Ở khía cạnh khác, sự bất cập trong chính sách tiền lương đối với cán bộ công chức tạo ra làn sóng cán bộ công chức bỏ việc, xin thôi việc và một bộ phận cán bộ công chức nhũng nhiễu, cửa quyền, hách dịch, tham nhũng… Để động viên cái tốt, động viên những cán bộ công chức luôn tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, thấy việc có lợi cho dân thì làm, luôn lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân, Chính phủ đã đưa ra 4 nội dung cải cách trong đó có nội dung: đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức. Theo đó, cải cách tiền lương và chế độ, chính sách đãi ngộ cần có sự điều chỉnh hợp lý. Phấn đấu để đạt được lợi ích vật chất tương xứng với tài năng đóng góp có ích cho xã hội của cán bộ, công chức. Lợi ích kinh tế cá nhân được tôn trọng cùng với lợi ích cộng đồng.

Nhân dịp kỷ niệm 77 năm thành lập Đảng (3/2/2007), Bộ Chính trị đã quyết định tổ chức cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” trong toàn Đảng, toàn dân. Đây là một chủ trương lớn mang tính cấp bách trong bối cảnh hiện nay và có ý nghĩa lâu dài đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Bởi vậy, lúc này hơn lúc nào hết, mỗi cán bộ, công chức cần xác định rõ vị trí của mình đã thực sự là “công bộc của dân” như lời dạy của Người ?

Nguyễn Thành Long

vietbao.vn

Từ triết lý “Dĩ bất biến ứng vạn biến” đến triết lý hành động Hồ Chí Minh

TCCS – Chủ tịch Hồ Chí Minh được bạn bè và các dân tộc ưa chuộng hòa bình trên khắp năm châu ca ngợi về sự kết hợp nhuần nhuyễn những nét tinh hoa trên thế giới. Sự kết hợp này được thể hiện rõ trong suy nghĩ và hành động của Người.

1 – Ngày 31-5-1946, trước khi đi Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói với cụ Huỳnh Thúc Kháng rằng: Tôi vì nhiệm vụ quốc dân giao phó phải đi xa ít lâu, ở nhà trăm sự khó khăn nhờ cậy ở Cụ cùng anh em giải quyết cho. Mong Cụ dĩ bất biến ứng vạn biến. Thực ra câu “Dĩ bất biến ứng vạn biến” chỉ là một vế trong đôi câu đối hoàn chỉnh mà vế thứ hai là “Dĩ chúng tâm vi kỷ tâm” (Lấy tâm chúng sinh làm tâm của mình) trong nền văn hóa, triết học phương Đông.

Như chúng ta đã biết, mối quan hệ giữa bất biến và vạn biến, giữa cái không thay đổi và cái thay đổi, giữa bản thể và hiện tượng, giữa cái nhất (cái một) và cái đa (cái nhiều),… là vấn đề trung tâm của triết học xuyên suốt từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây. Dĩ bất biến ứng vạn biến tức là lấy cái bất biến (không thay đổi) mà ứng phó với cái vạn biến (cái luôn thay đổi). Ý nghĩa triết lý trên là ở chỗ dù mọi sự vật hiện tượng thiên sai vạn biệt, phong phú, đa dạng, thay đổi khôn lường nhưng đều xoay quanh trục của nó, đó là bản thể, cái mà Trang Tử gọi là “Chốt của đạo”.

Trong mối quan hệ giữa bản thể và hiện tượng thì bản thể là bất biến, không sinh không diệt; còn các hiện tượng biến chuyển không ngừng nay còn mai mất. Trong mỗi nền triết học, cái bất biến – bản thể không thêm không bớt này được gọi bằng những cái tên khác nhau, chẳng hạn như “Brahman” trong triết học Ấn Độ, “Đạo” trong học thuyết Lão Trang, “Thái cực” trong Kinh dịch, “vật chất” trong chủ nghĩa duy vật, “tâm” trong chủ nghĩa duy tâm; …

Trong chủ nghĩa duy vật biện chứng, bản thể là vật chất, nhưng nó luôn vận động biến đổi, luôn chuyển hóa từ dạng này sang dạng khác; nó vĩnh viễn, vô cùng, vô tận; nó bất biến so với hiện tượng luôn luôn thay đổi. Mọi sự vật hiện tượng đều là những dạng cụ thể của vật chất, có kết cấu hoặc nguồn gốc vật chất, do vật chất sinh ra. Trong thế giới không có gì khác ngoài những quá trình vật chất đang vận động, chuyển hóa lẫn nhau, là nguồn gốc, nguyên nhân, kết quả của nhau.

2 – Ý nghĩa nhân sinh sâu xa của triết lý này còn là ở chỗ, trong cuộc sống nên nắm giữ cái lớn lao, đừng có sa vào những cái vụn vặt nhất thời, nên đứng ở chốt (cái bất biến) mà quan sát, từ đó dung hòa, quân bình vạn vật. Những bậc thánh nhân luôn đứng ở cái bất biến mà quan sát cái vạn biến, dùng bất biến ứng phó với vạn biến, do đó mà thánh nhân trường cửu (bất biến). Không nắm được cái bất biến mà suốt đời cứ chạy theo cái vạn biến thì cả đời mỏi mệt.

Nói cụ thể, trong cuộc đời mỗi người nên nhìn ra cái lớn, chứ đừng nên sa vào những cái vụn vặt, tầm thường; phải nhận ra đâu là bản thể trong cái hiện tượng, đâu là cái vĩnh hằng trong cái tạm thời, đâu là cái không thay đổi trong cái thay đổi, đâu là cái toàn thể trong cái cục bộ, đâu là cái bất biến trong cái vạn biến,…; còn nếu không, ta rất dễ lạc vào cái mê cung, lạc vào rừng rậm của những sự kiện lẻ tẻ, vụn vặt mà không biết đường ra.

3 – Vậy, với Hồ Chí Minh, vì Tổ quốc, vì dân tộc thì bất biến là gì? Một số nhà nghiên cứu cho rằng cái bất biến ở Hồ Chí Minh chỉ có ba, đó là độc lập, tự do, hạnh phúc. Theo tôi, cái bất biến ở Hồ Chí Minh tập trung ở bốn yếu tố liên hệ mật thiết với nhau, không tách rời nhau, đó là độc lập, tự do, hạnh phúc, dân chủ. Điều này thể hiện rõ trong câu đầu tiên trên mọi văn bản từ khi lập quốc: Việt Nam Dân chủ Cộng hòa/ Độc lập – Tự do – Hạnh phúc. Nước Việt Nam là một nước dân chủ, nước độc lập, mọi người được tự do, hạnh phúc.

Vậy bốn yếu tố trên liên hệ với nhau như thế nào? Trước hết là độc lập, bởi lẽ nếu không có độc lập, tức bị vong quốc, mất nước, đất nước trong cảnh nô lệ lầm than thì làm gì có tự do, lấy đâu ra tự do, hạnh phúc, dân chủ. Chính vì vậy, nước bị mất độc lập thì việc đầu tiên là phải giành cho bằng được độc lập, và trong hoàn cảnh như vậy, độc lập cho đất nước là cái bất biến số một hàng đầu. Theo nghĩa này, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố: cái mà tôi cần nhất là Tổ quốc tôi được độc lập. Có độc lập rồi thì mới nói đến tự do, tự do gắn liền với độc lập, nước có được độc lập thì dân mới được tự do. Với lý do đó mà Bác luôn nhắc nhở: trước hết là phải giành cho kỳ được độc lập; tất cả cho độc lập; không có gì quý hơn độc lập, tự do. Mặt khác, độc lập còn gắn liền với dân chủ. Có độc lập rồi thì mới nói đến chuyện dân làm chủ; còn nếu không có độc lập thì cũng không thể có dân chủ. Có độc lập chúng ta phải lập tức xây dựng một nhà nước mà dân làm chủ, có nghĩa là bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân, tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân. Có như vậy mới đem lại được tự do, hạnh phúc cho dân.

Ở đây cần lưu ý rằng, điều kiện tiên quyết để có tự do, hạnh phúc, dân chủ là nước phải độc lập; nhưng không phải cứ có độc lập là có ngay tự do, dân chủ, hạnh phúc. Do đó, khi đã có độc lập rồi thì tự do, hạnh phúc, dân chủ lại nổi lên. Như vậy, mặc dù bốn yếu tố này nằm trong mối liên hệ mật thiết, không tách rời nhau, nhưng nhìn chung chúng lại chia ra làm hai cấp độ, một bên là độc lập, còn bên kia là tự do, hạnh phúc, dân chủ. Hai cấp độ này không tách rời nhau vì nếu có cái thứ nhất mà không có cái thứ hai thì cái thứ nhất cũng trở nên vô nghĩa.

Theo Người, có độc lập mà dân không được hưởng tự do, hạnh phúc thì độc lập cũng chẳng để làm gì. Ngược lại, muốn có cái thứ hai thì đầu tiên, trước hết phải có cái thứ nhất. Cái thứ nhất là tiền đề không thể thiếu được, nhưng cái thứ hai mới là mục đích cuối cùng. Người cho rằng thắng đế quốc, phong kiến còn tương đối dễ, nhưng thắng bần cùng, nghèo nàn lạc hậu còn khó hơn nhiều. Từ đó, Người cho rằng đã hy sinh làm cách mạng, thì nên làm cho đến nơi để khỏi phải hy sinh nhiều lần, để dân chúng được hạnh phúc.

Lô-gíc đó tất yếu dẫn đến tư tưởng của Người là gắn giải phóng dân tộc (nước độc lập) với chủ nghĩa xã hội (dân được hưởng tự do, hạnh phúc, dân chủ) – tư tưởng trung tâm, cốt lõi của Người.

Như vậy, triết lý “Dĩ bất biến ứng vạn biến” có nghĩa là lấy cái bất biến (cái không thay đổi) ứng phó với cái vạn biến (cái thay đổi); ứng phó với cái vạn biến nhưng không xa rời, vứt bỏ, đánh mất cái bất biến; tuyệt đối không thể đem cái bất biến ấy ra mua bán, đổi chác. Hoàn cảnh luôn thay đổi, cuộc sống cũng như sự nghiệp cách mạng luôn thay đổi, phát triển, bởi vậy, sách lược trong từng lĩnh vực cụ thể cũng phải mềm dẻo, uyển chuyển, thay đổi (cái vạn biến). Nhưng dù có mềm dẻo, uyển chuyển, thay đổi như thế nào đi chăng nữa cũng không được quên mục đích cuối cùng (cái bất biến), bởi nếu không sẽ dễ bị lạc vào cái mê cung, rừng rậm của vạn biến, cái vụn vặt mà không biết đường ra. Đó là cái nhìn toàn cảnh có tính chất vĩ mô đối với cách mạng cả nước. Dĩ nhiên, nếu đi sâu vào từng lĩnh vực, phạm vi nhỏ hơn lại xuất hiện những cái “bất biến” và “vạn biến” ở cấp độ nhỏ hơn, trong phạm vi hẹp hơn. Từ đó ta có cách nhìn nhận, đánh giá một cách biện chứng, mềm dẻo, uyển chuyển; nhưng những cái “bất biến” nhỏ này đều phải hướng đến cái “bất biến” lớn nhất mà ta đã nói ở trên.

4 – Từ triết lý “Dĩ bất biến ứng vạn biến” này đã dẫn đến triết lý hành động ở Hồ Chí Minh. Ngay chữ “dĩ” cũng nói lên triết lý không phải để triết lý, mà triết lý phải dẫn đến làm, đến hành động. Đó cũng là triết lý hành động. Triết lý hành động là triết lý và hành động, nói và làm, lý luận và thực tiễn liên hệ mật thiết với nhau, không tách rời nhau. Trong lịch sử ta thấy có nhiều triết lý tách rời khỏi hành động, nói không đi đôi với làm, lý luận xa rời cuộc sống, chẳng hạn như triết lý của một số nhà tư tưởng Tây Âu thời trung cổ nhằm phục vụ cho mục đích của thần học và tôn giáo; triết lý tư biện theo kiểu trò chơi của những khái niệm (chơi chữ); triết lý của một số nhà không tưởng; … Học thuyết của họ đẹp thì có đẹp, hay thì có hay, nhưng không gắn với hoạt động, hành động thực tiễn mà đôi khi chúng trở thành trò chơi của lý trí, trí tuệ thuần túy. Ngay giai cấp tư sản hô hào, giương cao triết lý về tự do, bình đẳng, bác ái, nhưng sau khi đánh đổ giai cấp phong kiến thì nó lại phớt lờ triết lý mà nó nêu lên ban đầu. Nói thì hay nhưng về sau không thực hiện là vì quyền lợi ích kỷ của nó. Lý luận của các nhà triết học trước Mác chủ yếu chỉ là giải thích, lý giải thế giới chứ không gắn liền với nhiệm vụ cải tạo, cải biến thế giới. Chính vì vậy, sự xuất hiện của triết học Mác đã tạo ra một cuộc cách mạng trong triết học nói chung và trong triết lý hành động nói riêng vì nó không chỉ giải thích mà còn quyết tâm cải tạo thế giới bằng hoạt động thực tiễn của con người.

