Thư viện

Vị lãnh tụ bình dị

Sau chặng đường dài, hơn ba mươi nǎm, dấu chân Người in trên 25 quốc gia của thế giới đầy biến động trong những nǎm đầu của thế kỷ 20.

Ngày 28/01/1941, Bác Hồ dừng chân bên cột mốc 108, lòng bồi hồi xúc động, nhìn về phía trước, nơi đó là Tổ quốc, là đất mẹ. Từ giờ phút lịch sử dó, Người sẽ cùng cả dân tộc Việt Nam hướng về tương lai, sắp xếp lại trật tự xã hội với một ý chí mãnh liệt: Dân tộc Việt Nam phải được hồi sinh, phải trở về chính mình như ông cha đã từng gìn giữ trong suốt 4000 nǎm lịch sử.

Thật là một sự trùng hợp ngẫu nhiên, nơi Bác chọn dừng chân đầu tiên khi trở về Tổ quốc là nơi đầu nguồn, tiếng Tày là Cốc Bó, từ đây như dòng nước mát tuôn chảy mãi về xuôi, đem về sự sống trường tồn.

Những ngày đầu vất vả gian truân với cảnh tĩnh mịch ẩm ướt của núi rừng, Bác vận động anh em, dọn dẹp sửa sang nơi ở cho thoáng mát. Nơi hoang sơ của núi rừng mà Bác như thấy một giang sơn hùng vĩ nên thơ.

“Đại bản doanh” đầu tiên được bố trí thật giản dị, phía trong hang là chỗ ngủ kê mấy thanh gỗ ghép lại, đêm nằm vừa đau lưng, vừa lạnh, phải đốt lửa để bớt đi giá lạnh và ẩm ướt. Những ngày đầu Bác làm việc trong hang nhờ ánh sáng yếu ớt chiếu từ khoang trống nhỏ trên đỉnh hang. Đêm đêm để xua đi nỗi vất vả, thiếu thốn, Bác thường kể chuyện cho anh em nghe về lịch sử các thời kỳ ông cha dựng nước và giữ nước, cũng nếm mật nằm gai mưu cầu nghiệp lớn. Bác kể chuyện thế giới, chuyện chiến tranh, chuyện cổ tích và cả chuyện tiếu lâm, để trong hang có tiếng cười vui. Ǎn uống kham khổ, rau rừng nấu cháo ngô, bắp chuối chấm với muối trắng. Những bữa “cải thiện” là khi bắt được con cá, sǎn được con thú về kho muối mặn ǎn dần.

Khi phía ngoài hang được dọn dẹp sạch sẽ gọn gàng, ban ngày Bác thường ra phiến đá phía ngoài làm việc, sau giờ làm việc Bác ra ngồi câu cá cạnh gốc cây si bên bờ suối. Để bảo đảm tuyệt đối bí mật chỗ ở, Bác cho làm thêm một cơ sở khác cách đó không xa, nơi có mái núi đá. Bác thường nói vui là một vườn Bách thú, vì ở đây có nhiều rắn rết, bọ rừng. Rồi sau đó Bác còn cho làm tiếp mấy lán nhỏ nữa ở Khuổi Nậm, để đề phòng khi có động. Dẫu ở hang, ở mái đá hay ở lán, Bác cũng luôn sắp xếp nơi ở gọn gàng, sạch sẽ và bí mật. Khi rời đi không để lại dấu vết. Bác tự bố trí nơi nghỉ, nơi làm việc, Bác nhặt từng phiến đá nhỏ xếp thành từng bậc cạnh chỗ nằm, trên các bậc đó Bác để sách, tài liệu, giấy viết, bút mực, máy chữ… mỗi loại quy định chỗ để riêng, ngǎn nắp, gọn gàng, khi cần với tay có thể lấy được, lúc đầu anh em ở với Bác chưa có thói quen gọn gàng nên khi có việc là lúng túng, lộn xộn. Bác luyện dần thành thói quen cho anh em.

Buổi sáng Bác thường dậy sớm hơn tập thể dục, trước cửa hang Bác chọn một nền phẳng nhỏ vừa chỗ đứng tập thể dục, dụng cụ tập đơn giản với hai hòn cuội trắng Bác thường bóp để luyện gân bàn tay (sau này khi đọc sách Bác cũng thường bóp hai hòn cuội). Bác dùng hai hòn “tạ” to nhỏ bằng đá, thay đổi khi tập. Sau mấy phút tập cho ấm người, Bác tắm suối hoặc leo núi. Bác tập leo núi nhiều nên Bác có một sức chịu đựng dẻo dai, khi leo núi anh em trẻ cũng khó mà theo kịp Bác. Buổi sáng Bác vận động anh em tập thể dục để có sức khoẻ chống lại bệnh tật nơi rừng núi hang động ẩm ướt.

Trong bộ quần áo Chàm, quần xắn cao, Bác cùng anh em kiếm củi, hái rau rừng, tǎng gia trồng rau trồng hoa bên bờ suối. Cạnh hang có dòng suối nước chảy trong mát Bác cùng anh em tạo cảnh hòn non bộ, có đá tai bèo, có cây có nước, Bác lấy cây lau làm một chiếc cầu nhỏ, bên cầu có con thuyền gọt bằng thân gỗ trắng, đang cắm sào đứng đợi trông thật sinh động. Có đồng chí khéo tay lấy hòn đá gan gà đẽo con cò đặt cạnh hồ nước như đang mò tép, in bóng xuống mặt nước trông thật nên thơ. Một thế giới sinh vật cảnh nơi núi rừng hoang vu, thiếu thốn, tạo nên cảm giác thanh tao, mãn nguyện, như để quên đi cái đói cái rét của thực tại mà hướng về công việc cho tương lai, bình sinh của cuộc đời mới.

Trong hang có khối thạch nhũ cao quá đầu người Bác dùng dao đẽo, gọt, tạo dáng hình người rồi lấy mực nho vẽ mắt và miệng, ai cũng bảo trông giống ông Tây, Bác bảo đấy là tượng Các Mác. Bác hỏi anh em địa phương tên dòng suối, được biết là suối Giàng, còn ngọn núi cao có tên là núi Khỉ, vì ở đây khỉ rất nhiều, hay còn gọi là núi Đào vì có tích là Tiên Cô đã xuống đây.
Bác cười vui và nói:

– Xưa có tiên cô xuống, nay có tiên cậu, tiên ông đến thật là hay. Rồi Bác nói tiếp – Cụ Các Mác là người muốn tất cả loài người thành tiên, nay ta đặt tên cho núi là núi Các Mác. Cụ Lênin là người thực hiện chủ trương của Cụ Các Mác nên ta đổi tên suối Giàng thành suối Lênin. Từ đó hai địa danh đã đi vào lịch sử của dân tộc.

Từ hang Cốc Bò, mái đá Lũng Lãn hay dưới những mái lán dọc dòng Khuổi Nậm, từ khu Lam Sơn (Nguyên Bình) về Lũng Cát hay chuyển về hang Pác Tẻng, nơi đâu Bác cũng tạo nên một không khí bình thản, tự tại, một cuộc sống đầm ấm mang nặng tình đồng chí để vượt qua thử thách, gian nan thiếu thốn của buổi đầu dựng nước. Từ nǎm tháng đời thường toát lên một sức mạnh tiềm ẩn mãnh liệt, nơi đây Bác đã triệu tập Hội nghị Trung ương Tám, thành lập Mặt trận Việt minh, ra báo “Việt Nam Độc lập”, huấn luyện cán bộ toả ra trǎm ngả đường của đất nước để chỉ đạo cách mạng… Bác dịch sách, viết báo, làm thơ, ngày cũng như đêm, mưa cũng như nắng, lúc ở hang động hay dưới tán lá cây rừng, ánh sáng bắt nguồn từ Bác – từ Pắc Bó nơi thánh địa của cách mạng, nơi xuất phát cuộc hành trình cách mạng của cả dân tộc trên đường Thiên lý hướng về tương lai.

Cách mạng phát triển nhanh chóng, thời cơ đã đến, Bác chuyển về lán Nà Lừa, lấy Tân Trào triệu tập Quốc dân đại hội, phát lệnh Tổng khởi nghĩa cướp chính quyền trong cả nước. Trên đường về Hà Nội, Bác ghé làng Gạ rồi về 48 Hàng Ngang viết bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Cách mạng thành công nhưng khó khăn trǎm bề, thù trong giặc ngoài, thế nước “nghìn cân treo sợi tóc”, Bác phải chuyển chỗ ở nhiều nơi để tránh nguy hiểm, luôn luôn cải trang, lúc đi sớm khi về tối lúc ở số 8 Lê Thái Tổ, khi ở Bắc Bộ Phủ, lúc ngủ ở Quần Ngựa khi về Bưởi… Nhiều nơi đã để lại những kỷ niệm không quên về Bác, trong buổi đầu cách mạng gian nan, vất vả, hiểm nguy. Kháng chiến bùng nổ, Bác lại lên đường mở cuộc trường chinh. Bác về Vạn Phúc viết lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, về Chùa Trầm chúc Tết Quý Hợi 1947, vai đeo balô lên núi rừng Việt Bắc đi kháng chiến, dưới mái lán lá rừng vách nứa bên Làng Sảo, Bác triệu tập Hội nghị Trung ương chỉ đạo đường lối trường kỳ kháng chiến, rồi đến Khuổi Tấu viết “Việt Bắc anh dũng” về trận thắng Pháp đầu tiên trong cuộc kháng chiến; có phút thư giãn về huyện lỵ Sơn Dương “Đi thuyền sông Đáy” làm thơ; hay về hang Bòng chỉ đạo chiến dịch Biên giới; trở lại Kim Bình dự Đại hội Đảng lần thứ 2; đến Khuôn Điền cùng Trung ương chỉ đạo chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử – trận quyết chiến cuối cùng chấm dứt chủ nghĩa thực dân cũ trên thế giới. Hơn 3000 ngày hành quân đi kháng chiến, vượt qua bao gian khổ khó khǎn, lãnh đạo toàn Đảng toàn dân làm nên trận thắng oanh liệt ghi mãi nghìn nǎm và chứng minh cho thế giới một chân lý: một dân tộc dù nhỏ bé nếu biết đoàn kết có thể chiến thắng một đế quốc to, mạnh hơn nhiều lần về vũ khí.

