Bác Hồ của chúng ta là một thiên tài đa diện. Thế giới đã biết đến Hồ Chí Minh là anh hùng giải phóng dân tộc và nhà văn hóa kiệt xuất. Chúng ta có thể nói thêm : Người là nhà tư tưởng, nhà lý luận lỗi lạc, nhà thơ lớn của dân tộc, nhà báo cách mạng vĩ đại, nhà chiến lược quân sự đại tài, nhà ngoại giao xuất sắc, v.v.. Nhưng có một phương diện nữa của thiên tài Hồ Chí Minh còn ít được nhắc đến : năng lực tổng kết lịch sử, năng lực tổng kết thực tiễn và dự báo tương lai.
Một trong những phẩm chất cơ bản không thể thiếu của người lãnh đạo ở tầm quốc gia là năng lực tiên đoán, dự báo. Đây không phải là một năng lực trừu tượng được hiểu theo một nghĩa huyền bí. Không có khả năng tiên tri theo kiểu thần linh mách bảo. Chúng ta không bác bỏ vai trò của linh cảm và trực giác, nhưng linh cảm, trực giác nào cũng là kết quả của tri thức và kinh nghiệm. Một dự đoán được coi là đúng đắn, khoa học, bao giờ cũng là kết quả của một quá trình tích lũy thông tin, dữ liệu, phân tích hàng loạt sự kiện trong nước và thế giới, tổng kết thực tiễn lịch sử và hiện tại rút ra quy luật vận động của hiện thực, vận dụng nó để phán đoán những diễn biến mới, xu hướng phát triển mới của tình hình, – đó là dự báo khoa học. Người lãnh đạo chủ chốt, nhất là ở những thời kỳ đột biến của lịch sử, muốn thành công cần có năng lực định hướng tốt, dự báo đúng sự phát triển của tình hình để vạch ra đường lối, chính sách có khả năng xoay chuyển được tình thế, đưa cách mạng và đất nước tiến lên.
Hồ Chí Minh là một lãnh tụ mác xít. Năng lực tiên tri dự báo của Người được hình thành nhờ nắm vững và vận dụng sáng tạo lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, trên cơ sở một vốn văn hóa Đông – Tây sâu sắc, một vốn tri thức lịch sử và thực tiễn rộng lớn. Nói cách khác, Người đã sống và hiểu sâu sắc thời đại của mình, đã từng bước học tập vươn lên đỉnh cao của trí tuệ thời đại để có được tầm nhìn xa, trông rộng của một “phượng hoàng đại ngàn”.
Thời đại Hồ Chí Minh bước vào hoạt động chính trị là thời đại diễn ra những biến đổi cực kỳ to lớn trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó nổi bật lên 2 sự kiện quan trọng nhất làm thay đổi nội dung của thời đại : một là, chủ nghĩa tư bản từ giai đoạn tự do cạnh tranh đã chuyển sang giai đoạn tư bản độc quyền (tức giai đoạn đế quốc chủ nghĩa) và đã hình thành hệ thống thuộc địa của chúng ; hai là, thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga mở ra bước phát triển mới của lịch sử nhân loại.
Với nội dung đó, thời đại mới đã chấm dứt sự tồn tại biệt lập giữa các quốc gia, mở ra mối quan hệ quốc tế ngày càng rộng lớn, làm cho vận mệnh mỗi dân tộc không thể tách rời vận mệnh chung của cả loài người. Các dân tộc có biết mình đang sống ở thời đại lịch sử nào, nó có những đặc điểm cơ bản gì, xu hướng vận động và phát triển ra sao, giai cấp nào đứng ở vị trí trung tâm của thời đại… khi đó mới có được sự lựa chọn đúng, hành động đúng, phù hợp với xu hướng phát triển của thời đại.
Sau gần 10 năm ra nước ngoài khảo sát, Hồ Chí Minh đã nắm bắt được chính xác đặc điểm và xu thế phát triển của thời đại mình. Người viết : “Thời đại của chủ nghĩa tư bản cũng là thời đại một nhóm nước lớn do bọn tư bản tài chính cầm đầu thống trị các nước… và các dân tộc bị áp bức là một bộ phận khăng khít của cách mạng vô sản”(1). Nhờ con mắt xa rộng có tầm bao quát lịch sử và thời đại đó, Người đã khai phá ra con đường cách mạng chưa từng có trong cuộc đấu tranh giải phóng của các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc – con đường gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, từ đó khơi dậy được toàn bộ sức mạnh trí tuệ, tài năng của dân tộc và của thời đại, đưa tới thắng lợi của sự nghiệp giải phóng dân tộc ở Việt Nam và mở ra cao trào giải phóng dân tộc trên thế giới trong thế kỷ XX.