Như vậy, triết lý hành động Hồ Chí Minh không chỉ kế thừa những tinh hoa của triết học Đông Tây trước đây mà còn kế thừa những tinh túy của triết học Mác – Lê-nin và đưa triết lý hành động lên tầm cao mới, trong đó triết lý và hành động, nói và làm, lý luận và thực tiễn không tách rời nhau, tạo nên một khối thống nhất. Điều này thể hiện rõ khi Người cho rằng lý luận phải liên hệ với thực tiễn, học phải đi đôi với hành. Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng bởi lẽ khi đó thực tiễn không biết đi theo hướng nào, không biết đi về đâu giống như con tàu giữa biển khơi mù mịt nhưng lại không có la bàn. Còn lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông, tức lý luận để mà lý luận, lý luận trở thành trò chơi của lý tính và lý trí. Người còn ví không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi; lý luận và kinh nghiệm như hai con mắt của con người, có kinh nghiệm mà không có lý luận cũng như một mắt sáng một mắt mờ. Bơm to, thổi phồng kinh nghiệm sẽ rơi vào bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa; ngược lại, bơm to, thổi phồng lý luận sẽ rơi vào bệnh giáo điều, kinh viện. Đó là hai loại bệnh tương đối phổ biến ở nước ta trước kia và hiện nay vẫn còn tồn tại trong một bộ phận không nhỏ cán bộ lãnh đạo, quản lý.

Phương châm của Người là độc thư bất vong cứu quốc, cứu quốc bất vong độc thư, nghĩa là đọc sách không quên cứu nước, đọc sách không chỉ nâng cao tầm hiểu biết, rèn luyện trí tuệ mà phải hướng đến cứu nước cứu người; cứu nước không quên đọc sách, tức cứu nước không quên nâng cao trí tuệ. Qua đây, ta thấy người cách mạng và người trí thức hòa quyện vào nhau, trong người cách mạng có người trí thức, trong người trí thức có người cách mạng, người cách mạng phải có trí tuệ, còn người trí thức phải phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân, người trí thức của nhân dân.

Triết lý “Dĩ bất biến ứng vạn biến” ở Hồ Chí Minh đồng thời cũng là triết lý hành động, gắn với hành động bởi lẽ vì cái bất biến đó mà Người rời bỏ quê hương ra đi tìm đường cứu nước lúc mới hai mươi mốt tuổi; và cũng chính vì cái bất biến đó mà Người đã hy sinh cả cuộc đời mình cho dân tộc, đặt lợi ích của dân, của nước lên trên hết, suốt đời hết lòng hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân.

Mỗi triết lý hành động đồng thời cũng là một triết lý sống, quy định một phong cách sống tương ứng. Triết lý hành động “Dĩ bất biến ứng vạn biến” đồng thời cũng là triết lý sống “Dĩ chúng tâm vi kỷ tâm” (Lấy tâm của mọi người làm tâm của mình). Để đi sâu vào triết lý sống này ta hãy xem tâm, lòng mong muốn của người dân Việt Nam khi đó là gì? Đó là nước được độc lập, dân được tự do, mọi người được hạnh phúc. Bác đã lấy cái tâm (mong muốn) của mọi người làm cái tâm (mong muốn) của mình khi Người viết: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”(1). Bác đã lấy tâm của mọi người làm tâm của mình bằng những hoạt động thiết thực, cụ thể như ra đi tìm đường cứu nước và khi đã tìm được cái “cẩm nang” thì trở về nước thức tỉnh nhân dân, tổ chức, đoàn kết, huấn luyện họ, đưa họ ra tranh giành tự do, độc lập. Đến độ chín muồi, Người đã tiến hành thành lập Đảng, đề ra chiến lược, sách lược cách mạng cho từng thời kỳ, kêu gọi toàn dân đoàn kết, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, … từ đó đã dẫn dắt dân tộc ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

Với triết lý sống “Dĩ chúng tâm vi kỷ tâm”, Bác và Đảng ta ngoài lợi ích của nhân dân không còn lợi ích nào khác. Một ngày mà Tổ quốc chưa thống nhất, đồng bào còn chịu khổ đau là một ngày Bác ăn không ngon, ngủ không yên. Với triết lý sống “Dĩ chúng tâm vi kỷ tâm” tất yếu sẽ dẫn đến phong cách sống “Lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ” (Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc), lối sống vì mọi người, hòa đồng cùng xã hội, thậm chí cả thiên nhiên cây cỏ, lối sống không cho riêng mình, và chính vì không cho riêng mình cho nên trường cửu.

Với triết lý hành động, triết lý sống như vậy, nên Người thường viết ít, nếu có viết thì ngắn gọn, dễ hiểu, dễ nhớ để thực hiện, để làm, tức viết không phải để mà viết, nói không phải để mà nói; viết, nói để thức tỉnh và từ đó kêu gọi, hô hào đồng bào đứng lên làm cách mạng. Có người cho rằng khi viết cần phải trau chuốt. Ngay trong “Đường cách mạng”, phương châm, chủ trương của Bác là phải kêu to, làm chóng để cứu lấy giống nòi, thì giờ đâu mà vẽ vời trau chuốt. Dân tộc ta khi đó nước bị mất, giống nòi có nguy cơ diệt vong, vì vậy không thể chỉ cứ triết lý về nguy cơ diệt vong của dân tộc, mà phải kêu to làm chóng để cứu lấy giống nòi.

Ở Hồ Chí Minh không chỉ triết lý gắn với hành động, đi liền với hành động mà ngược lại, ngay hành động cũng nói lên triết lý. Theo Giáo sư Trần Văn Giàu, hoạt động thực tiễn, hành động biểu hiện tư tưởng trung thành hơn gấp nhiều lần những bài văn được ngòi bút đẽo gọt. Cái đánh giá đúng sai của tư tưởng không phải nằm trong tư tưởng mà phải ở trong hoạt động thực tiễn. Chính thực tiễn, suy cho cùng là cái duy nhất kiểm tra tính đúng đắn của tư tưởng, là tiêu chuẩn của chân lý. Thực tiễn được tổng kết biến thành lý luận, tư tưởng. Như vậy, hoạt động thực tiễn nói lên tư tưởng.

Từ trước đến nay chúng ta quen cái lối nghiên cứu triết học, nghiên cứu tư tưởng qua câu chữ. Ngay đi theo hướng này cũng còn nhiều cái phải bàn, chẳng hạn có người chỉ dừng lại ở câu chữ bề ngoài mà chưa đi vào cái thần, cái hồn nằm sau các câu chữ. Theo Trang Tử, người ta dùng lời để đạt ý, được ý rồi hãy quên lời. Mặt khác, tư tưởng, triết lý, theo tôi, đâu chỉ thể hiện qua câu chữ. Những nhà hiền triết phương Đông thường ít viết, ít nói, nếu chỉ qua câu chữ của họ mà nói lên tư tưởng của họ thì e rằng không đầy đủ. Bởi vậy, triết lý, tư tưởng còn được biểu hiện, thể hiện qua nhiều hình thức khác nhau như âm nhạc, hội họa, điêu khắc; qua hành động, hoạt động, hành vi, thái độ, cử chỉ, cách đối nhân xử thế của con người. Chúng ta cần giải mã, phát hiện đằng sau những di sản văn hóa vật chất và tinh thần, người xưa muốn gửi gắm những thông tin tư tưởng gì cho thế hệ mai sau, đặc biệt là những ý tưởng triết học.

Phương hướng này có vị thế vô cùng quan trọng trong việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, bởi lẽ qua câu chữ chỉ phản ánh được một phần tư tưởng của Người. Những cử chỉ, hành động, hành vi, tác phong, lối sống, cách đối nhân xử thế của Người, đều toát lên một triết lý thâm sâu vi tế, triết lý suốt đời vì dân, vì nước.

5 – Triết lý “Dĩ bất biến ứng vạn biến” còn một khía cạnh nhận thức luận khá quan trọng mà ít người bàn tới. Cái bất biến trong nhận thức chính là cái tâm bình tĩnh, tỉnh táo, trong sáng, sáng suốt, minh mẫn. Với cái tâm này (bất biến) thì có thể ứng với cái vạn biến, tức nhìn nhận sự vật hiện tượng biến đổi bên ngoài rõ ràng hơn, khách quan hơn, đúng đắn hơn. Không thể nhìn vạn vật một cách chính xác, khách quan khi cái tâm đầy dục vọng, tham vọng đen tối, đầy cá nhân ích kỷ. Triết học phương Đông ví cái tâm bất biến như mặt hồ phẳng lặng, yên tĩnh, trong veo, không một gợn sóng, từ đó những viên cuội dưới đáy hồ cũng hiện lên rõ ràng; còn cái tâm đầy dục vọng đen tối, chao đảo, giống như mặt hồ nổi sóng, cát bụi mù mịt, bởi vậy, nhìn sự vật hiện tượng dưới đáy hồ không rõ, tức không nhìn ra đặc biệt là bản chất của sự vật hiện tượng.

Với tinh thần “Dĩ bất biến ứng vạn biến” đó, Hồ Chí Minh đã nhiều lần giáo dục cán bộ, đảng viên rằng, muốn đánh thắng kẻ địch bên ngoài thì trước hết phải đánh thắng kẻ địch bên trong là chủ nghĩa cá nhân; muốn cải tạo thế giới thì trước hết phải cải tạo bản thân mình; một dân tộc, một đảng viên và mỗi con người ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn không nhất định ngày hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân. Như vậy, với cái tâm bình tĩnh, tỉnh táo, sáng suốt, minh mẫn, với lòng dạ trong sáng (cái bất biến), chúng ta không những nhìn sự vật, hiện tượng biến đổi bên ngoài (cái vạn biến) một cách rõ ràng, khách quan, mà còn tránh được bệnh chủ quan duy ý chí.

Tóm lại, ở Hồ Chí Minh, từ triết lý:” Dĩ bất biến ứng vạn biến” dẫn đến triết lý hành động, triết lý sống “Dĩ chúng tâm vi kỷ tâm”; hai cái đó quyện chặt vào nhau, gắn liền mật thiết, chặt chẽ với nhau, không tách rời nhau; triết lý hướng đến hành động, hành động nói lên triết lý, trong triết lý đã bao hàm xu thế hành động, trong hành động có triết lý, triết lý và hành động gắn chặt với nhau tạo nên triết lý hành động Hồ Chí Minh mà không phải vĩ nhân nào cũng có được./.

————————————-

(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t 4, tr 161

Nguyễn Hùng Hậu

tapchicongsan.org.vn

Cách thức tiếp thu tư tưởng nhân loại ở Hồ Chí Minh

Luận giải nội dung trong những tư tưởng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu từ di sản tư tưởng nhân loại (Nho giáo, Cơ Đốc giáo, Phật giáo, Tôn Dật Tiên, Mác – Lênin…), trong bài viết này, tác giả đã khẳng định: Mặc dù tiếp thu nhiều dòng tư tưởng khác nhau, song tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống nhất quán, không lẫn lộn với bất cứ nhà tư tưởng nào của dân tộc và nhân loại. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh đã thể hiện trình độ phát triển cao về trí tuệ, nhân cách đạo đức và tầm thước của một vĩ nhân. Nguyên lý triết học chi phối cách tiếp biến các giá trị tư tưởng này không chỉ là quan điểm toàn diện, chỉnh thể, mà còn là tinh thần khoan dung và gắn kết với thực tiễn Việt Nam.