Cuộc sống đời thường đạm bạc nơi chiến khu Việt Bắc, theo Bác suốt ngàn ngày kháng chiến là mái lán đơn sơ của cây rừng Việt Nam. Đồng chí Lê Vǎn Nhương (Bác đặt tên cho là Cần) tham gia trong đội dân công hoả tuyến Nghệ An, khéo tay, biết nghề mộc, được cùng một đồng chí nữa chuyên làm lán cho Bác ở, kể lại rằng: Bác yêu cầu tìm chỗ ở cho Bác, nơi yên tĩnh, bí mật, nơi có bóng cây thoáng mát và có đất để tǎng gia, gần nguồn nước, phía sau có núi để dễ làm hầm trú ẩn, thuận lợi cho liên lạc dễ dàng di chuyển khi có động. Làm lán cho Bác không to quá, diện tích bằng khoảng hai chiếc chiếu, đủ cho Bác kê chiếc bàn nhỏ làm việc và nơi nghỉ. Lán cao vừa tầm Bác, không cao quá 2m. Làm không cầu kỳ mà giản di, vật liệu sẵn có xung quanh, 3 phía có vách nứa, lán đặt trên 4 cọc tre, lối lên lán làm một cái thang bằng tre khoảng 3 bậc, mặt lán không cao quá, cách mặt đất khoảng nửa mét, tuỳ theo địa hình. Phên vách, sàn làm bằng tre, luồng hoặc nứa. Đồ dùng bày biện phía trong lán lại càng đơn giản hơn. Bố trí một bàn, một ghế bằng gỗ tạp đủ để cái máy chữ nhỏ, một ít sách, tài liệu cần thiết, những thứ đồ dùng vặt như bút giấy, hai hòn sỏi bóp luyện tay… để cạnh. Một hòm nhỏ đựng tư trang để phía dưới. Chân giường đóng thẳng xuống đất cho chắc chắn, trên vách treo cái quạt bằng lá cây rừng. Cái tẩu thuốc, Bác thường nói vui đấy là điện thoại của Bác, khi cần Bác gõ vào cột tre theo tín hiệu quy định là người giúp việc có mặt. Thời gian rỗi Bác cùng anh em trong cơ quan chơi bóng chuyền, tập thể thao, tǎng gia sản xuất, trồng bí trồng bầu, nuôi gà, nuôi bò. Bác bảo các đồng chí, giao bò cho dân địa phương nuôi, khi bò phát triển thì một phần để lại cho nhân dân còn một phần cho tập thể. Trồng được nhiều bí, cả một bãi rộng dày đặc quả, khi thu hoạch anh em kiểm số lượng quả vì nhiều nên bị lẫn liên tục. Bác bày cho cách, đếm xong quả nào cắm một que tre khi cắm hết chỉ cần gom số que là ra số quả tǎng gia được và giao cho người quản lý.

Kháng chiến thắng lợi, Bác về Thủ đô Hà Nội, lúc đầu Trung ương có ý định mời Bác về ở trong ngôi nhà Toàn quyền cũ, vì ở đấy có đủ tiện nghi sinh hoạt, bảo đảm tốt cho sức khoẻ của Bác, tiện việc tiếp khách và mọi công việc của một vị lãnh tụ, nhưng Bác không chịu. Bác bảo, Bác chứ không phải viên Toàn quyền, không phải vua, Chủ tịch một nước còn nghèo, chưa có quyền hưởng thụ quá mức trung bình của người dân, nên Bác quyết định chọn cho mình ngôi nhà của người thợ điện ngày trước, một ngôi nhà bình dị như bao ngôi nhà khác, mái ngói, nền đất, nơi mà mùa nóng thì nhiệt độ cao hơn hẳn xung quanh, ngày thiếu ánh sáng phải thắp đèn. Chỉ có điều tiện duy nhất là gần với anh em phục vụ trong không khí ấm cúng gia đình.

Nǎm 1958, Trung ương quyết định xây nhà cho Bác, nhưng Bác chỉ nhất trí khi làm theo ý Bác. Bác cho gọi kiến trúc sư Nguyễn Vǎn Ninh để trao đổi việc làm nhà. Bác dặn kiến trúc sư làm theo kiểu nhà sàn của đồng bào Việt Bắc, nơi Bác đã từng sống trong sự đùm bọc, bảo vệ của đồng bào các dân tộc trong những ngày đầu kháng chiến. Ngôi nhà sàn dưới bóng cây cạnh hồ nước, xung quanh có vườn hoa cây cảnh vừa đẹp lại vừa mát là môi trường tốt cho sức khoẻ, lại thuận lợi cho công việc, vừa không tốn nhiều tiền của nhân dân. Bác dặn gỗ dùng làm nhà cho Bác, chỉ dùng loại gỗ như đồng bào thường dùng. Tầng dưới bố trí một chiếc bàn lớn và mười một chiếc ghế (số ghế đủ cho các đồng chí trong Bộ Chính trị lúc bấy giờ) xung quanh nhà xây một bờ tường thấp, trên lát gỗ làm ghế cho các cháu thiếu nhi ngồi khi các cháu vào với Bác. Xung quanh nhà làm một dãy hành lang vừa phải để khi Bác ngồi đọc sách có ai qua lại không bị ảnh hưởng, vừa nói Bác vừa bê chiếc ghế mây ra, Bác ngồi giơ tay làm cữ, áng chừng độ rộng của hành lang cho đồng chí kiến trúc sư biết. Bác dặn đi dặn lại là phải hết sức tiết kiệm. Khi Bác đi thǎm một số nước về thì nhà sàn đã làm xong Bác lấy tiền riêng của mình tổ chức bữa liên hoan ngọt, Bác gọi là “tiệc liên hoan khánh thành công trình”. Bác mời đồng chí Ninh và những anh em công nhân tham gia làm nhà sàn cho Bác, đến dự liên hoan. Buổi liên hoan vui vẻ, Bác đi đến chỗ đồng chí Ninh và khen công trình làm nhanh, tốt, rồi ân cần phê bình nhẹ. Bác nói chân tình, nước ta chưa giàu, dân ta còn chưa có đủ nhà ở cần phải tiết kiệm. Khi chụp ảnh lưu niệm, Bác vẫy tay gọi đồng chí Ninh:
– Ông “Kiến…” đến đứng gần đây.

Tất cả cười vui vẻ, Bác gọi “ông Kiến” bớt đi hai chữ “trúc sư” vừa vui lại vừa nhắc nhở kiến trúc sư phải tiết kiệm, mà nghĩa đen “kiến” là con vật hay leo, như đồng chí Ninh đã leo thang trong việc làm nhà sàn cho Bác.

Bác ở nhà sàn với thời gian dài nhất trong quãng đời còn lại của Bác. Trong nhà sàn bố trí đơn giản, chỉ có những đồ dùng rất gần gũi với Bác. Một chiếc giường đơn trải chiếu cói, cái tủ nhỏ, bộ bàn ghế, trên bàn để đèn, lọ hoa, cái máy thu thanh, cái quạt nan, mấy quyển sách cần thiết hàng ngày. Chiếc bàn nhỏ và chiếc ghế mây ở cuối hành lang là nơi Bác ngồi làm việc những buổi chiều hè. Bác thường ngồi đọc báo ở đây, dưới tán lá cây vú sữa rì rào trước gió như tiếng nói của đồng bào miền Nam bên Bác. Những vật bình thường đã ở bên Bác đến suốt cuộc đời và sẽ ở mãi với nhà sàn cùng non sông đất nước như một huyền thoại về một con người.

Cuộc đời Bác gắn liền với những nơi ở thật bình dị bình dị như con người Bác. Từ ngày dựng nước gian lao vất vả đến khi làm Chủ tịch nước Bác vẫn giữ lối sống bình dị, không đòi hỏi một sự ưu tiên, một vinh hoa cho riêng mình. Bác là vậy tư tưởng tác phong của Bác là gần dân, luôn luôn giữ mức sống như của người dân. Gần dân là cuộc sống đời thường hàng ngày của Bác, là ý tưởng vĩnh cửu của tư tưởng Bác.

Theo camau.gov.vn
Thu Hiền (st)
bqllang.gov.vn

Việt Nam chiến đấu theo những lý tưởng dân chủ

– Ngày 11/7/1946, một ngày tiếp xúc bận rộn của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Pháp với bà con Việt kiều và nhiều tổ chức chính trị, xã hội và chính khách Pháp trong đó có Tổng hội Giáo học Pháp, Hội Pháp-Việt hữu nghị trong đó có nhiều nhân vật nổi tiếng trong giới trí thức như nhà thơ Aragon, nữ bác học Marie Curie, lãnh đạo Đảng cộng sản M.Thorez, Bộ trưởng Pháp quốc hải ngoại M.Moutet … và cả Thủ tướng G. Bidault.

Trong lúc tiếp Hội Pháp-Việt hữu nghị, “một tổ chức do những người Pháp có danh vọng lập ra, ủng hộ cuộc độc lập Việt Nam, hễ ai đồng tình với Việt Nam là được vào hội”, vị Chủ tịch của nước Việt Nam độc lập bày tỏ: “Tôi không tìm cách giấu nỗi cảm động của tôi trong lúc này… Các Ngài cũng thấy lòng mong ước mạnh nhất của tôi, sự quan tâm nhất của nước Cộng hoà Việt Nam, nguyện vọng tha thiết nhất của dân tộc Việt Nam là thực hiện được tình thân thiện Pháp-Việt…

Nước Pháp của cuộc Đại Cách mạng 1789, nước Pháp của cuộc kháng Đức, của cuộc giải phóng đã tượng trưng hơn bao giờ hết lý tưởng tự do, dân chủ. Và nước Việt Nam chiến đấu giành độc lập chỉ là theo những lý tưởng dân chủ mà dân tộc Pháp là người tiên phong”.

Ngày Ngày 11/7/1946, Bác đến dự tiệc do Hội Pháp – Việt tổ chức

Ngày hôm sau, 12/7/1946,  Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục các cuộc gặp gỡ với các giới Việt kiều, nhiều chính khách trong đó có cả cựu Thủ tướng Léon Blum. Chủ tịch cũng trả lời nhiều câu hỏi của báo chí Pháp.

Với câu hỏi rằng phải chăng trong vòng 50 năm tới chưa thể cộng sản hoá được Việt Nam?, Bác trả lời: “Tất cả mọi người đều có quyền nghiên cứu một chủ nghĩa. Riêng tôi, tôi nghiên cứu chủ nghĩa Các Mác.

Cách đây 2000 năm, Đức Chúa Giêsu đã nói là ta yêu mến các kẻ thù của ta. Điều đó đến bây giờ vẫn chưa thực hiện được. Còn khi nào chủ nghĩa Các Mác thực hiện thì tôi không thể trả lời được .

Muốn cho chủ nghĩa cộng sản thực hiện được, cần phải có kỹ nghệ, nông nghiệp và tất cả mọi người đều được phát triển hết khả năng của mình. Ở nước chúng tôi những điều kiện ấy chưa có đủ”.

Về vấn đề Nam Kỳ, một lần nữa người đứng đầu nhà nước Việt Nam khẳng định: “Nam Kỳ cùng một tổ tiên với chúng tôi… Người Nam Kỳ nói tiếng Việt Nam, tại sao lại còn nghĩ đến sự cản trở thống nhất Việt Nam?… Nam Kỳ là đất của Việt Nam. Đó là thịt của thịt Việt Nam, là máu của máu Việt Nam”.

Về quan hệ với nước Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh xác nhận: “Chúng tôi quyết không hạ thấp chúng tôi. Mà chúng tôi cùng không hạ thấp nước Pháp. Chúng tôi không muốn đẩy người Pháp ra khỏi Việt Nam.

Nhưng chúng tôi nói với họ: Các nguời hãy phái đến nước chúng tôi những kỹ sư, những nhà khoa học, những vị giáo sư, phái đến những người họ biết yêu chuộng chúng tôi. Nhưng chớ phái qua những người muốn bóp cổ chúng tôi. Việt Nam cần nước Pháp, nước Pháp cũng cần đến Việt Nam”.