Chính vì biết vận dụng lý luận và phương pháp luận Mác – Lê-nin để tổng kết lịch sử và tổng kết thực tiễn mà Hồ Chí Minh đã thấy được tương lai, điều mà người bình thường chưa thể thấy. ở mỗi giai đoạn cách mạng cụ thể, Người đã đưa ra những tiên đoán kỳ diệu với độ chính xác gần như là tuyệt đối, làm ngạc nhiên tất cả chúng ta.
Thiên hướng đó ở Người được bộc lộ khá sớm.
– Ngay từ lúc còn thanh niên, trong một bức thư gửi cụ Phan Chu Trinh tháng 8-1914 từ nước Anh, Nguyễn Tất Thành đã viết : “Tiếng súng đang rền vang. Thây người đang phủ đất. Năm nước lớn đang đánh nhau. Chín nước đã vào vòng chiến. Cháu bỗng nhớ cách đây vài tháng cháu đã nói với bác về cơn dông sấm động này…”. Tức là trong một bức thư gửi trước đó vài tháng, anh đã tiên đoán : cuộc đại chiến thế giới 1914 – 1918 sắp nổ ra.
– Năm 1922, trong truyện ngắn “Con người biết mùi hun khói”, một truyện viễn tưởng đăng trên báo Nhân đạo Pháp ngày 20-7, Nguyễn ái Quốc đã viết về lễ kỷ niệm lần thứ 50 ngày cách mạng thành công ở nước Cộng hòa liên hiệp Phi, diễn ra vào tháng 1-1998 ; nghĩa là Người tiên đoán cách mạng giải phóng dân tộc ở một nước thuộc địa sẽ thành công vào khoảng năm 1948. Như vậy là cơ bản phù hợp về thời gian với thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945 ở Việt Nam, với nền độc lập của ấn Độ (1947), và thắng lợi của cách mạng Trung Quốc (1949). Còn quang cảnh ngày lễ thì gần như chúng ta vẫn thường thấy trên đường phố thủ đô vào ngày Quốc khánh : “… ở các bao lơn và các cửa sổ mọc ra muôn vàn tấm lá cờ đỏ phấp phới yêu kiều trước gió… Từ sáng sớm, các đường phố, các quảng trường y như một dòng sông người. Từng đoàn học sinh, giương cờ đi đầu, vừa diễu qua các phố, vừa hátQuốc tế ca, được dân chúng vỗ tay hoan nghênh…”.
– Năm 1924, trong bài “Đông Dương và Thái Bình Dương”, Người đã dự báo về nguy cơ bùng nổ một cuộc chiến tranh thế giới mới và tiên đoán : “Thế nào rồi cũng có ngày nước Nga cách mạng phải đọ sức với chủ nghĩa tư bản”. Với nhãn quan chiến lược rộng lớn, Người còn chỉ ra rằng Thái Bình Dương và các nước thuộc địa xung quanh Thái Bình Dương đã trở thành miếng mồi béo bở cho các tên đế quốc dòm ngó, nên khu vực này “tương lai có thể trở thành một lò lửa của cuộc chiến tranh thế giới mới mà giai cấp vô sản sẽ phải nai lưng ra gánh”. Những tiên đoán mà Nguyễn ái Quốc phác họa từ năm 1924, 15 năm sau đã thành hiện thực : Năm 1939, chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, phát xít Đức tấn công Liên Xô, các nước xung quanh Thái Bình Dương đã trở thành một chiến trường ác liệt.