Sinh thời, trong một lời tự bạch, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tôn giáo của Jêsu có ưu điểm của nó là lòng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp làm việc biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách của nó thích hợp với điều kiện nước ta. Khổng Tử, Jêsu, Mác, Tôn Dật Tiên chẳng có ưu điểm chung đó sao? Họ đều mưu cầu hạnh phúc cho loài người, mưu cầu hạnh phúc cho xã hội. Nếu hôm nay họ còn sống trên đời này, tôi tin rằng họ nhất định sống chung với nhau rất hoàn mỹ như những người bạn thân thiết. Tôi cố gắng làm một người học trò nhỏ của các vị ấy”(1).

Đọc những lời viết trên, khi tiếp cận với tư tưởng Hồ Chí Minh, đã có rất nhiều ý kiến khác nhau. Có người cho rằng, tư tưởng Hồ Chí Minh là sự phát triển một cách sáng tạo tư tưởng của C.Mác và V.I.Lênin. Không ít người lại khẳng định tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh mang nội dung Nho giáo rõ rệt và chính sách phát triển đất nước Việt Nam của Người chịu ảnh hưởng mạnh mẽ chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn, nhất là khi Người viết: “Tôi kính cẩn cầu Đức Thượng đế phù hộ dân tộc Việt Nam và giúp cho Việt Nam đi đến cuộc thắng lợi cuối cùng. Thượng đế và Tổ quốc muôn năm”(2) thì nhiều người tin rằng lòng nhân ái, khoan dung của Jêsu là một mẫu mực đối với “người học trò nhỏ” Hồ Chí Minh.

Sự thật thì tư tưởng Hồ Chí Minh đã từng tiếp cận và tiếp thu nhiều dòng tư tưởng khác nhau, đã từng “mưu cầu hạnh phúc cho loài người”. Tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ tiếp thu Nho giáo, Cơ Đốc giáo, Mác – Lênin, Tôn Dật Tiên, mà còn tiếp thu cả Phật giáo, hệ tư tuởng tư sản; ca ngợi cách mạng Pháp, cách mạng Mỹ; tiếp cận với tư tưởng về nhà nước của A.Lincôn; cổ vũ tinh thần yêu nước của đạo Cao Đài, Hoà Hảo. Hồ Chí Minh đã từng viết: “Đức Phật là đại từ đại bi, cứu khổ, cứu nạn, muốn cứu chúng sinh ra khỏi khổ nạn Người phải hy sinh tranh đấu, diệt lũ ác ma… Chúng ta làm theo lòng đại từ đại bi của Đức Phật Thích Ca…”(3).

Tiếp thu nhiều dòng tư tưởng khác nhau, song tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống nhất quán, không lẫn lộn với bất cứ nhà tư tưởng nào của dân tộc và của nhân loại, mặc dù Người tiếp nhận các giá trị từ truyền thống văn hoá của dân tộc và loài người tiến bộ. Tư tưởng Hồ Chí Minh đã vận động trong lịch sử dân tộc và loài người, xác lập thành nền tảng tư tưởng của thời đại Hồ Chí Minh. Đó là thời đại mà nhân dân Việt Nam đã nâng các giá trị truyền thống lên một tầm cao mới và hiện diện trước loài người như một dân tộc anh hùng, văn minh, lịch thiệp, hiện đại.

Hồ Chí Minh – Biểu tượng của nền văn hóa tương lai

Mỗi nhà tư tưởng lớn trong văn hoá nhân loại đều có sắc thái riêng của mình. Hồ Chí Minh nói mình là “một người học trò nhỏ” của Khổng Tử! Thật ra, tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ khác về cơ bản, mà còn vượt rất xa tư tưởng của Khổng Tử trên mọi phương diện. Hồ Chí Minh ca ngợi ưu điểm của học thuyết Khổng Tử là tu dưỡng cá nhân, song ngay từ năm 1927, Người đã viết: “Khổng giáo dựa trên 3 sự phục tùng: Quân – thần; phụ – tử; phu – phụ và năm đức chủ yếu: Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Khổng Tử đã viết Kinh Xuân thu để chỉ trích “những thần dân nổi loạn” và “những đứa con hư hỏng”, nhưng ông không viết gì để lên án những tội ác của “những người cha tai ác” và “những hoàng tử thiển cận”… Ông rõ ràng là người phát ngôn bênh vực những người bóc lột chống lại những người bị áp bức… Nếu Khổng Tử sống ở thời đại chúng ta và nếu ông khăng khăng giữ những quan điểm ấy thì ông sẽ trở thành phần tử phản cách mạng”(4).

Theo Hồ Chí Minh, về mặt học thuyết thì tư tưởng của Khổng Tử là hệ tư tưởng chỉ phù hợp với “một xã hội bình yên không bao giờ thay đổi” và do vậy, trên phương diện hệ thống, nó không thể phù hợp với xã hội mới. Song, về yếu tố, nó thiên về triết lý nhập thế, hành đạo giúp đời, mong muốn thế giới đại đồng có những kỹ năng giáo dục đạo đức tỉ mỉ; mặc dù không phải nội dung của mọi yếu tố này đều mang ý nghĩa tiến bộ. Khi nghiên cứu nội dung của những yếu tố trong học thuyết của Khổng Tử, Hồ Chí Minh đã tách chúng ra khỏi ý thức hệ của giai cấp phong kiến thống trị, giai cấp từng tạo sự bất bình đẳng về giới tính, thế hệ, giai cấp và dân tộc. Người cũng sử dụng những khái niệm nhân, nghĩa, trí, dũng, cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư của Nho giáo, nhưng đó là Nho giáo đã Việt Nam hoá, mang rất nhiều yếu tố dân tộc và tam giáo đồng hành. Những yếu tố này đã được Người xây dựng nội hàm cách mạng và hiện tại trong hệ thống tư tưởng của mình. Nội hàm của những khái niệm này khác hoàn toàn với nội hàm thuộc hệ tư tưởng Nho giáo.

Cũng như vậy, Hồ Chí Minh đã ca ngợi lòng nhân ái cao cả của Thiên Chúa giáo. Chúa Jêsu đã kêu gọi con chiên của Chúa “Hãy yêu kẻ thù của mình, làm ơn cho kẻ ghét mình, cho phước cho kẻ rủa mình và cầu nguyện cho kẻ sĩ phục mình”. Chúa Jêsu dạy con người không tham lam, trộm cắp, hãy sống trong sạch, hãy cho khi người ta xin. Hồ Chí Minh đã đọc rất kỹ Tân ước và Cựu ước, hiểu thấu đáo sách Mathiơ và Luca. Người thấy nhân tố thương yêu con người thì Thiên Chúa giáo với Khổng giáo cũng cùng chung một ưu điểm. Trong một bức thư phúc đáp ngài G.Bidon, Thủ tướng của Chính phủ Pháp – nước đang xâm lăng Việt Nam lúc đó, Người đã viết: “Chúng ta đều được kích thích bởi một tinh thần. Triết lý đạo Khổng và triết lý phương Tây đều tán dương một nguyên tắc đạo đức: “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân”(5). Nhấn mạnh lòng thương người của một số học thuyết tôn giáo, một lần khác, Người lại viết: “Chúa Jêsu dạy: Đạo đức là bác ái. Phật Thích Ca dạy: Đạo đức là từ bi. Khổng Tử dạy: Đạo đức là nhân nghĩa”(6). Tiếp thu tư tưởng nhân ái bao la của Đức Chúa Jêsu, song Hồ Chí Minh cũng thấy rằng, “cách đây 2000 năm, Đức Chúa Jêsu đã nói là ta phải yêu mến các kẻ thù của ta. Điều đó đến bây giờ vẫn chưa thực hiện được”(7).

Vấn đề cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ là thương người, mà còn phải hành động như thế nào để giải thoát cảnh cực khổ của những người bất hạnh. Khi tiếp thu triết lý thương người của mọi tôn giáo, Hồ Chí Minh đã tìm cách giải thoát những con người đang bị áp bức, bóc lột ra khỏi lầm than, cơ cực. Khi đồng cảm với triết lý thương người của Đức Chúa Jêsu, Người không dừng lại ở triết lý ấy trong suy nghĩ mà luôn hành động, luôn thực hiện cái triết lý ấy trong hoạt động thực tiễn. Giáo sư Trần Văn Giàu, khi nghiên cứu tình thương yêu bao la của Hồ Chí Minh, đã viết rằng: “Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh là chủ nghĩa nhân văn giải thoát của những lớp người hèn yếu, lao khổ, của các dân tộc bị chà đạp, giải thoát chính bằng ý thức, lực lượng của mình”(8).

Khi tiếp thu các tư tưởng nhân ái bao la của các bậc đại nhân tiền bối, Hồ Chí Minh không chỉ gắn tình yêu của mình vào con người, vào đồng loại, rộng lượng đối với kẻ thù, chấp nhận độc thoại giữa các chính kiến, mà còn quan tâm sâu sắc hơn đến việc thực hiện, việc giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và con người. Yêu con người, Hồ Chí Minh đã tìm mọi phương thức mang lại tự do cho con người. Triết lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” của Người chính là hệ quả của cách tiếp thu lòng nhân ái bao la của các bậc đại trí, đại nhân tiền bối.

Ai cũng biết Hồ Chí Minh là một người mácxít. Trong lời tự bạch dẫn ở trên, Người đã ca ngợi phương pháp làm việc biện chứng của chủ nghĩa Mác. Chính chủ nghĩa Mác – Lênin đã thức tỉnh và làm hoàn thiện chủ nghĩa yêu nước ở Hồ Chí Minh gắn với thời đại mới. Khẳng định chủ nghĩa Mác – Lê-nin đã cung cấp cách nhìn mới về thế giới cho mình, Người viết: “Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đọa đầy đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta”(9).

Hoàn toàn tin theo phương pháp biện chứng của chủ nghĩa Mác, Hồ Chí Minh đã truyền bá chủ nghĩa Mác – Lê-nin vào Việt Nam ngay từ những năm 20 của thế kỷ XX. Theo phương pháp biện chứng của chủ nghĩa Mác, Người đã xuất bản báo LeParia, viết báo L’humanité và La vie Ouvriere, công bố Bản án chế độ thực dân Pháp, Đường Kách Mệnh và nhiều tác phẩm lớn khác. Trong ý tưởng triết học của Người, phương pháp biện chứng của chủ nghĩa Mác là một thế giới khoa học, là một vũ khí cách mạng mang lại hạnh phúc cho nhân loại. Nhiều người thấy Hồ Chí Minh vận dụng nhuần nhuyễn phương pháp luận mácxít đã khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh chính là tư tưởng của chủ nghĩa Mác được vận dụng vào thực tiễn Việt Nam. Chính Người đã chỉ ra rằng: “Mác đã xây dựng học thuyết của mình trên một triết lý nhất định của lịch sử, nhưng lịch sử nào? Lịch sử châu Âu. Mà châu Âu là gì? Đó chưa phải là toàn nhân loại”(10).

Phương pháp biện chứng của chủ nghĩa Mác đã chỉ dẫn cho Hồ Chí Minh mối quan hệ tương hỗ giữa cái riêng và cái chung, giữa dân tộc và nhân loại, truyền thống và hiện đại, dân tộc và tộc người, cá nhân và xã hội, lý luận và thực tiễn trong quá trình phát triển. Người thấy rõ nguyên tắc căn bản của phương pháp biện chứng mácxít là thống nhất giữa lý luận với thực tiễn. Người viết: “Trong khi nhấn mạnh sự quan trọng của lý luận, đã nhiều lần đồng chí Lênin nhắc đi nhắc lại rằng lý luận cách mạng không phải là giáo điều, nó là kim chỉ nam cho hành động cách mạng; và lý luận không phải là một cái gì cứng nhắc, nó đầy tính chất sáng tạo; lý luận luôn luôn cần được bổ sung bằng những kết luận mới rút ra từ trong thực tiễn sinh động… Phải cụ thể hoá chủ nghĩa Mác – Lênin cho thích hợp với điều kiện hoàn cảnh từng lúc và từng nơi”(11). Do vậy, theo Người, “học tập chủ nghĩa Mác – Lê-nin là học tập cái tinh thần xử trí mọi việc, đối với mọi người và đối với bản thân mình… Học để mà làm. Lý luận đi đôi với thực tiễn”, chứ không phải “học thuộc lòng”, “học để trang sức”(12).