X&N
bee.net.vn

“Tuyệt đối không nên báo cáo mơ hồ, giả dối”

– Ngày 10/7/1954,  trên tờ “Nhân Dân” của Đảng, với bút danh “C.B” quen biết với công chúng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập tới một phương thức làm việc quan trọng để bảo đảm công tác lãnh đạo. Đó là một vấn đề tưởng chừng chẳng mấy quan trọng: “Gửi báo cáo và xin chỉ thị”.

Bài báo đặt câu hỏi: “Vì sao Đảng phải giữ vững chế độ ấy?” và trả lời: “Vì có như vậy, cấp trên mới kịp thời hiểu rõ tình hình, nêu lên nhiệm vụ, định ra kế hoạch, động viên quần chúng, để thực hiện chính sách của Đảng. Cấp dưới mới thấy rõ đường lối, thấm nhuần chính sách tránh khỏi sai lầm, làm tròn nhiệm vụ. Đồng thời, kinh nghiệm của nơi này có thể phổ biến và giúp nơi khác. Nếu cấp dưới không báo cáo kịp thời và đầy đủ thì cấp trên không hiểu rõ tình hình thực tế, không giúp đỡ được cấp dưới. Và cấp dưới sẽ gặp nhiều lúng túng, sai lầm”.

Tháng 7/1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh chụp chung với các ông Phạm văn Đồng, Trường Chinh và Võ Nguyên GiápTháng 7/1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh chụp chung với các ông Phạm văn Đồng, Trường Chinh và Võ Nguyên Giáp

Bằng cách viết giản dị như một tài liệu hướng dẫn nghiệp vụ, bài báo đặt vấn đề: “Ai phụ trách viết thỉnh thị báo cáo? Và báo cáo nên thế nào?” và giải đáp: “Bí thư các cấp phải phụ trách, không thể giao việc ấy cho một cán bộ khác. Viết báo cáo thì các tài liệu phải nghiên cứu kỹ, xét lại kỹ  và phải đúng sự thật. Phải toàn diện, phải nắm khâu chính. Phải nắm tình hình lúc đó và nơi đó thi hành chính sách của Đảng thế nào; tư tưởng của cán bộ và quần chúng thế nào? Phải có phân tích và kết luận. Phải nêu cả ưu điểm và khuyết điểm. Tuyệt đối không nên báo cáo một cách mơ hồ, giả dối, chỉ nói cái tốt mà giấu diếm cái xấu.

Mỗi việc quan trọng, thì trước khi làm phải báo cáo rõ kế hoạch và thời hạn công tác. Trong khi làm thì báo cáo rõ công việc phát triển thế nào? Khi làm xong thì phải báo cáo tổng kết kinh nghiệm.

Có như vậy, trong Đảng ý chí mới nhất trí, lãnh đạo mới thống nhất, đoàn kết mới chặt chẽ, kinh nghiệm mới dồi dào, mọi việc mới kịp thời và thành công… Cán bộ các cấp phải hiểu rằng: chế độ thỉnh thị và báo cáo là rất quan trọng và mỗi cán bộ phụ trách phải kiên quyết làm đúng chế độ ấy”.

Đấu tranh chống lề thói quan liêu là một trong những mục tiêu hàng đầu nhằm bảo đảm sức mạnh lãnh đạo của một tổ chức cách mạng. Đó là một cuộc phấn đấu không dễ dàng và lề thói quan liêu chính là một trong những yếu tố làm mất sức chiến đấu và mất cán bộ của tổ chức cách mạng mà Bác luôn là người đi đầu trong cuộc đấu tranh gian khổ đó.

X&N
bee.net.vn

Đại hội Anh hùng và Chiến sĩ thi đua

 – Ngày 7/7/1958 là ngày khai mạc Đại hội Anh hùng và Chiến sĩ thi đua công, nông, binh toàn quốc lần thứ II nhằm biểu dương thành tích của những năm hoà bình đầu tiên, khôi phục kinh tế miền Bắc.

Trong bài phát biểu, Bác nhấn mạnh đến sự phát triển vượt bậc của phong trào thi đua đã xuất hiện nhiều anh hùng hơn, thuộc nhiều ngành nghề, vùng miền, thành phần xã hội hơn trước.

Bác nói: “Ở Đại hội lần thứ nhất có 7 anh hùng, trong đó có 4 anh hùng quân đội… Đại hội lần này, chúng ta có 26 anh hùng Lao động và 69 Anh hùng Quân đội… có anh hùng và chiến sĩ lao động chân tay và trí óc, đủ các ngành và các dân tộc anh em…, có 5 anh hùng là phụ nữ… có 6 anh hùng là đồng bào miền Nam tập kết…”.

fNgày 7/7/1960, Bác và các đại biểu nữ trong QH khoá II trước kỳ họp thứ nhất.

Người đề xướng phong trào thi đua ái quốc khẳng định “Anh hùng, chiến sĩ thi đua là những người tiên phong trong sản xuất mà cũng là gương mẫu về đạo đức cách mạng. Họ đặt lợi ích chung của dân tộc lên trên lợi ích riêng của cá nhân. Họ toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân chứ không nửa tâm, nửa ý. Họ không sợ khó nhọc, ra sức vượt mọi khó khăn để hoàn thành và hoàn thành vượt mức nhiệm vụ mà Đảng và Chính phủ giao cho họ, chứ họ không suy bì hơn thiệt của cá nhân, không ganh tị về địa vị và hưởng thụ, không giấu nghề, không dìm những anh em chung quanh mình, không tự kiêu, tự mãn, tự tư, tự lợi. Đó là những đức tính cách mạng mà chúng ta cần phải học tập các anh hùng, chiến sĩ thi đua”.

Bác còn căn dặn: “Các anh hùng, chiến sĩ thi đua cần nhận rõ rằng: thành tích là thành tích chung của tập thể. Tách rời tập thể thì dù tài giỏi mấy, một cá nhân cũng không làm được gì. Cho nên càng có thành tích thì càng phải cố gắng, càng phải khiêm tốn”.

Cùng ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh tặng danh hiệu Anh hùng Lao động cho 26 tấm gương xuất sắc nhất trong phong trào thi đua yêu nước.

X&N
bee.net.vn

Mong ước của Bác Hồ

– Có mặt ở Moscow để dự Đại hội VI Quốc tế Cộng sản, chàng thanh niên yêu nước Nguyễn Ái Quốc đã nói với nhà văn Ilia  Êrenbua: “Tôi chỉ có một mong ước là sớm trở về Tổ quốc tôi”.

Ngày 25/9/1942, tại nhà tù của Quốc dân Đảng Trung Hoa, Bác sáng tác hai bài thơ chữ Hán với đề tựa “Trung thu”:

“ I. Trung Thu vành vạnh mảnh gương thu/ Sáng khắp nhân gian bạc một màu/ Sum họp nhà ai ăn Tết đó/ Chẳng quên trong ngục kẻ ăn sầu”; “II. Trung Thu ta cũng Tết trong tù/ Trăng gió đêm thu gợn vẻ sầu/ Chẳng được tự do mà thưởng nguyệt/ Lòng ta vời vợi mảnh trăng thu”.

25-9-1966 HCM thăm các chiến sĩ lực lượng phòng không bảo về thủ đô.jpg (99KB)Ngày 25/9/1966, Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm các chiến sĩ lực lượng phòng không bảo vệ thủ đô.

7 năm sau, Bác Hồ viết thư gửi các cháu thiếu nhi nhân Tết Trung thu kháng chiến:

“Mục đích của Bác và Đoàn thể cùng Chính phủ là cốt xây dựng cho các cháu đời sống thái bình, tự do, sung sướng”. 

Cuối thư Bác viết tặng bài thơ: “Ai yêu các nhi đồng/ Bằng Bác Hồ Chí Minh?/ Tính các cháu ngoan ngoãn/ Mặt các cháu xinh xinh/ Mong các cháu cố gắng/ Thi đua học và hành/ Tuổi nhỏ làm việc nhỏ/ Tuỳ theo sức của mình/ Để tham gia kháng chiến/ Để gìn giữ hoà bình/ Các cháu hãy xứng đáng/ Cháu Bác Hồ Chí Minh”. 

Ngày 25/9/1965, Bác Hồ và Bác Tôn viết chung mấy câu thơ gửi cho các cháu học sinh Trường Hoàng Lệ Kha” ở vùng giải phóng Tây Ninh hứa: “Nam Bắc sẽ sum họp một nhà/ Bác cháu ta sẽ gặp mặt trẻ già vui chung/ Nhớ thương các cháu vô cùng/ Mong sao mỗi cháu một anh hùng thiếu nhi”. 

Trước đó, ngày 25/9/1947, Bác viết thư gửi cụ Võ Liêm Sơn, Chủ tịch “Uỷ ban Trung ương Mùa Đông binh sĩ” xin được gửi một tháng lương:  “Nhờ Cụ mua giùm vật liệu và may giùm mấy chiếc chăn áo cho chiến sĩ, gọi tỏ chút lòng thành. Đồng bào ta đã giúp nhiều. Lần này, mặc dàu hoàn cảnh khó khăn, nhưng tôi rất mong đồng bào cũng ra sức giúp, để cho chiến sĩ khỏi lạnh lùng và đủ ấm áp để ra sức xung phong diệt địch”.   

Ngày 25/9/1954, Bác viết bài “Các lãnh tụ Trung Quốc” trên báo “Nhân Dân”: “Đối với Việt Nam cần kiệm liêm chính là đức tính của những người cách mạng Việt Nam phải thực hiện được”.

X&N
bee.net.vn

Bác Hồ với trí thức Việt Nam

Một trong những phong cách lớn của Hồ Chí Minh là rất lắng nghe tiếng nói của trí thức. Không những Bác trân trọng nghe ý kiến mà còn rất quan tâm đến những vấn đề, những khó khăn, hoàn cảnh cụ thể của từng người để tạo điều kiện cho trí thức làm việc tốt hơn.

Hầu như không có một trí thức lớn nào làm việc cho Chính phủ mà không từng được Bác Hồ gửi thư thăm hỏi, gửi quà, gửi áo, gửi thuốc, khi có điều kiện thì tới thăm, xem xét từ chỗ ăn, chỗ ở, điều kiện làm việc. Đó là một liều thuốc trường sinh rất mạnh đối với tâm hồn những trí thức VN.

Cũng như Lênin, Bác Hồ không quan niệm một cách máy móc rằng cách mạng vô sản là việc của giai cấp vô sản và sau khi cách mạng thành công thì giai cấp vô sản đương nhiên phải nắm chính quyền.

Lênin quan niệm rằng để phục vụ lợi ích của giai cấp vô sản, cách tốt nhất là đưa những người có tri thức tương xứng vào những vị trí quản lý quốc gia. Lênin đã từng tuyên bố sẵn sàng đổi hàng trăm người cộng sản không biết công việc lấy một người trí thức biết công việc.