– Ngày 1-1-1942, trên báo Việt Nam độc lập số 114 Người đã làm bài thơ “Chúc năm mới”, mở đầu cho sự ra đời một thể loại thơ mới : Thơ chúc Tếtcủa Bác Hồ. Bài thơ tràn đầy niềm lạc quan vào triển vọng thắng lợi của cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới. Lúc này, cuộc chiến tranh vệ quốc của Liên Xô đang ở giai đoạn khó khăn, bọn phát xít đang “làm mưa làm gió” trên bầu trời Âu – Á. Trả lời câu hỏi : năm nay tình hình thế giới và trong nước sẽ thế nào, trong bài “Năm mới, công việc mới” cùng in trong số báo trên, Người khẳng định : “Ta có thể quyết đoán rằng, Nga nhất định thắng, Đức nhất định bại, Anh, Mỹ sẽ được, Nhật Bản sẽ thua. Đó là một dịp rất tốt cho dân ta khởi nghĩa đánh đuổi Pháp, Nhật, làm cho Tổ quốc ta độc lập tự do”.
Cũng vào dịp Xuân Canh Ngọ (2-1942) cuốn “Lịch sử nước ta” do Người biên soạn, được Việt Minh xuất bản, đã kịp ra mắt vào dịp mừng xuân. Cuối tác phẩm có mục “Những năm tháng quan trọng” ghi những sự kiện lớn trong lịch sử dân tộc, sự kiện cuối cùng, Người viết : 1945 – Việt Nam độc lập. Thật là một dự báo kỳ diệu. Trong khi các nguyên thủ của phe Đồng minh họp tại Tê-hê-răng (1943), dự tính rằng, phải đến năm 1946 mới có thể hoàn toàn đánh bại được lực lượng phát xít, kết thúc chiến tranh, thì lịch sử lại diễn ra đúng như Hồ Chí Minh đã tiên đoán : Tháng 5-1945, phát xít Đức đầu hàng, Liên Xô đánh tan đội quân Quan Đông của Nhật, Mỹ ném bom nguyên tử xuống Hi-rô-si-ma và Na-ga-da-ki, Nhật đầu hàng vô điều kiện. Nắm cơ hội đó, nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, nổi dậy làm tổng khởi nghĩa Tháng Tám giành lại độc lập trong cả nước.
– Năm 1949, trong truyện ngắn viễn tưởng “Giấc ngủ mười năm”, ký bút danh Trần Lực, do Tổng bộ Việt Minh xuất bản, Người phác họa sự biến đổi của đất nước và con người Việt Nam sau chiến tranh qua sự đổi đời của anh nông dân mặc áo lính, người dân tộc Nùng có tên là Nông Văn Minh. Hồi nhỏ, anh phải đi ở đợ cho địa chủ. Hai mươi tuổi tham gia Vệ quốc đoàn, chiến đấu ở trận Bông Lau. Cuối năm 1947, anh bị thương và hôn mê, ngủ liền một giấc 10 năm ! Ngày 15-8-1958 mới tỉnh dậy. Lúc này vợ anh đã làm chủ tịch xã, con gái anh đang học đại học y khoa !
Truyện vẽ ra viễn cảnh của xã hội nước ta trước và sau khi chiến tranh kết thúc cho đến năm 1958 với những sự kiện gần như xác thực, khiến ta cũng sửng sốt không kém gì nhân vật đã ngủ 10 năm ! Từ trận chiến đấu quyết chiến chiến lược để kết thúc chiến tranh, chính phủ Pháp đổ, chính phủ mới lên thay phải ngồi đàm phán với ta, rồi hòa bình lập lại, Đảng và Chính phủ trở về Thủ đô, quang cảnh tưng bừng ngày hội, cho đến việc khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh cùng bao đổi thay khác… đã được Người phác họa ra trong cuốn truyện từ năm 1948.
Đặc biệt trong truyện ngắn trên, tác giả đã mô tả “trận cuối cùng” có quy mô to lớn và ác liệt, theo ta hiểu đó là trận chiến đấu quyết chiến lược để kết thúc chiến tranh. Trong trận đó, giặc Pháp đã phải huy động “từng đàn, từng lũ máy bay … tủa ra như ong”. “Chúng giội bom xuống như mưa. Tốp máy bay này về thì tốp khác tới, chúng thay nhau ném bom… tiếng nổ long trời chuyển đất, khói lên nghi ngút như mây”. Qua sự miêu tả ấy, chúng ta đều liên tưởng đến trận chiến đấu quyết chiến chiến lược đã diễn ra ở Điện Biên Phủ năm 1954.