Có thể nói, tư tưởng Hồ Chí Minh tuy hội tụ những giá trị nhân văn cao cả trong các học thuyết Khổng Tử, Jêsu, C.Mác và V.I.Lênin, nhưng tư tưởng đó là tư tưởng Hồ Chí Minh chứ nhất định không thể là tư tưởng Nho giáo, Thiên Chúa giáo, Mác – Lênin hay Tôn Văn. Một số người đã dựa vào lời tự bạch của Hồ Chí Minh: “Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách của nó thích hợp với điều kiện nước ta” để cho rằng, trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh thì chủ nghĩa Tôn Văn biểu hiện khá rõ nét trên nhiều lĩnh vực chính trị quan trọng.

Chủ nghĩa tam dân (dân tộc, dân quyền, dân sinh) của Tôn Trung Sơn là một học thuyết nằm trong phạm trù cách mạng tư sản khi phong trào duy tân nổi lên ở Nhật Bản, Trung Quốc và Việt Nam. Ở Việt Nam, do ảnh hưởng chủ nghĩa tam dân của Tôn Trung Sơn, học thuyết dân quyền với những nội dung dân sinh, dân trí, dân khí đã được các nhà ái quốc trong phong trào Duy Tân đề xướng. Hồ Chí Minh ngưỡng mộ Tôn Dật Tiên không chỉ ở chủ thuyết dân tộc, dân quyền, dân sinh, mà còn tìm hiểu chủ trương “Liên Nga, liên cộng, phù trợ công” này của ông. Tôn Dật Tiên đã phê phán đạo đức học của Hán và Tống Nho, đồng thời xây dựng lý tưởng đạo đức thiên hạ vị công.

Sự gặp gỡ giữa tư tưởng của Tôn Trung Sơn với Hồ Chí Minh là gặp ở quan điểm về chủ nghĩa dân tộc. Trong chủ nghĩa tam dân, Tôn Trung Sơn quan tâm sâu sắc đến quyền lợi dân tộc. Ngay từ năm 1924, Hồ Chí Minh cũng đã nhận định: “Chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của đất nước”. Cùng với chủ nghĩa dân tộc, Người cũng rất quan tâm tới xây dựng một nền đạo đức mới vượt qua học thuyết đạo đức của Khổng Tử. Song, trong tư tưởng của Người, chủ nghĩa dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa quốc tế. Người viết: “Khi chủ nghĩa dân tộc… thắng lợi, thì… nhất định chủ nghĩa dân tộc ấy sẽ biến thành chủ nghĩa quốc tế”(13).

Hồ Chí Minh đã nói tới độc lập cho dân tộc, tự do cho đồng bào, hạnh phúc cho nhân dân. Ở Người, đặc điểm nổi bật là tin tưởng sắt đá vào sức mạnh của nhân dân. Phạm trù nhân dân đã tạo nên sức sống và sự sáng tạo to lớn trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Người viết: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”(14). Tin tưởng vào sức mạnh của nhân dân với ý nghĩa nhân dân là người có thể cách mạng tới cùng thì không thể giống với tư tưởng dân sinh của Tôn Văn.

Rõ ràng, trong tư tưởng Hồ Chí Minh đã có sự tiếp thu nhiều di sản tư tưởng trong văn hoá nhân loại, nhưng đây là một sự tiếp biến đặc biệt, sự tiếp biến vượt gộp để tạo ra một giá trị tư tưởng độc đáo, mới mẻ, cách mạng. Trong hệ tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta thấy rất rõ nền tảng tinh thần sâu sắc nhất là những giá trị truyền thống của dân tộc. Đó là chủ nghĩa yêu nước, tinh thần khoan dung, ý chí tự lực tự cường và ý thức đoàn kết. Song, tư tưởng Hồ Chí Minh không phải là chủ nghĩa yêu nước, tinh thần khoan dung, ý chí tự lực tự cường, ý thức đoàn kết dân tộc truyền thống. Nếu Hồ Chí Minh chỉ là hiện thân của những giá trị văn hoá truyền thống thì tư tưởng Hồ Chí Minh cũng không vượt qua chủ nghĩa dân tộc chật hẹp của nhiều nhà tư tưởng trong nền văn hoá truyền thống Việt Nam. Cũng thế, nếu Hồ Chí Minh chỉ tiếp thu sự tu dưỡng trong học thuyết đạo đức của Khổng Tử, lòng nhân ái của Jêsu, phương pháp biện chứng của chủ nghĩa Mác và chính sách Tam dân của Tôn Dật Tiên thì tư tưởng của Người cũng không vượt qua được những hạn chế của thời đại phản ánh trong hệ tư tưởng của những nhà tiền bối. Chính nhờ đã cởi bỏ được chiếc dây ràng buộc học thuyết của các vị tiền bối trong khuôn khổ tính thời đại của họ mà tư tưởng Hồ Chí Minh đã mang giá trị của thời đại mới, vượt hẳn những tư tưởng của thời đại đã qua. Hồ Chí Minh đã tiếp biến nhiều tư tưởng của các vị tiền bối và các giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc ta trong thời đại cách mạng khoa học – kỹ thuật và những phong trào cách mạng lớn đang dâng lên cuồn cuộn ở thế kỷ XX: Phong trào dân chủ, phong trào giải phóng dân tộc và phong trào xã hội chủ nghĩa.

Có thể nói, tư tưởng Hồ Chí Minh đã vượt qua chiếc áo chật trong tư tưởng tu thân của Khổng Tử. Chủ nghĩa nhân văn hành động của Hồ Chí Minh đã vượt xa lòng thương người của tôn giáo Jêsu. Sự vận dụng sáng tạo phép biện chứng của chủ nghĩa Mác vào việc giải quyết những vấn đề dân tộc ở Việt Nam đã làm phong phú phép biện chứng duy vật và mang một sức mạnh mới trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Chủ nghĩa yêu nước quốc tế ở Hồ Chí Minh khác hẳn với chủ nghĩa vị quốc chật hẹp. Quan điểm về tính nhân dân với lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội của Hồ Chí Minh khác rất xa với chủ nghĩa Tam dân Tôn Trung Sơn. Phong cách tư duy của Hồ Chí Minh là phong cách tư duy tổng hợp, khái quát, độc lập, tự chủ, sáng tạo gắn với thực tiễn đang vận động.

Tiếp biến nhiều dòng tư tưởng trong di sản tinh thần của nhân loại, song tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống tư tưởng được hình thành trong ba phong trào lớn của thế kỷ XX, nhằm đưa dân tộc Việt Nam tới độc lập, đất nước thống nhất tiến lên chủ nghĩa xã hội, nhân dân được sống tự do, ấm no, hạnh phúc, góp phần ổn định tình hình thế giới, phát triển hữu nghị giữa các dân tộc, vì tiến bộ xã hội và sự phát triển tốt đẹp các giá trị cá nhân và cộng đồng con người và tự nhiên.

Cách tiếp thu các di sản tư tưởng nhân loại của Hồ Chí Minh đã xác lập hệ tư tưởng Hồ Chí Minh sáng tạo, thống nhất bởi bốn tiểu hệ thống:

Thứ nhất là, chủ nghĩa yêu nước và tình yêu con người. Đó là tình yêu những con người bị áp bức, bị bóc lột; là chủ nghĩa yêu nước quốc tế kết hợp với sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, sức mạnh cá nhân với sức mạnh cộng đồng trên cơ sở tư tưởng nền tảng “Không có gì quý hơn độc lập tự do”.

Thứ hai là, tư tưởng xây dựng nhà nước kiểu mới. Đó là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, trên cơ sở một nền dân chủ của dân, do dân, vì dân và sức mạnh thuộc về nhân dân.

Thứ ba, là tư tưởng về tương lai của con người, của xã hội loài người, của đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đó là một chủ nghĩa xã hội Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Đó là “xã hội văn hoá cao”.

Thứ tư là, tư tưởng về mối quan hệ giữa dân tộc và quốc tế, con người và tự nhiên. Đó là những tư tưởng lớn về một thế giới hoà bình, đầy tình hữu nghị, về một môi trường tự nhiên thân thiện, tươi đẹp và trong lành.
Bốn tiểu hệ thống này liên kết với nhau bởi quan điểm toàn diện nhằm gắn sự phát triển đời sống vật chất với đời sống tinh thần của con người, truyền thống với hiện đại, cá nhân với xã hội, dân tộc với quốc tế, con người với tự nhiên.

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh đã thể hiện rõ trình độ phát triển cao về trí tuệ, nhân cách đạo đức và tầm thước của một vĩ nhân, khi tiếp biến các giá trị tư tưởng của truyền thống và nhân loại. Nguyên lý triết học chi phối cách thức tiếp biến các giá trị tư tưởng truyền thống và nhân loại không chỉ là quan điểm chỉnh thể, toàn diện mà còn là tinh thần khoan dung Hồ Chí Minh. Có lần Người đã tự bạch rằng: “Phải có độ lượng vĩ đại thì mới có thể… chí công vô tư”, “sông to, biển rộng, thì bao nhiêu nước cũng chứa được, vì độ lượng nó rộng và sâu. Cái chén nhỏ, cái đĩa cạn, thì một chút nước cũng đầy tràn, vì độ lượng nó hẹp nhỏ”(15).

Yêu con người, yêu đồng loại, yêu người cùng khổ, tin tưởng và yêu thương nhân dân, yêu thiên nhiên từ mầm lá đến nhành hoa, rộng lượng đối với kẻ thù, chấp nhận đối thoại giữa các chính kiến là nhân cách Hồ Chí Minh, khi tiếp biến các di sản tư tưởng trong văn hoá nhân loại. Nhờ cách tiếp thu sáng tạo những di sản này để mưu cầu hạnh phúc cho dân tộc và loài người và với nhiều cống hiến khác trong giáo dục nghệ thuật, giao lưu quốc tế và giữ gìn bản sắc dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được UNESCO tôn vinh là một Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hoá kiệt xuất./.

GS.TS Đỗ Huy
Theo Tạp chí Triết học
Thu Hiền (st)

————–

(1) Hồ Chí Minh Truyện (Bản dịch Trung văn của Trương Niêm Thức. Bát Nguyệt xuất bản xã Thượng Hải xuất bản, 1949). Dẫn theo: Phan Văn Các. Nho giáo xưa và nay. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1991.
(2) Hồ Chí Minh Toàn tập, t.4. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.490.
(3) Hồ Chí Minh. Sđd., t.5, tr.197.
(4) Hồ Chí Minh. Sđd., t.2, tr.453 – 454.
(5) Hồ Chí Minh. Sđd., t.4, tr.267.
(6) Hồ Chí Minh. Sđd., t.6, tr.225.
(7) Hồ Chí Minh. Sđd., t.4, tr.272.
(8) Trần Văn Giàu. Vĩ đại một con người. Nxb Long An, 1990, tr.92.
(9) Hồ Chí Minh. Sđd., t.10, tr.127.
(10) Hồ Chí Minh. Sđd., t.1, tr.464 – 465.
(11) Hồ Chí Minh. Sđd., t.8, tr.496.
(12) Hồ Chí Minh. Sđd., t.9, tr.292.
(13) Hồ Chí Minh. Sđd., t.1, tr.467.
(14) Hồ Chí Minh. Sđd., t.8, tr.279.
(15) Hồ Chí Minh. Sđd., t.5, tr.279, 644.

bqllang.gov.vn

Phẩm chất người lãnh đạo

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: Người lãnh đạo phải có đủ 2 thành tố phẩm chất và đạo đức cách mạng. Về phẩm chất, Người nhấn mạnh 4 nội dung Nhân, Nghĩa, Trí, Dũng.

Nhân: ”Là thật thà thương yêu, hết lòng giúp đỡ đồng chí và đồng bào. Vì thế mà kiên quyết chống lại những người, những việc có hại đến Đảng, đến nhân dân. Vì thế mà sẵn lòng chịu cực khổ trước mọi người, hưởng hạnh phúc sau thiên hạ. Vì thế mà không ham giàu sang, không cực khổ, không sợ oai quyền. Những người đã không ham, không e, không sợ gì thì việc gì là việc phải họ đều làm được”.

Chữ Nhân – Nghĩa vốn là nguồn mạch truyền thống cha ông. Cách đây hơn 500 năm Nguyễn Trãi đã nói: ”Phàm mưu việc lớn phải lấy Nhân – Nghĩa làm gốc, nên công to phải lấy Nhân – Nghĩa làm đầu. Di Nhân – Nghĩa có làm đủ thì công việc mới thành công được”.