Hồ Chí Minh cũng vậy. Bác quan niệm rằng cách tốt nhất để phục vụ lợi ích của công nông là phải đưa những người có đủ tài, đủ đức vào bộ máy nhà nước để phụng sự lợi ích của người lao động. Ở Hồ Chí Minh, phạm trù yêu nước là bình đẳng giữa mọi tầng lớp nhân dân. Yêu nước, yêu chế độ không phải là độc quyền của riêng một giai cấp nào.

Từ cách nhìn đó, Hồ Chí Minh đã mạnh tay sử dụng trí thức trong bộ máy nhà nước. Nhờ đó mà sau cách mạng, tất cả các lĩnh vực như tổ chức chính phủ, phát triển nông nghiệp, phát triển công nghiệp, phát triển văn hóa – giáo dục… đã có những bước chuyển biến thần kỳ trong những điều kiện vô cùng khó khăn.

Đối với trí thức, Hồ Chí Minh thể hiện một sự trân trọng thật sự. Đã giao việc là giao quyền. Đã giao quyền là hoàn toàn tin tưởng. Một trong những thí dụ tiêu biểu là trường hợp ông Phan Anh, một người không phải là đảng viên cộng sản vẫn được giao chức bộ trưởng Bộ Quốc phòng.

Sau này ông Phan Anh kể lại: “Tôi không phải là cộng sản. Đến nay vẫn không phải là đảng viên. Nhưng tôi cộng tác với đảng. Trong Chính phủ đầu tiên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cử tôi làm bộ trưởng Bộ Quốc phòng và để cho tôi chủ động tìm lấy những cục trưởng của 7-8 cục. Họ đều là anh em trí thức, trong đó chỉ có một người là đảng viên. Điều mấu chốt là Chủ tịch Hồ Chí Minh áp dụng chính sách tín nhiệm đối với trí thức”.

Trong việc sử dụng trí thức, Hồ Chí Minh không bao giờ áp đặt, không bao giờ tỏ ý lên mặt dạy đời. Bác là người uyên bác, có thể còn ở trên tầm tư duy của bản thân trí thức, nhưng có lẽ chính vì vậy nên bao giờ cũng giản dị, khiêm tốn. Đó cũng là một phong cách rất trí thức, được trí thức ghi tạc, truyền tụng.

Chính vì vậy, Hồ Chí Minh có một sức hút phi thường đối với các tầng lớp nhân dân, kể cả những trí thức kiêu sang nhất, khó tính nhất. Hầu hết các trí thức VN đều suy nghĩ: Nếu không phải Hồ Chí Minh thì có lẽ khó có ai tập hợp được bấy nhiêu nhân tài của đất nước. Quả đúng như vậy.

Biết bao nhiêu trí thức đã bỏ nhà cửa đi lên chiến khu. Đỗ Đình Thiện dành cả đồn điền để làm xưởng đúc tiền, Huỳnh Thiện Lộc hiến cả 5.000 mẫu đất cho Chính phủ để lên rừng theo kháng chiến; những nhà khoa bảng lớn như: Trần Đại Nghĩa, Tôn Thất Tùng, Trần Hữu Tước, Trần Đức Thảo, Đặng Vũ Hỷ… đã bỏ vinh hoa phú quí ở thị thành, bỏ cả nước Pháp hoa lệ để theo kháng chiến. Mà với họ, động lực trực tiếp theo kháng chiến luôn đồng nghĩa với việc: theo Hồ Chí Minh.

Đó là một bài học quí giá có ý nghĩa muôn đời.

Theo GS Đặng Phong
Tuổi Trẻ
dantri.com.vn

Suy ngẫm về điều mong muốn cuối cùng của Bác Hồ

TT – Cùng với “muôn vàn tình thân yêu” gửi lại cho cuộc đời này,  Bác Hồ kết thúc bản di chúc bằng “Điều mong muốn cuối cùng của tôi là : toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”.

Theo lời kể của ông Vũ Kỳ trong Bác Hồ viết Di chúc, bốn năm suy ngẫm để chỉ viết có một nghìn chữ ! Sau bốn năm xem lại lần cuối Bác cũng chỉ sửa có ba từ!

Ở đây không là chuyện kiệm chữ, kiệm lời. Ở đây là sự dồn nén cô đọng của ý tưởng và tình cảm.  Tư tưởng tình cảm như đã được “chưng cất” để chỉ giữ lấy cái tinh túy nhất, sáng tỏ nhất.

Vì thế, đọc kỹ nội dung “điều mong muốn cuối cùng” của Hồ Chí Minh, chúng ta ngộ ra được rằng: với thời gian, chân lý bỗng vụt sáng lên từ trong những câu chữ vốn rất dung dị, thô mộc hết sức quen thuộc trong đời sống hằng ngày, khiến người ta đôi khi cứ ngỡ như không còn gì để mà suy ngẫm nữa.

Nhìn trở lại hành trình lịch sử của Bác Hồ tìm đường cứu nước, quanh một vòng trái đất để trở về xúc động với nắm đất của Tổ quốc trên tay, rồi những lời “dặn lại công việc” khi bị bệnh nặng sợ khó qua khỏi trong một lán nhỏ ở Tân Trào, Việt Bắc: “Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hi sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”, cho đến khi đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước VN dân chủ cộng hòa…, cuối cùng là Di chúc với “điều mong muốn cuối cùng” của Người.

Qua đó, nổi rõ lên một điều: độc lập cho dân tộc, tự do và hạnh phúc cho nhân dân là mục tiêu trước sau như một của Hồ Chí Minh. Người nói “lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba”. Cho đến “lúc cuối”, trong toàn bộ Di chúc của Người cũng thể hiện nhất quán “chủ nghĩa yêu nước” đó, thể hiện thật tập trung trong “điều mong muốn cuối cùng” và cũng là câu cuối cùng, đọng lại tình cảm, ý tưởng quan trọng nhất trong Di chúc.

Hồ Chí Minh đã hiểu rõ rằng dân tộc mình, nhân dân mình đang cần cái gì nhất. Nói đến điều đó thì tất cả mọi người Việt Nam, dù bất cứ đang ở đâu, đang làm gì cũng đều có thể hiểu được, đều có thể chấp nhận, đều có thể nhất trí, đều có thể nhận ra đó là mong muốn của mình.

Cần phải thấy rằng sự gặp gỡ giữa lý tưởng “ái quốc” và lý tưởng “cộng sản” trong tư tưởng và tình cảm của Hồ Chí Minh là sự gặp gỡ của lý tưởng giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người . Trong đó, giải phóng con người là trung tâm. Nhìn lại nhân cách, tư tưởng, tình cảm và sự nghiệp hoạt động của Hồ Chí Minh, chúng ta thấy rất rõ: mục tiêu, cứu cánh, phương tiện và động lực cách mạng đều ở trong con người. Chính ở đây, chủ nghĩa yêu nước trong Hồ Chí Minh bắt gặp lý tưởng cộng sản. Lý tưởng đó thể hiện tập trung ở tư tưởng “sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”.

Có thể nói, “sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người” là tư tưởng đẹp nhất trong vô vàn những tinh hoa tư tưởng của loài người được đúc kết trong học thuyết khoa học của C.Mác. Và nếu, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng về giải phóng con người là trung tâm thì có thể hiểu được động lực thúc đẩy Nguyễn Ái Quốc đến với lý tưởng cộng sản theo cách của mình. Người cộng sản VN tự hào vì có Hồ Chí Minh, có tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường, đem lại nguồn sức mạnh vô tận của lý tưởng cao đẹp đang dẫn dắt cuộc phấn đấu không ngừng nghỉ của mình, theo gương Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Với một trái tim lớn chứa đựng “ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Riêng phần tôi thì làm một cái nhà nho nhỏ, nơi có non xanh, nước biếc để câu cá, trồng hoa, sớm chiều làm bạn với các cụ già hái củi, em trẻ chăn trâu, không dính líu gì với vòng danh lợi”, Người trở thành nhà cách mạng từng trải, được thử thách và tôi luyện trên trường quốc tế bằng cái tầm trí tuệ của một nhà văn hóa lớn. Vì thế, Hồ Chí Minh hiểu rõ những thành tựu cũng như những sai lầm mà phong trào cách mạng đã trải qua. Người hiểu cần thanh lọc và tiếp nhận những gì có lợi nhất cho mục tiêu đã xác định.

Hồ Chí Minh đứng vượt hẳn lên những người đương thời ở tầm tư duy và cái nhìn biện chứng nhờ vào những phẩm chất ấy. Bôn ba khắp năm châu bốn biển, hiểu rõ ngọn ngành những tinh hoa cũng như những khuyết tật mà phong trào cách mạng đã trải qua, để khi về đến Tổ quốc, hôn nắm đất quê hương đang đói nghèo, đau khổ, Người hiểu rõ cần phải làm gì cho nhân dân.

Ba mươi năm, nhìn lại chặng đường đã đi nhằm thực hiện mong ước của Bác Hồ “xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” với những điều đã làm được và nhiều điều chưa làm được, càng thấm thía và không thể không day dứt khi nghĩ đến điều mong muốn cuối cùng của Bác Hồ. Thấm thía và day dứt để có những giải pháp và hành động thiết thực.

TƯƠNG LAI
tuoitre.vn

Hồ Chí Minh – Rạng ngời cốt cách vĩ nhân trong ánh sáng đời thường

Ảnh tư liệu

“Người ta không thể trở thành một Cụ Hồ Chí Minh, nhưng ở Cụ Hồ, mỗi người có thể học một số điều làm cho mình trở thành tốt hơn”.

Muôn vàn tình thương yêu

Chủ tịch Hồ Chí Minh là người có tư tưởng thân dân, trọng dân, coi nguyện vọng của nhân dân, hạnh phúc của nhân dân là những điều tối thượng.

Chính vì vậy, Người đã nguyện dành cả cuộc đời mình để lo giải phóng cho dân tộc, đấu tranh cho con người thoát khỏi áp bức, bất công: “Cả đời tôi chỉ có một mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi của Tổ quốc, và hạnh phúc của quốc dân. Những khi tôi phải ẩn nấp nơi núi non, hoặc ra vào chốn tù tội, xông pha sự hiểm nghèo – là vì mục đích đó”([i]).

Công cuộc giành độc lập, thống nhất của Tổ quốc không thể tách rời với tự do, hạnh phúc của nhân dân. Hồ Chí Minh tâm niệm: “nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”([ii]). Ngay từ ngày đầu Cách mạng Tháng Tám thành công, tại cuộc họp đầu tiên của Ủy ban nghiên cứu kế hoạch kiến quốc, Người đã nêu rõ mục tiêu của Nhà nước là: Làm cho dân có ăn, làm cho dân có mặc, làm cho dân có chỗ ở, làm cho dân có học hành.

Để làm được điều đó, Người đã đề ra nhiệm vụ cấp bách là diệt giặc đói và giặc dốt. Thương nhân dân đời sống khó khăn, Người nhắc nhở nhiệm vụ thường xuyên là xóa đói nghèo, làm cho kinh tế phát triển; người nghèo thì đủ ăn, người đủ ăn thì khá giàu và người khá giàu thì giàu thêm. Kinh tế có phát triển, đời sống đồng bào có ấm no thì đất nước mới cường thịnh.