Ông cha ta đã từng lấy ”Nhân – Nghĩa thắng hung tàn, lấy Trí – Nhân thay cường bạo” mà chống thắng giặc phương Bắc hàng ngàn năm đô hộ và chiến thắng 2 tên đế quốc tư bản giàu mạnh nhất thế giới đó là Pháp và Mỹ.

Nghĩa: ”Là ngay thẳng, không có tư tâm, không làm việc bậy, không có việc gì phải giấu Đảng. Ngoài lợi ích của Đảng, không có lợi ích riêng phải lo toan. Lúc Đảng giao cho việc, thì bất kỳ to nhỏ đều ra sức làm cẩn thận. Thấy việc phải thì làm, thấy việc phải thì nói. Không sợ người ta phê bình mình, mà phê bình khác cũng luôn luôn đúng đắn”.

Người lãnh đạo làm việc nghĩa không có tà tâm, không bao giờ sợ kẻ địch nào, không sợ kẻ tà gian, nhưng lại sẵn sàng làm người đầy tớ thật trung thành của nhân dân, sống phải có nghĩa có tình.

Trí: ”Vì không có việc tư túi nó làm mù quáng, cho nên đầu óc trong sạch, sáng suốt. Dễ hiểu lý luận, dễ tìm phương hướng. Biết xem người, biết xét việc. Vì vậy, mà biết làm việc có lợi, tránh việc có hại cho Đảng, biết vì Đảng mà cất nhắc người tốt, đề phòng người gian”.

Người lãnh đạo phải có đầu óc sáng suốt, có tầm nhìn xa trông rộng. Biết công tâm mà xem xét con người để giúp đỡ, biết người xấu không dùng.
Dũng: ”Dũng cảm, gan góc, gặp việc phải có gan làm. Thấy khuyết điểm có gan sửa chữa. Cực khổ khó khăn có gan chịu đựng. Có gan chống lại những sự vinh hoa, phú quý không chính đáng. Nếu cần, thì có gan hy sinh cả tính mệnh cho Đảng, cho Tổ quốc, không bao giờ rụt rè, nhút nhát”. Dũng cũng còn có gan mạnh dạn quyết đoán dám làm dám chịu trách nhiệm trước tổ chức, nhưng không phiêu lưu, chủ quan, liều lĩnh. Người cán bộ không có lòng dũng cảm thì không thể lãnh đạo được. Nói được thì phải làm cho kỳ được, không thể nói một đàng, làm một nẻo. Hồ Chủ tịch nói: ”Lời nói và việc làm của đảng viên rất quan hệ đến sự nghiệp cách mạng, vì nó ảnh hưởng lớn đến quần chúng”… ”đảng viên phạm sai lầm thì sẽ đưa quần chúng đến sai lầm, cho nên có sai lầm thì các đồng chí ấy sẵn sàng và kịp thời sửa chữa, không để nhiều sai lầm nhỏ cộng thành sai lầm to”.

Liêm: ”Là không tham địa vị. Không tham tiền tài. Không tham sung sướng. Không ham người tân bốc mình. Vì vậy mà quang minh chính đại, không bao giờ hủ hóa. Chỉ có 1 thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ. Đó là đạo đức cách mạng. Đạo đức đó không phải là đạo đức thủ cựu. Nó là đạo đức mới, đạo đức vĩ đại, nó không phải vì danh vọng của cá nhân, mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc, của loài người”.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: Trời có 4 mùa: Xuân, hạ, thu, đông. Đất có 4 phương: Đông, Tây, Nam, Bắc, thì con người mà nhất là người cán bộ lãnh đạo có 4 đức: Cần, kiệm, liêm, chính. Thiếu một mùa không thể thành trời, thiếu một phương không thể thành đất, thiếu 1 trong 4 đức trên không thể thành người lãnh đạo.

Cần: ”Tức là siêng năng, chăm chỉ, cố gắng dẻo dai. Nghĩa là cần thì việc gì, dù khó khăn mấy cũng làm được. Chữ Cần chẳng những có nghĩa hẹp như: Tay siêng làm thì hàm siêng nhai. Nó lại có nghĩa rộng là mọi người đều phải Cần, cả nước đều phải Cần”.

”Người siêng năng thì mau tiến bộ
Cả nhà siêng năng thì chắc ấm no
Cả làng siêng năng thì làng phồn vinh
Cả nước siêng năng thì nước mạnh giàu”

Kiệm: ”Là tiết kiệm, không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi. Cần với Kiệm phải đi đôi với nhau, như hai chân của con người. Cần mà không Kiệm ”thì làm chừng nào xào chừng ấy”. Ngày xưa Khổng Tử đã nói: ”Người sản xuất nhiều, người tiêu xài ít. Làm ra mau, dùng đi chậm thì của cải luôn luôn đầy đủ”.

”Tiết kiệm không phải là bủn xỉn. Khi không nên tiêu xài thì một hạt gạo, một đồng xu cũng không nên tiêu. Khi có một việc đáng làm, việc lợi ích cho đồng bào, cho Tổ quốc thì dù bao nhiêu công, tốn bao nhiêu của cũng vui lòng… Việc đáng tiêu mà không tiêu là bủn xỉn, dại dột, chứ không phải là kiệm”. Người lãnh đạo phải hết sức tiết kiệm. Trong đó có tiết kiệm thời giờ, tiết kiệm là phải kiên quyết chống xa xỉ.

Ngày xưa thời chế độ phong kiến, người làm quan mà không đục khoét của dân thì gọi là ”Liêm”. Còn Hồ Chủ tịch, chữ ”Liêm” quan niệm là không tham địa vị. Không tham tiền tài, không tham sung sướng, không tham sắc, không tham người tân bốc mình. Vì vậy mà quang minh chính đại. Liêm là trong sạch, không tham lam. Chữ Liêm phải đi đôi với chữ Kiệm, cũng như chữ Kiệm phải đi đôi với Cần. Có Kiệm mới có Liêm được. Vì xa xỉ mà sanh ra tham lam.

Tham tiền của, tham địa vị, tham danh tiếng, tham ăn ngon, sống yên thân là ”Bất Liêm”. Như xã hội hiện nay đang xuất hiện không ít người như vậy.

Đối với cán bộ các cơ quan, các đoàn thể, cấp cao thì quyền to, cấp thấp thì quyền nhỏ. Dù to hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục khoét, có dịp ăn của đút, có dịp ”dĩ công vì tư”.

Vì vậy, cán bộ phải thực hành chữ ”Liêm” trước để làm kiểu mẫu cho dân.

Chính: ”Chính nghĩa là không tà, nghĩa là thẳng thắn, đứng đắn. Điều gì không thẳng thắn, đứng đắn tức là tà”. Cần, Kiệm, Liêm là gốc rễ của Chính. Một người Cần, Kiệm, Liêm, nhưng còn phải có Chính mới là hoàn toàn.

Siêng năng (Cần), tần tiện (Kiệm), trong sạch (Liêm), Chính là Thiện.

Trên quả đất có hàng muôn triệu người. Song số người ấy có thể chia làm hai hạng: Người Thiện và người Ác.

Trong xã hội tuy có trăm công nghìn việc. Song những việc ấy có thể chia làm 2 thứ:

Việc Chính và việc Tà.

Làm việc Chính là người Thiện
Làm việc Tà là người Ác.

Chính cũng có nghĩa là gần với chân lý, là cái gì có lợi cho Tổ quốc, cho nhân dân, cái gì trái lại là không phải chính, không phải là chân lý. Ra sức để phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân, tức là phục tùng chính nghĩa, là chân lý.

Tóm lại, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh thì người cán bộ phải có đủ tài, đủ đức. Hội tụ đủ Trung, Hiếu, Nhân, Nghĩa, Trí, Dũng, Cần, Kiệm, Liêm, Chính là những phẩm chất đạo đức căn bản nhất phải có. Những phẩm chất, đạo đức đó được nhân dân ta, Đảng ta và Hồ Chủ tịch vun đắp lâu đời. Nó phù hợp với yêu cầu xây dựng con người mới XHCN, nền đạo đức mới của dân tộc trong thời đại hiện nay. Đạo đức mới, đạo đức vĩ đại, không phải vì danh vọng cá nhân mà toàn tâm toàn ý cho lợi ích của dân tộc và của Đảng, của cả loài người. Chính Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kế thừa có chọn lọc truyền thống của cha ông ta bằng chính cuộc sống và sự nghiệp cách mạng vĩ đại của Người. Là một biểu tượng cao đẹp của con người trung thành, hiếu nghĩa, một lòng một dạ vì nước vì dân, là bậc đại nhân, đại nghĩa, đại trí, đại dũng và hết sức cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư.

Học tập và làm theo lời dạy và tấm gương đạo đức phẩm chất của nhà cách mạng thiên tài Hồ Chí Minh để xứng đáng là người lãnh đạo và đầy tớ thật trung thành của nhân dân.

Theo Báo Long AN

dalat.gov.vn

Một lãnh tụ vĩ đại, thiên tài

Những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp bắt tay vào khai thác thuộc địa lần thứ nhất. Xã hội Việt Nam bắt đầu có những biến chuyển và phân hóa. Sự xâm nhập của chủ nghĩa tư bản Pháp đã làm nảy sinh trong xã hội Việt Nam 2 giai cấp mới: giai cấp tư sản và giai cấp vô sản.

Nguyễn Tất Thành rất khâm phục tinh thần yêu nước của các sĩ phu, văn thân, chí sĩ xả thân vì nước, nhưng Người không tán thành đường lối cứu nước của các bậc tiền bối. Tư tưởng yêu nước của Nguyễn Tất Thành tuy lúc đó chưa gặp chủ nghĩa xã hội, nhưng đã thể hiện tầm vóc vượt trước quan điểm cứu nước đương thời.

Nguyễn Tất Thành sinh ra và lớn lên trong một gia đình có truyền thống hiếu học, một địa phương có truyền thống yêu nước. Từ lúc tuổi còn nhỏ, Người sớm được tiếp cận với các tư tưởng lớn của phương Đông, hấp thụ vốn văn hóa truyền thống của dân tộc, Hán học và bước đầu tiếp xúc với văn hóa phương Tây. Chứng kiến cảnh khổ cực của người dân mất nước, tinh thần đấu tranh bất khuất của cha anh, Người càng yêu nước, thương dân sâu sắc và hun đúc những hoài bão lớn lao. Vốn có tư chất thông minh, tinh thần ham học hỏi, khả năng tư duy độc lập, tính ham hiểu biết và nhạy bén với cái mới, Người bị lôi cuốn bởi khẩu hiệu “Tự do, bình đẳng, bác ái” và thôi thúc bởi ý định tìm hiểu “cái gì ẩn giấu sau” những từ đẹp đẽ đó ở chính nước sinh ra khẩu hiệu đó. Những tư tưởng tiến bộ của cuộc cách mạng ở Pháp năm 1789, thành tựu văn minh, tiến bộ của nhân loại ở Pháp và các nước châu Âu khác đã thúc đẩy Người muốn đến tận nơi tìm hiểu. Đó chính là những lý do Nguyễn Tất Thành quyết định chọn nước Pháp, chọn châu Âu làm điểm đến đầu tiên trong cuộc hành trình đi tìm đường cứu nước năm 1911.

Hành trình tìm đường cứu nước và những chuyển biến trong nhận thức về con đường giải phóng dân tộc của Nguyễn Tất Thành – Nguyễn Ái Quốc

Khi ra nước ngoài, hành trang ban đầu của Nguyễn Tất Thành là tri thức về văn hóa phương Đông và phương Tây, lòng yêu nước nhiệt thành, tiếp thu có chọn lọc con đường cứu nước của các nhà yêu nước lớp trước và một dự định rõ rệt, lớn lao, đó là “xem nước Pháp và các nước khác, sau khi xem xét họ làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào ta”, đó là dự định đi tìm con đường cứu nước, cứu dân. Ngày 5-6-1911, trên con tàu “Đô đốc Latouche Tréville”, từ Bến cảng Nhà Rồng của thành phố Sài Gòn, Nguyễn Tất Thành đã lên đường sang Pháp.

Người làm bất cứ việc gì để sống và hoạt động (phụ bếp dưới tàu, làm bánh trong các khách sạn, cào tuyết, đốt lò, chụp ảnh…). Gần 10 năm, vừa lao động kiếm sống, vừa tiến hành khảo sát thực tiễn nhiều nước tư bản và các nước thuộc địa, khảo sát các cuộc cách mạng ở các nước Pháp, Anh, Mỹ…

Nguyễn Tất Thành đã có nhận thức quan trọng là: cách mạng tư sản là những cuộc cách mạng vĩ đại, nhưng là những cuộc cách mạng chưa đến nơi. Người kết luận, chúng ta đổ xương máu để làm cách mạng thì không đi theo con đường cách mạng này. Nguyễn Tất Thành đã tìm ra những mặt trái của xã hội phương Tây, nhận ra “ở đâu cũng có người nghèo khổ như xứ sở mình” do ách áp bức, bóc lột dã man, vô nhân đạo của bọn thống trị. Điều đó đã giúp Người có một nhận thức quan trọng: nhân dân lao động trên toàn thế giới cần đoàn kết lại để đấu tranh chống kẻ thù chung là giai cấp thống trị; cùng nhau thực hiện nguyện vọng chung là độc lập, tự do.

Sống hòa mình cùng nhân dân lao động và phong trào đấu tranh của công nhân Pháp, Nguyễn Ái Quốc say sưa hoạt động cách mạng, viết báo, hội họp, tuyên truyền, cổ động. Năm 1917, Nguyễn Tất Thành tham gia hoạt động trong phong trào của những người Việt Nam yêu nước tại Pháp. Thành công của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 có ảnh hưởng rất lớn đến tình cảm và nhận thức của Người. Đầu năm 1919, Nguyễn Tất Thành tham gia Đảng Xã hội Pháp. Ngày 18-6-1919, với tên Nguyễn Ái Quốc, Người thay mặt những người Việt Nam yêu nước tại Pháp gửi bản yêu sách tới Hội nghị Vécxây yêu cầu về quyền tự do, dân chủ, bình đẳng dân tộc cho nhân dân An Nam. 8 yêu cầu không được chấp nhận, nhưng đã vạch trần bản chất giả dối của các cường quốc thống trị, đồng thời cũng đem lại cho Nguyễn Ái Quốc một nhận thức tỉnh táo là các dân tộc muốn được giải phóng chỉ có thể dựa vào sức lực của bản thân mình (Còn tiếp).

Nguồn: baobinhduong.org.vn (TT)

tuoitrebinhduong.vn

Diệt giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm trong lời kêu gọi thi đua ái Quốc của Hồ Chủ tịch

Vào ngày này, cách đây hơn 60 năm, ngày 11/6/1948 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc lời Kêu gọi thi đua ái quốc trước quốc dân, đồng bào. Người đã chỉ rõ “Mục đích của thi đua ái quốc là diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm”, “cách làm là dựa vào lực lượng của dân, tinh thần của dân, để gây hạnh phúc cho dân”. “Vì vậy, bổn phận mỗi người dân Việt Nam, bất kỳ sĩ, nông, công, thương, binh…”, “bất kỳ già, trẻ, trai, gái, bất kỳ giàu nghèo, lớn, nhỏ đều cần phải trở nên chiến sĩ đấu tranh trên một mặt trận Quân sự, kinh tế, chính trị , văn hoá…”, “ Chúng ta vừa kháng chiến, vừa kiến quốc…”, “Thực hiện dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc”.

Thực hiện Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, các phong trào thi đua ái quốc đã phát triển rộng khắp các vùng miền và thu hút tầng tầng, lớp lớp nhân dân tham gia. Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược các phong trào thi đua lớn như: “Diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm”, “Bình dân học vụ”, “Hũ gạo kháng chiến”… đã cuốn hút, cổ vũ, động viên đồng bào và chiến sĩ cả nước hăng say lao động sản xuất, thực hành tiết kiệm chống giặc đói; Thi đua học tập xoá nạn mù chữ, chống giắc dốt và dũng cảm ngoan cường trong chiến đấu diệt giặc ngoại xâm làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ lừng lẫy 5 châu, chấn động địa cầu.

Phát huy truyền thống lịch sử Điện Biên năm xưa, trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống đế quốc Mỹ xâm lược, các phong trào thi đua tiếp tục được duy trì và nở rộ trên khắp các lĩnh vực, các vùng miền trong cả nước. Các phong trào thi đua tiêu biểu như: “Mỗi người làm việc bằng hai vì miền Nam ruột thịt”; “Sóng Duyên hải” trong sản xuất công nghiệp; “Gió Đại phong” trong sản xuất nông nghiệp; “Cờ Ba nhất” trong quân đội; “Trống Bắc lý” trong giáo dục; “Thanh niên Ba sắn sàng”; “Phụ nữ Ba đảm đang”… khẩu hiệu hành động nhà nhà thi đua, người người thi đua, ngành ngành thi đua, ta nhất định thắng, địch nhất định thua, tất cả vì miền Nam ruột thịt, tất cả cho tiền tuyến, tất cả cho chiến thắng giặc Mỹ xâm lược đã động viên cổ vũ huy động cả sức người, sức của cho chiến trường và sức mạnh thần kỳ của cả dân tộc Việt Nam đã được khơi dậy, cả dân tộc đã đoàn kết đứng lên đánh Mỹ và Thắng Mỹ, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đưa đất nước bước sang kỷ nguyên mới, cả nước cùng đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Bước sang thời kỳ đổi mới, kế thừa và phát huy chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đã và đang ra sức hưởng ứng phong trào thi đua trong cuộc đấu tranh chống đói nghèo và lạc hậu, xây dựng đất nước theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đó là các phong trào: “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá, cuộc vận động ngày vì người nghèo”; phong trào lao động giỏi, lao động sáng tạo trong công nhân và người lao động, phong trào nông dân thi đua sản xuất kinh doanh giỏi; phong trào phụ nữ giỏi việc nước đảm việc nhà; phong trào thanh niên tình nguyện xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; phong trào Công an nhân dân thi đua thực hiện 6 Điều Bác Hồ dạy; phong trào thi đua quyết thắng trong lực lượng vũ trang và nhiều phong trào thi đua khác do các Bộ, ngành, đoàn thể Trung ương và địa phương phát động. Đó là sự tiếp nối truyền thống thi đua ái quốc trong điều kiện, hoàn cảnh mới. Các phong trào thi đua luôn là biểu tượng cho tinh thần yêu nước nồng nàn, ý chí anh hùng bất khuất của dân tộc, tạo thành động lực to lớn, phấn đấu vượt qua thời điểm khó khăn nhất giành độc lập tự do, thống nhất Tổ quốc, bảo vệ thành quả cách mạng, xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh.

Thông qua các cuộc vận động và các phong trào thi đua đã xuất hiện các tập thể, cá nhân anh hùng và hàng triệu tấm gương điển hình tiên tiến tiêu biểu cho tinh thần vượt khó, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm và ý chí tự lực tự cường của con người Việt Nam. Trong 60 năm qua, Đảng, Nhà nước đã tặng thưởng 13.583.540 Huân, Huy chương, Danh hiệu vinh dự Nhà nước và Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ cho các tập thể, cá nhân trong và ngoài nước đã có nhiều thành tích trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu, lao động sản xuất, học tập, nghiên cứu khoa học, giữ gìn bảo vệ an ninh Tổ quốc.
Thực hiện Lời kêu gọi thi đua ái quốc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ kính yêu. Hưởng ứng các phong trào thi đua do Đảng, Bác Hồ phát động, nhân dân các dân tộc Lạng Sơn cùng các lực lượng vũ trang đã lập những chiến công vang dội trên mặt trận đường số 4 góp phần cho thắng lợi của chiến dịch Biên giới năm 1950, giải phóng một vùng biên cương rộng lớn, mở rộng chiến khu Việt Bắc, nối liền nước ta với các nước xã hội chủ nghĩa anh em, góp phần quan trọng làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, buộc thực dân Pháp phải ký hiệp định Giơnevơ, lập lại hoà bình ở Đông Dương.

Ghi nhận thành tích của quân và dân các dân tộc tỉnh Lạng Sơn trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Đảng và Nhà nước đã tặng thưởng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân; tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang cho nhân dân 5 huyện và 28 xã, thị trấn; 2 cá nhân được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, nhiều đồng chí, đồng bào được tặng thưởng huân, huy chương các loại. Tiểu đoàn 249, Khu du kích Ba Sơn được tặng Huân chương Quân công hạng 2; Khu du kích Nà Thuộc; Chi Lăng được thưởng Huân chương quân công hạng 3.

Những năm khói lửa của cuộc chiến tranh chống đế quốc Mỹ, Lạng Sơn trở thành “cảng nổi” trên tuyến đường huyết mạch chi viện cho Miền Nam. Nhân dân các dân tộc Lạng Sơn đã kề vai, sát cánh giữ vững mạch máu giao thông. Thực hiện lời hiệu triệu của Bác Hồ “Tất cả cho tiền tuyến”, “Tất cả cho giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước”, tỉnh Lạng Sơn đã trở thành một trong những hậu phương vững chắc, chi viện sức người, sức của cho chiến trường Miền Nam. Quân và dân các dân tộc Lạng Sơn vừa ra sức thi đua sản xuất, góp phần xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc vừa hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ tiếp nhận, bảo vệ và vận chuyển an toàn hàng hoá của các nước XHCN anh em ủng hộ chi viện cho các chiến trường miền Nam, đồng thời luôn sẵn sàng chiến đấu chống chiến tranh phá hoại bằng không quân của đế quốc Mỹ.

Nghe theo Lời kêu gọi thi đua ái quốc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, lớp lớp thanh niên Lạng Sơn đã nô nức lên đường với tinh thần “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”. Họ đã anh dũng chiến đấu vì độc lập tự do của dân tộc, nhiều người trong số đó đã vĩnh viễn nằm lại nơi chiến trường hoặc mang thương tật suốt đời. Trong hai năm 1965 – 1966, tỉnh ta đã thành lập hai tiểu đoàn tăng cường, chi viện cho tiền tuyến có phiên hiệu Bắc Sơn 1 và Bắc Sơn 2. Các thế hệ cán bộ, chiến sĩ tiểu đoàn Bắc Sơn đã lần lượt lên đường ra tiền tuyến. Họ có mặt ở nhiều chiến trường nóng bỏng từ Bình Trị Thiên khói lửa, Quảng Nam, Đà Nẵng trung dũng kiên cường; từ núi rừng Tây Nguyên bất khuất đến đồng bằng sông Cửu Long. Vượt qua nhiều năm gian khổ, chiến sĩ của Tiểu đoàn Bắc Sơn đã chiến đấu anh dũng, lập nên những chiến công xuất sắc, 10 đồng chí được nhà nước tuyên dương anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (như Nông Văn Nghi, Dương Công Sửu, Nguyễn Như Hành, Nguyễn Bá Tòng, Hoàng Văn Quyết…). Những hy sinh, đóng góp to lớn của quân và dân các dân tộc Lạng Sơn đã góp phần cùng cả nước làm nên chiến thắng Mùa Xuân năm 1975 lịch sử, giải phóng hoàn toàn Miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước tiến lên con đường xây dựng Chủ nghĩa xã hội.

Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, quân và dân các dân tộc Lạng Sơn luôn phát huy truyền thống anh hùng cách mạng, phát huy sức mạnh đoàn kết các dân tộc anh em, tiếp tục truyền thống thi đua yêu nước, vươn lên, vượt qua khó khăn, thử thách, giành được nhiều thành tích đáng tự hào. Sau hơn 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, từ một tỉnh miền núi còn nghèo, dân trí thấp, kinh tế chậm phát triển, cơ sở hạ tầng yếu kém, đến nay tỉnh Lạng Sơn đã có bước phát triển khá nhanh và toàn diện trên các lĩnh vực. Nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng khá cao và ngày càng bền vững, công tác xúc tiến đầu tư – thương mại có bước chuyển biến mới, cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực và đúng hướng. Kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội được tăng cường, năng lực sản xuất mới được bổ sung. Văn hoá, xã hội có nhiều chuyển biến tiến bộ. Tình hình chính trị ổn định, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo, quốc phòng, an ninh được giữ vững. Công tác xây dựng Đảng, chính quyền, mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân đạt kết quả tích cực. Đời sống của nhân dân ngày càng được cải thiện và nâng cao.