Đặc biệt, đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, một Đảng ra đời từ phong trào cách mạng của nhân dân, có thiên chức lãnh đạo cách mạng vì mục đích phục vụ nhân dân, lấy lợi ích của nhân dân làm lợi ích cao nhất của mình, thì Hồ Chí Minh chỉ rõ rằng: “Tất cả đường lối, phương châm, chính sách… của Đảng đều chỉ nhằm nâng cao đời sống của nhân dân nói chung”([iii]).

Người căn dặn cán bộ, đảng viên phải có thái độ yêu kính nhân dân, tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân, học hỏi quần chúng, thật thà, ngay thẳng, không giấu dốt, giấu khuyết điểm, giấu sai lầm; khiêm tốn, gần gũi quần chúng; không được kiêu ngạo, phải thực sự cầu thị, không được chủ quan; kiên quyết dựa vào quần chúng, giáo dục và phát động quần chúng tiến hành thắng lợi mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.

Bản thân Chủ tịch Hồ Chí Minh, mặc dù uy tín rất cao, có khả năng thu hút, tập hợp quần chúng rất lớn nhưng không bao giờ Người xem mình đứng cao hơn nhân dân. Người tự cho mình là “người lính vâng mệnh lệnh của quốc dân ra trước mặt trận”, là “người đày tớ trung thành của đồng bào”. Đó là tư cách rất đúng đắn của vị lãnh tụ Đảng cầm quyền trong giai đoạn nhân dân giữ vai trò làm chủ đất nước, xây dựng một xã hội mới.

Nhận được thư, quà chúc mừng của nhân dân, dù bận trăm công nghìn việc, Người vẫn tự tay viết thư trả lời, cảm ơn một cách thân tình, chu đáo, nêu một tấm gương ứng xử rất văn hóa, đầy khiêm nhường và kính trọng đối với nhân dân.

Trái tim, khối óc của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ nghĩ về việc nước, về phong trào cách mạng ở năm châu bốn bể mà còn hằng lo cả đến bếp ăn của bộ đội, nhà tắm cho nông dân, nơi an dưỡng của người già, trại trẻ cho các cháu nhỏ… Biết bao câu chuyện thường ngày đã nói lên tình thương yêu con người, sự quan tâm rất cặn kẽ, tỉ mỉ của Người đối với đồng bào, đồng chí và chiến sĩ.

Làm phụ bếp bên Anh, khi rửa bát đĩa, Bác để riêng những thức ǎn thừa còn lại, gói vào một gói, khi về mang ra cho những người nghèo khổ ǎn xin ngoài đường. Dự tiệc chiêu đãi ở Pari, ra về Bác dành quả táo cho em nhỏ. Giữa cánh đồng khô nóng Ấn Độ, những giọt nước mắt cảm thông của Người đã rơi trên vai ông lão nông dân áo quần rách nát. Đưa anh hùng Trần Thị Lý đi thăm vườn Phủ Chủ tịch, Bác không đưa chị đi trên những con đường sỏi vì Bác biết chân chị dẫm trên sỏi thì ảnh hưởng vết thương trên đầu. Vào các dịp lễ Tết, điều đầu tiên Bác nghĩ tới là đi thăm các trường con em miền Nam. Bác bảo: “Các cháu xa nhà, xa quê. Mong người thân lắm. Để Bác đến thăm cho các cháu đỡ buồn“.

Ngay cả với những người lầm đường, lạc lối hay phạm sai lầm, lòng thương yêu của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mở rộng thành lòng khoan dung. Người nói: “Năm ngón tay cũng có ngón vắn, ngón dài. Nhưng vắn dài đều họp nhau lại nơi bàn tay. Trong mấy triệu người cũng có người thế này thế khác, nhưng thế này hay thế khác đều dòng dõi của tổ tiên ta. Vậy nên ta phải khoan hồng đại độ”([iv]).

Người kêu gọi nhân dân “khoan hồng đại độ” đối với những ai tham gia ngụy quân, ngụy quyền và căn dặn cán bộ nên “đối đãi nhân đạo với các tù binh” để “cho thế giới biết rằng chúng ta là một dân tộc văn minh, văn minh hơn bọn đi giết người, cướp nước“([v]). Trong chiến dịch Biên giới 1950, khi đi thăm trại tù binh, Bác đóng giả một cụ già nông dân và Người cũng lại cởi tấm áo ngoài của mình cho một đại úy thầy thuốc…

Ta bên Người, Người tỏa sáng trong ta

Cuộc sống đời thường đạm bạc nơi chiến khu Việt Bắc, theo Bác suốt những năm dài kháng chiến là mái lán đơn sơ của cây rừng Việt Nam. Ở nơi đâu Bác cũng tạo nên một không khí bình thản, tự tại, một cuộc sống đầm ấm mang nặng tình đồng chí để vượt qua thử thách, gian nan thiếu thốn của cuộc kháng chiến. Bác yêu cầu chỗ ở cho Bác phải là nơi yên tĩnh, bí mật, nơi có bóng cây thoáng mát và có đất để tǎng gia, gần nguồn nước, phía sau có núi để dễ làm hầm trú ẩn, thuận lợi cho liên lạc dễ dàng di chuyển khi có động.

Cách chọn địa điểm dựng lán trại của Bác được anh em ghi thành bài văn vần như sau: “Trên có núi, dưới có sông – Có đất ta trồng – Có bãi ta vui – Tiện đường sang Bộ Tổng – Thuận lối tới Trung ương – Nhà thoáng gió, kín mái – Gần dân không gần đường”. Bác giao hẹn: lán cho Bác có chiều cao có thể giơ tay với được, còn chiều ngang thì đưa tay sang phải, sang trái vừa chạm đến, để tiện lấy được các vật dùng để ở vách, lán không to quá, diện tích bằng khoảng hai chiếc chiếu, đủ cho Bác kê chiếc bàn nhỏ làm việc và nơi nghỉ. Làm lán không cầu kỳ mà giản dị, bằng vật liệu sẵn có xung quanh như tre, luồng hoặc nứa. Đồ dùng bày biện phía trong lán lại càng đơn giản hơn: một bàn, một ghế bằng gỗ tạp đủ để cái máy chữ nhỏ, một ít sách, tài liệu cần thiết, những thứ đồ dùng vặt như bút giấy, hai hòn sỏi bóp luyện tay… để cạnh.

Kháng chiến thắng lợi, trở về Thủ đô Hà Nội, nhưng Bác không về ở trong ngôi nhà Toàn quyền cũ vì Bác bảo, Bác chứ không phải vua, Chủ tịch một nước còn nghèo, chưa có quyền hưởng thụ quá mức trung bình của người dân. Bác quyết định chọn cho mình ngôi nhà của người thợ điện ngày trước, nơi mà mùa nóng thì nhiệt độ cao hơn hẳn xung quanh, ngày thiếu ánh sáng phải thắp đèn.

Nǎm 1958, Trung ương quyết định xây nhà cho Bác, nhưng Bác đề nghị chỉ nên làm một căn nhà nho nhỏ theo kiểu nhà đồng bào dân tộc ở Việt Bắc, giống như ngôi nhà Bác đã từng ở trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp. Khác hẳn với công trình kiến trúc đồ sộ, bề thế như Phủ Chủ tịch và các ngôi nhà xây dựng bằng những nguyên liệu bền vững như sắt, thép, xi măng,… trong khu vực, ngôi nhà sàn của Bác được xây dựng bằng gỗ bình thường, được thiết kế theo kiểu nhà sàn của đồng bào dân tộc ở Việt Bắc: nhà hai tầng, xung quanh có mành che, tầng dưới để thoáng.

Nét kiến trúc thanh nhã, trang trí không cầu kỳ này khiến công trình trở thành một kiến trúc độc đáo, mang sắc thái riêng nhưng rất hài hoà với thiên nhiên và các công trình kiến trúc xung quanh. Trong nhà sàn bố trí đơn giản, chỉ có những đồ dùng rất gần gũi với Bác: Một chiếc giường đơn trải chiếu cói, cái tủ nhỏ, bộ bàn ghế, trên bàn để đèn, lọ hoa, chiếc máy thu thanh, cái quạt nan, mấy quyển sách cần thiết hàng ngày.

Trước nhà là một vườn hoa nhỏ, trồng nhiều loại hoa thơm. Phía ngoài là hàng rào dâm bụt gợi nhớ hình ảnh quê hương Nghệ An, nơi Bác sinh ra và lớn lên. Trong hồ nước rộng hơn 3.000m2 trước nhà sàn, Bác nuôi cá vì theo Người nuôi cá ở đây vừa cải tạo môi trường sống trong lành, cải thiện bữa ăn hàng ngày, vừa là một cách thư giãn thú vị sau giờ làm việc khi Người cho cá ăn. Nhà sàn của Bác hoà hợp với thiên nhiên là thế đấy! Nó tạo ra nét bình dị gần gũi với mọi người dân Việt Nam ở khắp mọi miền Tổ quốc.

Không chỉ nơi ở đơn sơ, đồ dùng của Bác cũng thật giản dị. Đôi dép cao su làm từ lốp cũ xe ôtô, Bác dùng đến mòn vẹt phải đóng đinh bao lần. Rồi bộ bà ba nâu, bộ quần áo kaki, đôi tất vá đến hai, ba lần. Chỉ khi đi ra nước ngoài Bác mới mặc áo sơ mi và mới đồng ý may bộ quần áo dạ đen.

Bác thích món cá kho, bát canh và quả cà xứ Nghệ. Bác thích ăn những con cá Bác tự nuôi, những ngọn rau Bác tự trồng và còn chia những thứ đó cho các đồng chí sống gần Bác. Bác ngồi xếp bằng bên cửa sổ nhà sàn ngắm trăng, Bác xắn gọn quần và rảo bước nhanh qua suối hay đi bên bờ ruộng như một cụ già nông thôn thực thụ. Bác còn bế em nhỏ hoặc ngồi bón cơm cho trẻ như bất kỳ một người bình thường nào ta gặp. Bác còn nắm chắc tay gàu sòng tưới nước mà không ngỡ ngàng, lúng túng.

Là Chủ tịch nước nhưng trong nếp sinh hoạt thường ngày những việc nào làm được, Bác tự làm, không nhờ vả hay ỷ lại cho người khác làm thay mình, việc nào không làm được Bác mới nhờ đến những anh em phục vụ. Tất cả những chi tiết đó, hình ảnh đó tự nói lên nhiều điều: một tư thế giản dị, ung dung, tự tại, luôn phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh của một lãnh tụ mẫu mực.

Bác là tấm gương tiêu biểu tiết kiệm của công, thái độ giữ gìn tài sản chung của nhân dân. Đi đâu Bác chỉ dùng một chiếc xe Pôbêđa do nhân dân Liên Xô gửi tặng. Xe dùng đã lâu ngày nên cũ và hay hỏng vặt, vǎn phòng đề nghị Bác cho đổi xe khác tốt hơn, Bác không đồng ý Bác bảo: “Ai thích đi nhanh, thích êm thì đổi. Còn Bác thì không“.

Bác rất nghiêm khắc trong việc tự phê bình, Bác căn dặn cán bộ phải “tự phê bình cái sai của mình trong mỗi việc làm, mỗi trận đánh giống như rửa mặt hàng ngày cho sạch vết nhơ”([vi]).