Đóng góp to lớn của nhân dân các dân tộc Lạng Sơn trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa đã được Đảng và Nhà nước đánh giá cao, nhân dân luôn ghi nhớ: Tổ quốc đã ghi công 5.400 liệt sỹ, Nhà nước đã phong tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng cho 67 bà mẹ, đã tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang cho 52 tập thể và 18 cá nhân, anh hùng Lao động cho 3 tập thể; phong tặng danh hiệu 29 Nhà giáo ưu tú, 21 Thầy thuốc ưu tú, 3 Nghệ sỹ ưu tú. Có chính sách khen thưởng và đãi ngộ cho 34.000 Người có công. Nhiều cá nhân, tập thể xuất sắc tiêu biểu đã được tặng các danh hiệu thi đua vẻ vang, huân chương, huy chương các loại.

Công tác khen thưởng thành tích trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ những năm qua được tỉnh quan tâm chỉ đạo tích cực. Việc xét khen thưởng tiến hành thận trọng, chặt chẽ và chính xác. Từ năm 1998 đến năm 2007, tỉnh đã giải quyết chính sách cho 997 trường hợp người có thành tích chống Pháp, 8.955 trường hợp người có thành tích chống Mỹ. Thực hiện Quyết định số 98/2006/QĐ-TTg ngày 05/5/2006 của Thủ tướng Chính phủ về việc tặng Bằng khen cho các đối tượng có thành tích kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Chủ tịch UBND tỉnh đã tặng 3.701 Bằng khen cho các đối tượng có thành tích tham gia kháng chiến.

Từ năm 2001 đến nay, qua các phong trào thi đua nhiều tập thể và cá nhân tiêu biểu xuất sắc đã được Nhà nước, Chính phủ: tặng thưởng hàng trăm Huân chương Lao động các hạng, 8 Cờ thi đua của Chính phủ, 106 Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ; Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh đã tặng thưởng 101 Cờ thi đua và 8.800 Bằng khen, công nhận danh hiệu Chiến sỹ thi đua cấp tỉnh cho 16 cá nhân, tặng danh hiệu đơn vị Quyết thắng cho 94 đơn vị. Hợp tác xã Nà Pán, xã Nhượng Bạn, huyện Lộc Bình và Công ty TNHH Huy Hoàng, thành phố Lạng Sơn đã vinh dự được Đảng, nhà nước phong tặng danh hiệu anh hùng lao động trong thời kỳ đổi mới.

Kỷ niệm 60 năm ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi thi đua ái quốc, nhìn lại chặng đường 60 năm qua, chúng ta luôn tự hào về Đảng quang vinh và Bác Hồ vĩ đại; tư tưởng thi đua ái quốc của Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn là ngọn đuốc sáng soi đường, là kim chỉ nam cho các phong trào thi đua yêu nước của chúng ta ngày nay.

Kỷ niệm Ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi thi đua ái quốc hôm nay, chúng ta không chỉ nhớ ơn Người mà còn học tập ở Bác phương pháp vận động quần chúng, phương pháp tổ chức phong trào thi đua yêu nước và niềm tin son sắt vào sức mạnh của đồng chí, đồng bào ta.

Năm 1949, một năm sau Lời kêu gọi thi đua ái quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh khen ngợi những thành tích đã đạt được của quân và dân ta, đồng thời Người cũng thẳng thắn chỉ ra những khuyết điểm trong công tác thi đua, đó là: còn nhiều người dân, mà trước hết là cán bộ chưa hiểu rõ ý nghĩa của phong trào thi đua ái quốc… Tưởng lầm thi đua là một việc khác với những công việc hàng ngày. Tưởng thi đua chỉ nhất thời, thay vì phải trường kỳ. Người nói: nhiều nơi đặt ra những phong trào thi đua không sát với hoàn cảnh, với địa phương. Nơi thì đặt kế hoạch to quá rồi làm không nổi. Nơi thì ban đầu làm quá ồ ạt đến nỗi ít lâu sau thì đuối sức đi, không tiếp tục thi đua được. Nơi thì mỗi đoàn thể, mỗi ngành đều có một kế hoạch riêng mà kế hoạch thì không ăn khớp với nhau, thành thử trống đánh xuôi, kèn thổi ngược. Nhân dân thì bù đầu, không đủ sức mà theo cả các kế hoạch và không biết nên theo kế hoạch nào. Nhiều nơi có kinh nghiệm, hoặc kinh nghiệm thành công, hoặc kinh nghiệm thất bại, nhưng không biết trao đổi cho nơi khác để tránh cái dở, học cái hay của nhau.
Để có thể sửa chữa khuyết điểm, Bác đã dạy chúng ta rằng: “Công việc hàng ngày chính là thi đua. Từ trước đến giờ ta vẫn ăn, vẫn mặc, vẫn ở. Nay ta thi đua ăn, mặc ở cho hợp vệ sinh, cho khỏi đau ốm. Xưa nay ta vẫn làm ruộng, nay ta thi đua làm cho đất ruộng tốt hơn, sản xuất nhiều hơn. Thi đua là phải trường kỳ, là phải giải thích cho mọi người dân hiểu rằng: thi đua ái quốc là lợi ích của mình, lợi ích của gia đình mình, và lợi ích cho làng, cho nước, cho dân tộc. Mọi người dân hiểu rõ thì tất cả mọi khó khăn đều giải quyết được, tất cả mọi khuyết điểm đều sửa chữa được.

Coi trọng phương pháp vận động quần chúng thông qua phong trào thi đua yêu nước, Hồ Chí Minh kịch liệt phê phán tư tưởng khoa trương “phát” mà không “động”, hoặc lối làm ăn theo kiểu đánh trống bỏ dùi, đầu voi đuôi chuột. Người yêu cầu các cấp, các ngành khi phát động thi đua thì phải tổ chức tuyên truyền, theo dõi, kiểm tra, đôn đốc, vì thành tích chung, không phải vì thành tích anh hùng cá nhân.

Vời thái độ trân trọng, ghi nhận tinh thần phấn đấu và công lao của những anh hùng, chiến sĩ thi đua đối với sự nghiệp cách mạng của dân tộc, những thành tích “Tuyệt đối không tự cao, tự đại, cho minh là giỏi rồi. Phải luôn luôn nhớ rằng thành tích là thành tích tập thể, anh hùng là anh hùng tập thể”. Chính nhờ có sự quán triệt kịp thời và thường xuyên về động cơ phấn đấu và mục đích thi đua yêu nước của Bác Hồ mà phong trào thi đua giữa các ngành, các giới được duy trì liên tục, đúng mục đích, được sự ủng hộ của quần chúng va đem lại hiệu quả rất thiết thực trong suốt những năm qua.

Trước yêu cầu của tình hình, nhiệm vụ mới, bên cạnh những thời cơ và thuận lợi, đất nước đang đứng trước những khó khăn, thách thức như: quy mô kinh tế còn nhỏ, cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm, chất lượng tăng trưởng, năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh còn thấp, thể chế kinh tế thị trường chưa hoàn thiện, hạ tầng kinh tế xã hội và nguồn nhân lực chưa đáp ứng được yêu cầu của sự phát triển; đặc biệt tình hình lạm phát và giá cả tiêu dùng tăng cao tác động tiêu cực đến sản xuất, ảnh hưởng đến công ăn, việc làm, thu nhập và đời sống của nhân dân, tham nhũng, lãng phí, tệ nạn xã hội còn nhiều bức xúc. Đảng, nhà nước chủ trương phải tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công tác thi đua, khen thưởng theo tinh thần Chỉ thị 35 và Chỉ thị 39 của Bộ Chính trị, nghiêm túc thực hiện Luật thi đua khen thưởng; nâng cao hơn nữa nhận thức về vai trò, vị trí và tầm quan trọng của thi đua, khen thưởng và vai trò lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng, người đứng đầu các tổ chức; phát huy đầy đủ vai trò, trách nhiệm của mặt trận và các đoàn thể nhân dân đối với công tác thi đua khen thưởng. Từng ngành, từng cấp, từng cơ quan, đơn vị phải cụ thể hoá mục tiêu thi đua thành chương trình, biện pháp cụ thể để tổ chức thực hiện có hiệu quả, khắc phục tính hình thức trong thi đua và bệnh thành tích trong khen thưởng để công tác thi đua, khen thưởng thực sự là phong trào của quần chúng, là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội và xây dựng con người mới.

Để tiếp tục thực hiện Lời kêu gọi thi đua ái quốc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Chỉ thị số 27-TU ngày 18/3/2008 của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ về việc tổ chức các hoạt động tiến tới Kỷ niệm Ngày sinh đồng chí Hoàng Văn, lãnh tụ của Đảng, người con ưu tú của nhân dân các dân tộc Lạng Sơn. Tại Lễ Kỷ niệm trọng thể này, tôi xin thay mặt Tỉnh uỷ, HĐND, UBND tỉnh phát động đợt thi đua lập thành tích thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 10 và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ 14 và hướng tới Kỷ niệm 100 năm Ngày sinh đồng chí Hoàng Văn Thụ với những nội dung chủ yếu sau đây:

Một là,Phát huy cao độ truyền thống yêu nước; khơi dậy ý thức tự giác; sức sáng tạo của các tầng lớp nhân dân; tạo khí thế thi đua sôi nổi trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; đẩy mạnh phát triển kinh tế – xã hội, xoá đói, giảm nghèo; đảm bảo quốc phòng an ninh, triển khai đồng bộ, có hiệu quả các giải pháp kiềm chế lạm phát, tập trung mọi nguồn lực duy trì tăng trưởng kinh tế bền vững; phấn đấu hoàn thành các nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội năm 2008, tạo tiền đề để hoàn thành kế hoạch 5 năm 2006 – 2010 và những năm tiếp theo. Trong đó:

– Tập trung, phát huy tối đa tiềm năng, thế mạnh, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực cho đầu tư, phát triển, đặc biệt là phát triển kết cấu hạ tầng, nhất là hạ tầng giao thông để tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất, kinh doanh, các hoạt động thương mại, du lịch, dịch vụ, các khu vực kinh tế trọng điểm, khu vực nông nghiệp, nông thôn, phấn đấu đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế từ 12 – 12,5% so với năm 2007. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu cây trồng vật nuôi nhanh hơn theo hướng sản xuất hàng hoá. Tạo môi trường thông thoáng cho các hoạt động thương mại, du lịch, dịch vụ, tăng cường công tác xúc tiến đầu tư, xúc tiến thương mại; khẩn trương triển khai thực hiện Quyết định số 55/2008/QĐ-TTg ngày 28/4/2008 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án xây dựng Khu kinh tế cửa khẩu Đồng Đăng – Lạng Sơn.

Hai là, hiện tốt các mục tiêu văn hoá – xã hội, đẩy mạnh công tác xoá đói giảm nghèo, cải thiện, nâng cao đời sống của nhân dân, nhất là đồng bào dân tộc ở vùng sâu, vùng cao, vùng còn nhiều khó khăn; đẩy mạnh công tác xã hội hoá: trước mắt tập trung vào lĩnh vực giáo dục, y tế, thể thao.

Ba là, tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính. Đặc biệt là cải cách thủ tục hành chính, thực hiện có hiệu quả cơ chế một cửa và cơ chế một cửa liên thông ở các lĩnh vực quản lý đất đai, đầu tư xây dựng, các thủ tục liên quan đến doanh nghiệp, liên quan đến quyền lợi trực tiếp của nhân dân. Đẩy mạnh đào tạo, đào tạo lại đội ngũ cán bộ, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Tăng cường công tác kỷ cương hành chính, nâng cao trách nhiệm của người đứng đầu đơn vị và sự giám sát của nhân dân.

Bốn là, tăng cường công tác phòng, chống tham nhũng lãng phí, từng bước ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng tham nhũng, lãng phí. Thực hiện tốt chương trình kế hoạch phòng, chống tham nhũng năm 2008, trong đó chú trọng việc chống tham nhũng là yếu tố quan trọng để góp phần phòng ngừa tốt hơn. Đồng thời tăng cường công tác tuyên truyền và công tác thanh tra, kiểm tra, phát hiện, ngăn chặn xử lý kịp thời, nghiêm minh các biểu hiện vi phạm kỷ cương, phép nước.