Đồng chí giúp việc của Bác kể rằng, có lần Tỉnh ủy Quảng Ninh biếu Bác một cành san hô to, đẹp lắm, màu sắc trắng hồng như ngọc. Bác thích lắm dùng làm quà biếu người lãnh đạo một Đảng anh em. Mọi việc thu xếp xong. Cành san hô để ở nhà khách Phủ Chủ tịch, chờ Bác ra xem lần chót rồi bỏ vào hòm, ô tô đợi sẵn, chở ra sân bay, gửi đi. Lúc để ở nhà khách, anh em xúm lại xem. Thấy nó đẹp quá ai cũng trầm trồ. Ai cũng muốn nhìn và ai cũng muốn sờ một chút. Xô đẩy thế nào đó, một anh lỡ tay đánh rơi, vỡ làm đôi. Mọi người sợ quá, sợ đến mức không dám đứng đấy mà nhận lỗi của mình nữa.

Bác cũng bị bất ngờ, tưởng xong đâu đấy hết, thì đã vỡ rồi. Bị bất ngờ như thế nhưng một nét nhíu lông mày Bác cũng không có, một lời nói nặng càng không có nữa. Bác làm vui trước cho anh em. Bác biết là anh em sợ lắm, làm thế nào trấn tĩnh được tinh thần anh em: “Thôi, phận san hô nó mỏng manh, con san hô về đất rồi. Anh em đi đâu, gọi các chú ấy ra đây. Bây giờ Bác, cháu ta tính thế nào nhỉ, lại đây cùng nhau bàn xem gỡ cái chuyện này thế nào“. Cuối cùng phải lấy một bức ảnh to của Bác, Bác đề tặng và ký vào gửi biếu. Người lỡ tay đánh vỡ con san hô thấy Bác độ lượng như vậy, cảm động, giàn giụa nước mắt.

Nhưng mà câu chuyện chưa hết. Đến buổi tối hôm đó, làm việc với đồng chí phụ trách văn phòng xong, Bác bảo: “Hôm nay còn thừa thì giờ, bây giờ chú kể cho Bác nghe cành san hô ấy bị vỡ thế nào?“. Đồng chí này kể lại từ đầu. Bác phát hiện chi tiết này: người đánh vỡ là đồng chí lái xe. Bác bảo: “Thế này nguyên nhân không phải là lỡ tay, giá như là chú, phụ trách văn phòng, hay một chú nào khác có nhiệm vụ cầm cành san hô đặt vào hòm mà đánh vỡ thì đúng là lỡ tay. Đây không phải. Chú lái xe thì có nhiệm vụ gì sờ vào cành san hô. San hô đẹp thì để anh em nhìn ngắm, được rồi, muốn sờ tay vào nó cũng được, nhưng cứ từng người, việc gì phải xúm vào, rồi người xô đằng này, người đẩy đằng kia. Và không có tổ chức, không có nền nếp, xúm vào như thế cho nên mới đi đến chỗ có người lỡ tay ẩy nó rơi vỡ. Nguyên nhân ở trong tổ chức và nếp làm việc, không phải ở chỗ lỡ tay. Nói lỡ tay là nói qua loa cho xong. Nếu chú thấy đúng như thế, lần nào họp, anh em bàn lại chuyện này rút kinh nghiệm, sửa đổi đi. Bảo là lỡ tay, đến lần sau, có cái tặng phẩm đẹp lại xúm vào xem, lại xô, lại đẩy, lại rơi vỡ lần nữa, lại lỡ tay lần nữa“([vii]). Bác là như thế. Một sai sót nhỏ cũng không bỏ qua, rút kinh nghiệm để sửa chữa, nhưng vẫn không nói nặng một lời nào.

Sinh hoạt của Bác bình thường như­ cán bộ và nhân dân, chứng tỏ Bác hiểu rất rõ, rất sát tình hình đời sống vật chất của nhân dân và cán bộ, đồng thời thể hiện tấm lòng chân thành của Bác, tấm lòng của một lãnh tụ muốn cùng chịu gian khổ với dân.

Năm 1946, hồi Bác sang Pháp với tư cách khách mời của Chính phủ Pháp, ở khách sạn, Bác không ngủ trên giường mà ngủ trên sàn, ăn sáng vào lúc sáu giờ, và tự giặt lấy quần áo lót… Các đồng chí cùng đi cảm thấy kỳ lạ vì giữa một thủ đô hoa lệ, thành phố ánh sáng như Pari mà Bác cứ khăng khăng giữ những thói quen ở trong nước. Nhưng sau đó thì ai cũng hiểu rằng, Bác muốn cho tất cả cùng theo gương Bác để tự kiềm mình trước mọi cám dỗ của cuộc sống ở đây. Đồng thời, Bác cũng nhắc nhở mọi người rằng, nước mình còn nghèo, mà cái nghèo thì không phải dễ dàng nhanh chóng khắc phục, còn phải chịu đựng nó lâu dài, vậy thì thói quen sống giản dị, khiêm tốn là thói quen tốt, cần rèn luyện để giữ nó.

Một nhà báo Australia viết rằng: Người ta không thể trở thành một Cụ Hồ Chí Minh, nhưng ở Cụ Hồ, mỗi người có thể học một số điều làm cho mình trở thành tốt hơn. Cả cuộc đời Bác là tấm gương sáng về sự tận tụy, đức hy sinh vì nước, vì dân, không một chút riêng tư.

Hơn 40 năm đã trôi qua, mỗi một câu chuyện về Bác đều trở thành một bài học vô giá về nhân cách. Tư tưởng của Bác, tấm gương đạo đức của Bác vẫn đang bay cao, tỏa sáng, để tạo dựng nên lớp lớp những chiến sĩ, những cán bộ, những con người của thế hệ Hồ Chí Minh mới trọn đời vì nước, vì dân, vì hòa bình, độc lập và sự tiến bộ trên thế giới. Đúng như lời Thủ tướng Ấn Độ I.Gandi đã từng ca ngợi: “Tên tuổi của Người sẽ trường tồn như nhân dân của Người. Đức độ lượng, tính giản dị, tình yêu nhân loại, sự tận tụy hy sinh và lòng dũng cảm của Người sẽ cổ vũ các thế hệ mai sau”([viii]).

Bùi Kim Hồng
Giám đốc Khu di tích Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch

[i] Hồ Chí Minh Toàn tập, Sđd, tập 4, tr.240
[ii]Hồ Chí Minh Toàn tập, Sđd, tập 4, tr.56
[iii] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10, tr.380
[iv] Hồ Chí Minh Toàn tập, Sđd, tập 4, tr.246
[v] Hồ Chí Minh Toàn tập, Sđd, tập 4, tr.28
[vi] Bác Hồ sống mãi với chúng ta, Nxb Chính trị quốc gia, t.2, tr.205
[vii] Bác Hồ sống mãi với chúng ta, Sđd, t.2, tr.595
[viii]Thế giới ca ngợi và thương tiếc Hồ Chủ tịch, Nxb Sự thật, 1970, t.1, tr.160

dvt.vn

Ra đi để Tổ quốc trở về…

Ảnh tư liệu

100 năm trước đây, năm 1911, từ Bến cảng Nhà Rồng, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước. Từ sự kiện lịch sử phi thường ấy đã làm thay đổi vận mệnh của dân tộc Việt Nam.

Lịch sử sẽ mãi ngẫm ngợi trong việc lý giải vì sao một người thanh niên chỉ mới 21 tuổi đời – tuổi đẹp nhất, tuổi bắt đầu lớn lên về mặt nhận thức, lại có thể có cách nhìn vượt tầm, mẫn tiệp đến mức phải ngỡ ngàng? Chân lý ban đầu thật ra rất giản dị: Muốn đánh bại kẻ thù thì phải hiểu rõ kẻ thù.

Nguyễn Tất Thành đã ra đi để tìm hình của nước (Chế Lan Viên), để đổi thay cả một cách tư duy, cách hiểu, cách tiếp cận đúng những giá trị tốt đẹp nhất giá trị độc lập dân tộc, giá trị con người. Nơi “đến” đầu tiên và khá dài là thành phố Boston- quê hương của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc đầu tiên của loài người trong thời đại tư bản chủ nghĩa (17/12/1773). Thành phố đó cũng là cái nôi để khai sinh ra một nhà nước hoàn toàn mới: Nhà nước Cộng hòa chưa có mô hình tiền lệ, nhà nước tam quyền phân lập, nhà nước với bản Tuyên ngôn Độc lập bất hủ. Với bản Tuyên ngôn đó, những giá trị thiêng liêng của con người: quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc được khẳng định.

Cách đi và đến đó không hề ngẫu nhiên vì chúng ta sẽ được xác quyết một cách rõ ràng: So với tất cả những nhân vật nổi tiếng của thời cận hiện đại, chưa có một ai sống nhiều ở nước ngoài như Nguyễn Tất Thành- Nguyễn Ái Quốc. Nếu Hoa Kỳ (nơi Nguyễn Tất Thành đã sống từ 1911 – 1913) cuộc cách mạng giải phóng dân tộc đầu tiên; thì nước Anh (Nguyễn Tất Thành sống từ khoảng 1913-1917) là nơi khai sinh ra nền công nghiệp hiện đại – mà, dù muốn hay không, đất nước nào cần phát triển, hiện đại hóa cũng phải đi theo mô hình đó. Nước Pháp là cái nôi văn minh, ánh sáng của châu Âu, cũng là “nước mẹ bảo hộ” cho Đông Dương mà Nguyễn Tất Thành cần tìm hiểu nhiều nhất và cũng là nơi Người sống lâu nhất trong thời gian ở Tây Âu, từ khoảng 1917 đến cuối năm 1923. Tiếp theo là nước Nga, quê hương của Cách mạng Tháng Mười và Trung Quốc – một trong những nền văn minh sớm nhất và rực rỡ nhất trong lịch sử loài người.

Thống kê như thế để thấy rằng không một lãnh tụ nào của phong trào cách mạng vô sản thế giới đi nhiều, hiểu rộng như Nguyễn Tất Thành – Nguyễn Ái Quốc- Chủ tịch Hồ Chí Minh sau này. Lẽ dĩ nhiên, vì đã sống ở các nền văn minh khác nhau nên sự so sánh để lựa chọn điều tốt nhất là vấn đề nguyên tắc của tư duy, của rất nhiều trăn trở và thao thức. Có thể mô hình xã hội XHCN còn có nhiều điều phải tiếp tục nghiên cứu thì thực tế đã chỉ ra rằng, con đường mà Nguyễn Ái Quốc đã chọn là con đường ngắn nhất để dân tộc Việt Nam đến với độc lập, tự do; là con đường tốt nhất để Tổ quốc Việt Nam thoát khỏi đói nghèo, lạc hậu; là con đường phù hợp nhất với một dân tộc còn chậm phát triển.