Năm là, thực hiện tốt công tác đảm bảo quốc phòng – an ninh, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn; triển khai có hiệu quả công tác đấu tranh chống tội phạm và các loại tệ nạn xã hội. Hoàn thành việc phân giới, cắm mốc trên thực địa trong tháng 6/2008; tổ chức tốt công tác tuyên truyền và thực hiện quy chế quản lý biên giới sau phân giới cắm mốc; tăng cường công tác đối ngoại, nhất là đối ngoại nhân dân.

Sáu là, tiếp tục đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị tư tưởng, thực hiện tốt cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; đổi mới, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và đảng viên. Đẩy mạnh thực hiện cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực hoạt động của các cơ quan trong hệ thống chính trị từ tỉnh đến cơ sở. Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò tập hợp quần chúng của Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể nhân dân; thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, huy động động sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, vận động nhân dân tích cực tham gia và hưởng ứng các phong trào thi đua yêu nước, đẩy mạnh hoạt động lao động, sản xuất, xoá đói giảm nghèo, phấn đấu thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh.

Bẩy là, Để phong trào thi đua yêu nước thực sự có hiệu quả, là động lực thúc đẩy thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế – xã hội cần tăng cường công tác tuyên truyền tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức của các cấp uỷ đảng, chính quyền, Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, trong cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân về vị trí, vai trò, tác dụng của phong trào thi đua yêu nước trong giai đoạn cách mạng hiện nay; coi thi đua yêu nước là động lực to lớn thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Triển khai quán triệt và tổ chức thực hiện tốt tinh thần Chỉ thị 39 của Bộ chính trị, Chỉ thị 19 của Ban Bí thư, Chỉ thị 17 của Thủ tướng Chính phủ về công tác thi đua khen thưởng gắn với thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh của tỉnh.

– Các cơ quan truyền thông đại chúng tổ chức tuyên truyền sâu rộng tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về thi đua ái quốc; tuyên truyền, học tập tấm gương hoạt động cách mạng của đồng chí Hoàng Văn Thụ; tăng cường sáng tác, xuất bản, xây dựng các chuyên mục về đề tài thi đua yêu nước, giới thiệu, ca ngợi những điển hình tiên tiến trên mọi lĩnh vực, các phong trào thi đua tiêu biểu của tỉnh…

– Tiếp tục đổi mới nội dung và hình thức thi đua, khen thưởng; tổ chức phát động các phong trào, các đợt thi đua ở cơ sở với nội dung phong phú, thiết thực; tăng cường tuyên truyền vận động cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, người lao động, chiến sỹ lực lượng vũ trang và nhân dân tham gia phong trào thi đua yêu nước với khí thế sôi nổi trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.

– Tăng cường kiểm tra, đôn đốc, thực hiện tốt việc sơ kết, tổng kết theo định kỳ, sau mỗi đợt thi đua để kịp thời đánh giá, rút ra kinh nghiệm trong chỉ đạo, tổ chức công tác thi đua, kịp thời có hình thức tuyên dương, khen thưởng các cá nhân, tập thể có thành tích xuất sắc, phát hiện, xây dựng và nhân rộng các điển hình tiên tiến để phong trào thi đua thực sự có hiệu quả và trở thành động lực thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội.

– Tiếp tục thực hiện kiện toàn tổ chức, bộ máy cán bộ làm công tác thi đua khen thưởng từ tỉnh đến cơ sở đảm bảo ổn định và nâng cao chất lượng hoạt động, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của công tác thi đua khen thưởng trong giai đoạn mới.

– Tổ chức triển khai thực hiện tốt các dự án trùng tu, tôn tạo công trình, di tích liên quan đến thân thế và sự nghiệp của đồng chí Hoàng Văn Thụ như: Khuôn viên Tượng đài đồng chí Hoàng Văn Thụ; Nhà lưu niệm đồng chí Hoàng Văn Thụ tại số 8, phố Chính Cai, phường Hoàng Văn Thụ, thành phố Lạng Sơn; Khu lưu niệm đồng chí Hoàng Văn Thụ tại xã Hoàng Văn Thụ, huyện Văn Lãng để kịp thời phục vụ các hoạt động kỷ niệm.

Phát huy truyền thống yêu nước, cách mạng và thành quả quan trọng đã đạt được của quê hương Xứ Lạng, Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân tỉnh, Uỷ ban nhân dân tỉnh kêu gọi toàn thể cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, người lao động, cán bộ, chiến sỹ Lực lượng vũ trang và các tầng lớp nhân dân trong tỉnh, kiên quyết khắc phục khó khăn, yếu kém, với khí thế, niềm tin và sức mạnh mới, tăng cường đoàn kết, chung sức, đồng lòng, chủ động, sáng tạo, khơi dậy, khai thác một cách có hiệu quả các tiềm năng, thế mạnh của tỉnh, nỗ lực thi đua, quyết tâm xây dựng và phát triển Lạng Sơn tiến lên giành nhiều thành tích to lớn và toàn diện hơn.

langson.gov.vn

Bác Hồ với chống bệnh quan liêu

Bệnh quan liêu, dân chủ hình thức, thái độ quan cách, hách dịch, xa rời quần chúng… gây phiền hà cho nhân dân, cản trở sản xuất và công tác là hiện tượng đang có tính phổ biến, kể cả ở cơ sở.

Tệ quan liêu còn biểu hiện ở bệnh phô trương, hình thức, coi nhẹ tính hiệu quả, nặng về giấy tờ, thói thụ động…

Đã là cán bộ thì ít nhiều đều có quyền hành. Quyền hành là môi trường khách quan làm cho người cán bộ nếu không tỉnh táo dễ quên vai trò của quần chúng. Những cán bộ kém năng lực thường dùng quyền lực thay cho năng lực. Cán bộ quan liêu thường chỉ ngồi bàn giấy, ra chỉ thị cho cấp dưới và thường có “sáng kiến” đề ra nhiều cuộc vận động với tên gọi rất kêu, nhưng chỉ dừng ở khẩu hiệu suông.

Thói thụ động là một dạng cụ thể của bệnh quan liêu. Người cán bộ cấp dưới chỉ biết ngồi chờ mệnh lệnh cấp trên là hiện tượng không hiếm của công chức. Thói thụ động bỏ lỡ những cơ hội có thể đem lại lợi ích lớn cho Nhà nước, cho tập thể và né tránh những vấn đề cấp bách đòi hỏi phải có nhiều cố gắng để thực hiện.

Chủ nghĩa quan liêu, về mặt tổ chức, tạo dựng ra một hệ thống tổ chức quản lý dựa trên quyền lực. Điều đặc biệt nguy hại là chủ nghĩa quan liêu khéo núp dưới cái vỏ dân chủ – dân chủ hình thức – để lẩn tránh mọi sự lên án và trừng phạt.

V.I.Lênin đã phân biệt hai kiểu quan liêu: Kiểu thứ nhất thể hiện trong tác phong hoạt động của cán bộ và các cơ quan quản lý. Kiểu thứ hai là ở trong sự quản lý tồi.

Chủ nghĩa quan liêu có nguồn gốc sâu xa từ lịch sử, từ tư tưởng, nhận thức, tổ chức và tác phong.

Chủ nghĩa quan liêu tồn tại là vì còn cơ chế quan liêu và nhất là còn đội ngũ đông đảo cán bộ quan liêu. Cơ chế quan liêu là cái nôi làm nảy nở đội ngũ cán bộ quan liêu. Cán bộ quan liêu ra sức củng cố, bảo vệ cơ chế quan liêu để duy trì địa vị và quyền lợi của mình. Chủ nghĩa quan liêu là mảnh đất tốt sản sinh và dung dưỡng bệnh chủ quan, nóng vội, giản đơn, duy ý chí, giáo điều.

Thật không sai nếu nói rằng: Tệ quan liêu đem lại lợi ích cho những kẻ mắc bệnh đó. Chính lợi ích vị kỷ này là lý do làm cho một số dạng của tệ quan liêu sống dai dẳng và trở thành căn bệnh mãn tính rất khó chữa.

Phong cách làm việc quan liêu làm cho cán bộ bảo thủ, trì trệ, thiếu năng động và sáng tạo, thậm chí còn cản trở và chống lại sự năng động, sáng tạo.

Tệ quan liêu gây ra hệ quả tiêu cực là có một số nghị quyết, kế hoạch, chính sách, dự án được xây dựng thiếu căn cứ khoa học, tách rời khả năng và hiện thực.

Quan liêu và dân chủ đối lập với nhau như lửa với nước. Có cái này sẽ không có cái kia. Cho nên, không thể tiến hành cuộc đấu tranh chống bệnh quan liêu mà không dựa vào quần chúng trên cơ sở mở rộng dân chủ và công khai hóa, huy động quần chúng tham gia mọi hoạt động chính trị, kinh tế, xã hội, công khai thông tin, tạo mọi thuận lợi để dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra.

Chủ nghĩa quan liêu không tự thủ tiêu. Nó chỉ biến dạng, thậm chí, dù có đặt ra thể lệ, quy chế, nó cũng tìm cách làm cho mất hiệu lực, nếu không có phong trào đấu tranh mạnh mẽ của quần chúng.

Nguyên nhân của bệnh quan liêu đã được Bác Hồ chỉ rõ: “Xa nhân dân: Do đó, không hiểu tâm lý, nguyện vọng của nhân dân.

Khinh nhân dân: Cho là “dân ngu khu đen”, bảo sao làm vậy, không hiểu được chính trị, lý luận cao xa như mình.

Sợ nhân dân: khi có sai lầm, khuyết điểm thì sợ nhân dân phê bình, sợ mất thể diện, sợ phải sửa chữa.

Không tin cậy nhân dân: Họ quên rằng không có lực lượng nhân dân, thì việc nhỏ mấy, dễ mấy, làm cũng không xong, có lực lượng nhân dân, thì việc khó mấy, to mấy, làm cũng được.

Không hiểu biết nhân dân: Họ quên rằng nhân dân cần trông thấy lợi ích thiết thực (lợi ích gần và lợi ích xa, lợi ích riêng và lợi ích chung, lợi ích bộ phận và lợi ích toàn cuộc). Đối với nhân dân, không thể lý luận suông, chính trị suông.

Không yêu thương nhân dân: Do đó, họ chỉ biết đòi hỏi nhân dân, không thiết thực giúp đỡ nhân dân…”(1).

Theo Bác Hồ, chứng bệnh quan liêu tỏ ra bằng nhiều vẻ:

“Đối với người:

Cấp trên đối với cấp dưới, cán bộ đối với nhân dân, quân quan đối với binh sĩ, bộ đội đối với dân chúng – chỉ biết dùng mệnh lệnh. Không biết giải thích, tuyên truyền. Không biết làm dân chúng tự giác và tự động.

Đối với việc:

Chỉ biết khai hội nghị, viết nghị quyết, ra chỉ thị. Chứ không biết điều tra, nghiên cứu, đôn đốc, giúp đỡ, khuyến khích, kiểm tra.

Đối với mình:

Việc gì cũng kềnh càng, chậm rãi, làm cho qua chuyện. Nói một đường làm một nẻo.

Chỉ biết lo cho mình, không quan tâm đến nhân dân, đến đồng chí.

Một vẻ quan liêu nữa là: Chỉ biết ăn sang, diện cho kẻng; chẳng những không lo phụng sự nhân dân, mà còn muốn nhân dân phụng sự mình.

Tham ô, hủ hóa. Trước mặt dân chúng thì lên mặt “quan cách mạng”(2).

Người khẳng định: “Nếu không lo chữa, thì bệnh quan liêu sẽ đưa bệnh nhân đến chỗ hoàn toàn bị đào thải.

Thang thuốc chữa bệnh quan liêu:

– Phải đặt lợi ích dân chúng lên trên hết, trước hết.

– Phải gần gũi dân, hiểu biết dân, học hỏi dân.

– Phải thật thà thực hành phê bình và tự phê bình.

– Phải làm kiểu mẫu: Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.

Mong rằng toàn thể cán bộ ta, ai không mắc bệnh quan liêu thì phải giữ gìn, tránh nó. Ai đã mắc bệnh ấy, thì phải cố gắng mà chữa cho khỏi đi, cho xứng đáng là người cán bộ cách mạng, chớ để bị đào thải”(3).

_____

(1) Hồ Chí Minh toàn tập, NXBCTQG, H.2002, tập 6, tr.292-293. (2,3) Sđd, tập 6, tr.89-90.

Nguyễn Xuyến

xaydungdang.org.vn