Một trong những thành quả to lớn nhất mà Nguyễn Ái Quốc đã “tìm thấy” từ trong truyền thống dân tộc và từ trong 30 năm hoạt động, học tập, nghiên cứu ở nước ngoài là vấn đề đoàn kết. Đã có khẩu hiệu “Vô sản tất cả các nước đoàn kết lại” nhưng vào tháng 2/1930, Nguyễn Ái Quốc chỉ ra rằng, ngoài giai cấp vô sản thì phải liên kết, tập hợp mọi lực lượng có thể tập hợp được, phân hóa mọi đối tượng có thể phân hóa được để tạo nên sức mạnh tổng hợp bách chiến bách thắng cho dân tộc Việt Nam.

Một thế kỷ đã đi qua kể từ mùa Hạ năm 1911 và, 70 năm cũng đã trôi qua kể từ mùa Xuân năm 1941 – ghi dấu sự ra đi và trở về của vị lãnh tụ vĩ đại. 30 năm cho một lần đi khắp năm châu, bốn biển, đủ hết tất cả những nền văn minh đáng kể nhất trong lịch sử từ hiện đại đến cổ đại (từ Mỹ đến Trung Quốc). Phải chăng Hồ Chí Minh đã làm đúng như những gì Người đã trải qua: Từ thực tế cách mạng và hiệu quả nhất là cách mạng Mỹ (trước Cách mạng Tháng Mười) của chỗ đứng hiện đại để lần giở lại lịch sử, dùng lịch sử để soi rọi nó cho ánh sáng của tầm nhìn mới, con đường mới rực rỡ, chan hòa? Với Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh, lịch sử không bao giờ lặp lại bằng cách áp dụng cứng nhắc các nguyên tắc cũ mòn, thiếu hiệu quả. Hiểu về Người là phải hiểu rõ mục đích muôn một của tìm kiếm, hành động và thành công là Tổ quốc Việt Nam trở thành một quốc gia hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới .

Hà Văn Thịnh

dvt.vn

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bài về Lev Tolstoi

N.i.nikulin
Phương Phương dịch

Năm 1960, tòa soạn báo Văn học ở Moscow đề nghị Chủ tịch Hồ Chí Minh viết một bài về văn hào Nga vĩ đại Lev Tolstoi. Khi đó vừa tròn 50 năm Tolstoi rời bỏ ngôi nhà của mình ở Yasnaia Poliana và qua đời. Năm 1960 được tuyên bố là “Năm Tolstoi”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đáp lại lời đề nghị của tòa soạn.

Bài báo nhỏ ấy của Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan trọng ở nhiều phương diện. Thứ nhất, đó là một tư liệu quý giá của nhân loại, trong đó Chủ tịch Hồ Chí Minh kể về bản thân mình, về tuổi trẻ của mình, về sự trưởng thành về tinh thần và nghệ thuật của mình với tư cách là một nhà văn, nhà báo. Người kể lại một cách rõ ràng với phong cách giản dị, sáng sủa, giàu hình ảnh, với sự chân thành sâu sắc, có lúc thoáng chút hài hước khi Người nhớ lại thời gian đầu làm quen với sáng tác của Tolstoi. Thứ hai, bài báo là một cứ liệu hiếm hoi về vai trò của các nhà văn cổ điển Nga và của Tolstoi trong sự hình thành văn học cách mạng Việt Nam, về sự tiếp nhận văn học hiện thực phê phán Nga của nhà hoạt động văn hóa vĩ đại Việt Nam và về nhiều điều khác. Bài báo nhỏ nhưng rất nhiều thông tin.

Đầu tiên bản dịch sang tiếng Nga của bài báo được đăng ở Moscow trên tờ Văn học số ra ngày 19-11-1960, còn nguyên bản tiếng Việt thì hai ngày sau được đăng trên báo Nhân Dân (số ngày 26-11-1960). Tạp chí Văn nghệ sau đó đăng lại. Giữa các văn bản tiếng Nga và tiếng Việt có một số chỗ khác nhau, chủ yếu là về phong cách. Trong bản tiếng Việt và bản tiếng Nga bài báo mang các tựa khác nhau. Trên báo Văn học nó có tên “Kỷ niệm về Người”.

Việc Nguyễn ái Quốc vào đầu những năm 20 quan tâm đến sáng tác của Tolstoi là điều rất tự nhiên, bởi chính Tolstoi chứ không phải ai khác trong các nhà văn cổ điển Nga có rất nhiều mối quan hệ với văn hóa phương Đông, với các nhà hoạt động nổi tiếng trong lĩnh vực văn hóa và trong phong trào giải phóng dân tộc cuả các dân tộc châu á, trong số họ có người chiến sĩ vĩ đại đấu tranh cho độc lập của ấn Độ Mahatma Gandhi, có nhà văn Nhật Bản nổi tiếng Tokutomi Roka.

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bài báo về Tolstoi ấy ở đâu và trong hoàn cảnh nào? Câu hỏi đó từ lâu đã làm tôi quan tâm. Hóa ra, vào tháng 11 năm 1960 Chủ tịch Hồ Chí Minh đang ở Moscow, Người dẫn đầu Đoàn đại biểu Đảng Lao động Việt Nam tham dự hội nghị của các đảng cộng sản và đảng công nhân. Tôi tìm đến một số đồng chí Liên Xô phục vụ cho đoàn Việt Nam lúc đó, và đã sáng tỏ một số chi tiết.

Người ta kể cho tôi rằng ngày làm việc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đầy ắp những công việc quan trọng và kéo dài 17 tiếng đồng hồ hoặc hơn thế nữa, với vài lần nghỉ ngắn ngủi. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ trở về tòa nhà nhỏ hai tầng nằm trong khu phố Mosfilm ở phía tây nam Moscow, nơi Đoàn đại biểu Việt Nam nghỉ lại, sau 12 giờ đêm; 5 – 6 giờ sáng Người đã dậy và bắt đầu ngày làm việc. Người chỉ có thể được ngủ 4 – 5 tiếng. Trong điều kiện như thế, rút bớt thời gian ngủ, Người không cho phép mình được từ chối lời đề nghị của tòa soạn báo Văn học và đã viết bài báo về Tolstoi.

Còn giữ lại một cứ liệu khác về những ngày đó: cùng thời gian này cũng ở Moscow có nhà văn Nguyễn Công Hoan đến để tham dự các hoạt động kỷ niệm Tolstoi, và ông đã gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 17-11-1960. Nguyễn Công Hoan nhớ lại: Chủ tịch Hồ Chí Minh xuất hiện trong giá rét, mặc chiếc măng-tô và đội chiếc mũ lông, hồng hào, nhanh nhẹn. Thời gian của Chủ tịch quá chật hẹp, Người đang vội, cuộc nói chuyện với Nguyễn Công Hoan rất ngắn ngủi.

… Với tình cảm biết ơn sâu sắc, tôi lần nữa lại đọc lại bài báo của Chủ tịch Hồ Chí Minh về Lev Tolstoi: mỗi chữ mỗi từ đều tràn đầy ý nghĩa.

Báo Sài Gòn giải phóng
cpv.org.vn

Điểm chung từ ba danh nhân văn hóa vĩ đại của dân tộc Việt Nam

(GD&TĐ) – Đến nay dân tộc Việt Nam có ba nhân vật lịch sử được UNESSCO vinh danh là danh nhân văn hóa vĩ đại đó là Nguyễn Trãi, Nguyễn Du và Hồ Chí Minh.

Nguyễn Trãi cùng Hồ Chí Minh được tri ân Anh hùng dân tộc  Nguyễn Du được người Việt kính trọng tôn xưng là Đại thi hào dân tộc.

Hiển nhiên đã là danh nhân văn hóa vĩ đại thì điểm chung là cả ba danh nhân đó đều có những đóng góp lớn lao cho nền văn hóa nhân loại. Bên cạnh đó, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du và Hồ Chí Minh cùng gặp gỡ ở một điểm chung đó là trong cuộc đời và sự nghiệp của mình, họ đều đề cao cái Tâm. Tuy ba danh nhân sống ở những không gian và thời gian khác nhau, có những biểu hiện cụ thể khác nhau trong hành động, việc làm nhưng cái cốt lõi của mỗi hành động, việc làm của họ đều là cái Tâm – là tấm lòng, gốc của đạo đức. Và, điều thú vị là cả ba danh nhân văn hóa trong những hoàn cảnh nhất định, đã đặt sự so sánh giữa Tài và Đức, để rồi cả ba đều đề cao Đức, tức là đề cao cái Tâm và họ cùng lập ngôn về điều đó.

Với Nguyễn Trãi, các tài liệu đều thống nhất ghi nhận: ông là một anh hùng dân tộc vĩ đại, là nhà chính trị lỗi lạc, nhà chiến lược thiên tài, nhà ngoại giao kiệt xuất, đồng thời là một nhà văn lớn, nhà thơ lớn, nhà sử học, nhà địa lý học, nhà làm luật pháp và âm nhạc xuất sắc. Chính nhờ những đóng góp lớn lao trên các lĩnh vực đó, năm 1980 ông được UNESCO công nhận là danh nhân văn hóa vĩ đại nhân dịp kỉ niệm 600 năm ngày sinh của ông. Nguyễn Trãi là một người tài năng nhưng ông lại là người đề cao cái Tâm, tất cả các sự nghiệp của Nguyễn Trãi đều dựa trên cơ sở gốc là đề cao cái Tâm. Cái Tâm đối với đất nước, đối với nhân dân xuyên suốt trong cuộc đời, sự nghiệp Nguyễn Trãi, và luôn bàng bạc trong thơ ông. Chính Nguyễn Trãi đã hơn một lần đề cập đến trong thơ khi đối sánh giữa Tài và Đức, lúc thì ông nói:

Tài Đức thì cho lại có nhân
Tài thì kém Đức một hai phần.

(Bảo kính cảnh giới, bài LVII) [1]

và có khi ông răn:

Khó khăn, phú quý, học Tô Tần
Miễn Đức hơn Tài được mỗ phần.

(Bảo kính cảnh giới, bài LX)

Cách Nguyễn Trãi gần 500 năm, Nguyễn Du – Đại thi hào dân tộc, cũng trưởng thành từ cửa Khổng sân Trình, thấm nhuần tâm nhân nghĩa của thời đại. Cái Tâm của Nguyễn Du còn được kết tinh từ nhân dân, cả cái Tâm của Lão – Trang và đặc biệt là cái Tâm Phật giáo.

Tượng Nguyễn Du trong khu di tích Nguyễn DuTượng Nguyễn Du trong khu di tích Nguyễn Du

Trong cuộc đời của một con người xuất thân từ gia đình “đại thế gia”, Nguyễn Du đã được học hành, được thừa hưởng từ gia đình những điều kiện nhất định. Tài năng của Nguyễn Du được nảy nở và chí hướng theo gia đình, nhập thế lập công danh đã thôi thúc chàng trai trẻ Nguyễn Du cùng với những con người khác trong thời đại muốn trổ tài kinh bang tế thế. Thế nhưng công không thành, danh không toại, lý tưởng không đạt, tài năng không có chỗ dùng, một đời thông minh thiệt thòi, ngắm thanh gươm bên mình mà thẹn phận trai không ích gì cho nước. Nguyễn Du đến với văn chương, ý thức được tài năng văn chương của mình. Thế nhưng văn chương là biểu hiện của tài năng cũng chẳng mang lại gì cho chính nhà thơ:

Bách niên cùng tử văn chương lý [2]

(Mạn hứng I)

(Cuộc đời trăm năm chết xác với văn chương)

Nguyễn Du là người từng phải nếm trải cảnh “mười năm gió bụi”, phải trôi nổi trong cuộc đời như ngọn cỏ bồng trốc gốc, thấm thía nỗi đau của bản thân, trở về dưới chân núi Hồng, tâm trạng của nhà thơ u uất, chán nản. Cuộc đời bất hạnh đã đưa nhà thơ trở về gần gũi với cuộc sống gian khổ của nhân dân mà chính nhà thơ viết:

Thôn ca sơ học tang ma ngữ,
Dã khốc thời văn chiến phạt thanh.

(Thanh minh ngẫu hứng)

(Câu hát nơi thôn dã giúp ta biết những tiếng nói trong nghề dâu gai,
Ngoài đồng nội thỉnh thoảng có người khóc còn nghe tiếng chiến tranh).

Chứng kiến cảnh “bình địa ba đào”, “thương hải biến tang điền” của thời đại, suy ngẫm về chuyện của cuộc đời mình, Nguyễn Du còn mở rộng mối quan tâm của mình ra tất cả mọi kiếp người. Trong đó có những kiếp người dưới đáy xã hội. Với tấm lòng nhân ái, cái tâm trách nhiệm, nhà thơ đã thể hiện một tình cảm xót thương trước sự nghèo đói, khổ sở của họ, tìm ra nguyên nhân, chỉ trích, phê phán thói phung phí, xa hoa của quan lại. Và, đặc biệt, trong những kiếp người đau khổ, Nguyễn Du quan tâm tới những con người tài hoa mà bạc mệnh. Từ cảnh ngộ, cuộc đời mình – một con người tài hoa, Nguyễn Du đã đồng cảm, liên tài đối với những người đồng cảnh. Nhà thơ nhận thấy rằng, cái “tài”, từ trong… bản thể của nó ẩn chứa nguyên nhân tai hoạ, vì người tài khó tránh khỏi bị đố kỵ, ghen ghét. Ông cho rằng:

Phàm sinh phụ kỳ khí
Thiên địa phi sở dung

(Điệu khuyển)

(Phàm sinh ra có khí phách khác thường
Thì trời đất không có chỗ dung thân).

Ngày trước, để tránh đi hoặc vượt qua cái “tai”, Lão Tử đưa ra một cách xử thế sâu kín, khôn khéo để tránh tai hoạ: “Thông minh duệ trí thủ chi dĩ ngu, dũng lực chấn thế thủ chi dĩ khiếp” [3], nghĩa là người thông minh phải biết giữ mình bằng cách khiêm nhường, coi mình như người ngu, bậc anh hào có sức mạnh chấn động thế giới phải biết giữ mình bằng cách làm như người nhát sợ. Thế nhưng Nguyễn Du không tìm hướng giải quyết như Lão Tử, mà ông tìm đến Phật giáo, bằng con đường tu Tâm. Bởi vậy trong tập đại thành Truyện Kiều nổi tiếng của mình, sau khi đã trải qua những thăng trầm trong cuộc đời, nhà thơ cảm khái: “Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài [4]”.

Đến thời đại Hồ Chí Minh, nhiều nhà nghiên cứu đều nhận thấy: có lẽ trong lịch sử thế giới về các danh nhân văn hóa, các nguyên thủ chưa có ai lại đặt ra vấn đề lý luận về Tài và Đức như Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chính Thủ tướng Phạm Văn Đồng, người học trò xuất sắc và người cộng sự gần gũi  với Bác Hồ đã nói: “Ở gần Bác, tôi thấy một nét nổi bật của Bác là rất coi trọng phẩm chất con người, suốt đời chăm lo bồi dưỡng đạo đức cách mạng cho cán bộ và nhân dân”.

sdChủ tịch Hồ Chí Minh – Anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa

Hồ Chí Minh là một lãnh tụ bàn nhiều đến đạo đức và vai trò của đạo đức trong đấu tranh cách mạng. Người nói: “Đạo đức là cái gốc của người cách mạng”. “Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng mới hoàn thành nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”. Vì vậy suốt đời mình Người kiên trì giáo dục phẩm chất đạo đức cho cán bộ, đảng viên, nhấn mạnh không ngừng “nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”, và bản thân Người là một tấm gương trọn vẹn của đạo đức mới: Suốt đời phấn đấu, hy sinh vì lợi ích của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân.” [5]. Hồ Chí Minh nói: “Có Tài mà không có Đức là người vô dụng, có Đức mà không có Tài thì làm việc gì cũng khó”. Cũng đặt trong tương quan so sánh giữa Tài và Đức, ở trong thời đại mới, Hồ Chí Minh đề cao cái Tài nhưng dĩ nhiên cái Đức mới là yếu tố quan trọng hơn. “Có Đức mà không có Tài thì làm việc gì cũng khó”, khó chứ không phải là không làm được, khác hẳn với vô dụng. Qua đó mới thấy Tài tuy quan trọng nhưng Đức còn cần thiết hơn bởi lẽ người có Tài mà sống vị kỉ, chỉ dùng tài năng để phục vụ cho bản thân mình không thôi thì chẳng có ý nghĩa gì, thậm chí với lối sống cá nhân và làm việc như vậy có thể gây hại cho tập thể. Tài năng chỉ được xem trọng khi nó gắn với quá trình cống hiến, người có Tài đem khả năng của mình phục vụ tập thể, phục vụ đất nước trước khi nghĩ tới những quyền lợi cho bản thân. Trong bài nói chuyện tại Đại hội sinh viên lần thứ hai, ngày 7 tháng 5 năm 1958, Bác nói: “Thanh niên bây giờ là thế hệ vẻ vang, vì vậy cho nên phải tự giác tự nguyện mà tự động cải tạo tư tưởng của mình để xứng đáng với nhiệm vụ của mình. Tức là thanh niên phải có Đức, có Tài. Có Tài mà không có Đức ví như một anh làm kinh tế tài chính rất giỏi, nhưng lại đi đến thụt két thì chẳng những không làm được gì ích lợi cho xã hội, mà còn có hại cho xã hội nữa. Nếu có Đức mà không có Tài ví như ông bụt không làm hại gì, nhưng cũng không lợi gì cho loài người…” [6].

Trong Bài nói tại lớp học chính trị của giáo viên, Người lại nói đến mối quan hệ giữa chuyên môn và chính trị bằng sự so sánh giữa Tài và Đức: “Ta là cán bộ chuyên môn, có chuyên môn mà không có chính trị giỏi thì dù học giỏi mấy dạy trẻ con cũng hỏng. Chính trị là linh hồn, chuyên môn là cái xác. Có chuyên môn mà không có chính trị thì chỉ còn cái xác không hồn. Phải có chính trị trước rồi có chuyên môn. Nếu thầy giáo, cô giáo bàng quan thì lại đúc ra một số công dân không tốt, cán bộ không tốt. Nói tóm lại, chính trị là Đức, chuyên môn là Tài. Có Tài mà không có Đức là hỏng. Có Đức mà chỉ i, tờ thì dạy thế nào? Đức phải có trước Tài. Trước hết phải dạy trẻ yêu Tổ quốc, yêu lao động, yêu đồng bào và yêu chủ nghĩa xã hội” [7]. Người luôn tâm niệm: Làm bất cứ cái gì có lợi cho dân, có lợi cho cách mạng thì làm.

Như vậy, có thể nói rằng từ Nguyễn Trãi, đến Nguyễn Du và Hồ Chí Minh cả ba danh nhân văn hóa vĩ đại đều đề cao cái Tâm, cái đạo đức trong sự so sánh với cái Tài. Đó là điểm chung rất quan trọng của ba danh nhân văn hóa. Thế đấy, có những điều tưởng như bình dị, ai cũng biết đến, nhưng để thực hiện thật không phải là dễ. Phải có một thực Tâm đối với dân, với nước, và một định hướng thường trực trong mỗi hành động, việc làm trong suốt cuộc đời. Chính điều đó mới là cái gốc làm nên nhân cách của ba danh nhân văn hóa vĩ đại của dân tộc Việt Nam.


[1] Các bài thơ Nôm của Nguyễn Trãi được trích dẫn từ Nguyễn Trãi toàn tập tân biên, tập 3, Nxb. Văn học, Trung tâm Nghiên cứu Quốc học.
[2] Các bài thơ chữ Hán của Nguyễn Du và lời dịch được trích dẫn từ Nguyễn Du toàn tập, tập 1, Nxb. Văn học, Trung tâm nghiên cứu Quốc học, 1996.
[3] Dẫn theo: http://sachhiem.net/NGHOAN/NgHoan02.php
[4] Truyện Kiều, câu thứ 3252.
[5] Hồ Chí Minh toàn tập, tập 1, Nxb. Chính trị Quốc gia, H., 2000, tr. XVIII.
[6] Hồ Chí Minh toàn tập, tập 9, Nxb. Chính trị Quốc gia, H., 2000, tr. 172.
[7] Hồ Chí Minh toàn tập, tập 9, Nxb. Chính trị Quốc gia, H., 2000, tr. 492.

Nguyễn Cảnh Chương
gdtd.vn

Niềm lạc quan và tin tưởng

Bác Hồ quan sát mặt trận Đông Khê

Sinh thời, trong cuộc sống và hoạt động cách mạng, ở Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn có niềm lạc quan và niềm tin vào sự tất thắng của cách mạng, vào tương lai tươi sáng của dân tộc. Nhiều bài viết, bài nói chuyện của Bác và chính phong cách của Người ngời sáng phẩm chất, đức tính quý báu này. Với bút danh “CB”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết bài “Lòng tin tưởng” đăng trên báo Nhân Dân ra ngày 21-2-1952.

Ở thời điểm ấy, theo Bác-cách mạng Tháng Tám thành công; toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ở mọi miền đất nước đang vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, không tiếc máu xương, của cải vật chất để tập trung cho kháng chiến chống Pháp – “Đó là vì lòng tin tưởng“. Bác 5 lần khẳng định như thế và nêu câu hỏi: “Tin tưởng vào gì? Tin tưởng vào ai?“. Câu trả lời của Bác ngay sau đó là:

Tin tưởng vào tương lai của dân tộc

Tin tưởng vào lực lượng vô cùng tận của nhân dân ta. Tin tưởng vào lực lượng cách mạng của nhân dân thế giới… Đảng và Chính phủ ta phụ trách tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta, nên ta tin tưởng vào Đảng và Chính phủ ta…”.

Niềm lạc quan và tin tưởng ấy cần có trong mọi con người, mọi hoàn cảnh. Với cương vị, chức trách của mình, chính ủy, chính trị viên phải là trung tâm hội tụ và lan tỏa niềm tin, niềm lạc quan trong cán bộ, chiến sĩ, nhất là trước những nhiệm vụ khó khăn, tình huống phức tạp. Đương nhiên, niềm tin, niềm lạc quan ấy phải có cơ sở vững chắc, tránh kiểu “lạc quan tếu”, mà Bác thường xuyên dặn nên tránh.

Đồng Đội
qdnd.vn