– Năm 1960, Người tiên đoán : chậm nhất là 15 năm nữa nước nhà sẽ thống nhất. Trong Diễn văn bế mạc Người đọc tại lễ mừng Quốc khánh 2-9 tổ chức ở Nhà hát lớn thành phố Hà Nội, có đoạn viết : “Trong lúc chúc mừng ngày Quốc khánh vĩ đại lần thứ 15, chúng ta càng nhớ đến đồng bào ta ở miền Nam đang anh dũng đấu tranh chống chế độ tàn bạo của Mỹ – Diệm. Chúng ta gửi đến đồng bào miền Nam mối tình ruột thịt và hứa với đồng bào rằng : Toàn dân ta đoàn kết nhất trí, bền bỉ đấu tranh, thì chậm lắm là 15 năm nữa, Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất, Bắc – Nam nhất định sum họp một nhà”(2). Người gạch dưới trong bản thảo các chữ “chậm lắm là 15 năm nữa”. Đúng 15 năm sau, với thắng lợi vĩ đại của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử mùa xuân 1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước ta đã đi tới thống nhất đúng như tiên đoán diệu kỳ của Bác Hồ.
– Trước khi từ biệt chúng ta, Người đã tin tưởng dặn lại trong Di chúc : “Cuộc kháng chiến có thể còn kéo dài … Dù khó khăn gian khổ đến mấy, nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định phải cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà”. Người còn hình dung cụ thể tình huống cuối cùng trước khi Mỹ phải cút khỏi nước ta. Sau khi nghe đồng chí đại tá tư lệnh phòng không – không quân báo cáo về cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại trên miền Bắc, Người đã tiên tri, tiên liệu : “Sớm muộn rồi đế quốc Mỹ cũng sẽ đưa B52 ra đánh Hà Nội rồi có thua nó mới chịu thua. Phải dự kiến trước mọi tình huống, càng sớm càng tốt, để có thời gian mà suy nghĩ, mà chuẩn bị”. Nhắc lại kinh nghiệm ở Triều Tiên, trước khi thua, Mỹ đã ném bom hủy diệt Bình Nhưỡng, Người dự báo : “ở Việt Nam, Mỹ nhất định thua, nhưng nó chỉ chịu thua sau khi thua trên bầu trời Hà Nội”. (3)
Thực tế đã diễn ra đúng như tiên liệu của Bác Hồ. Trước khi chịu ký kết Hiệp định Pa-ri 1-1973, Mỹ đã mở cuộc tập kích chiến lược bằng B52 vào Hà Nội và Hải Phòng. Chỉ sau khi thất bại nặng nề trong trận “Điện Biên Phủ trên không”, ý chí xâm lược bị đập tan, Mỹ mới buộc phải thừa nhận các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam và rút hết quân về nước.
*
* *
Ngày nay, ôn lại những dự báo của Bác Hồ, chúng ta càng hiểu sâu thêm một phương diện của thiên tài Hồ Chí Minh : nhờ tổng kết lịch sử, tổng kết thực tiễn, Người đã hình thành một năng lực tiên tri, dự báo kỳ diệu ! Nhấn mạnh điều này, chúng ta không hề có ý định thần thánh hóa lãnh tụ kính yêu của mình. Bác Hồ cũng là một con người, nhưng là một con người lỗi lạc. Với một thiên tài trí tuệ hiếm có, với sự nắm vững khoa học Mác – Lê-nin – quy luật vận động và phát triển của lịch sử, với lượng thông tin chính xác và khả năng phân tích sắc sảo,… Người đã có thể nhìn thấy cái tương lai từ sự tổng kết của lịch sử.
Ngày nay, dự đoán tương lai đã trở thành một môn khoa học. Bộ môn tương lai học (futurologie) đang được chú ý nghiên cứu ở nhiều nước. Với sự tiến bộ vượt bậc của khoa học và công nghệ trong thời đại ngày nay, đặc biệt là công nghệ thông tin, khoa tương lai học đang có triển vọng phát triển để phục vụ con người. Làm chính trị hay kinh tế, hoạch định những kế hoạch, dự án có tầm chiến lược quốc gia, ở bối cảnh quốc tế đang diễn biến nhanh chóng và phức tạp như hiện nay, nếu không muốn mắc phải những sai lầm chủ quan, duy ý chí, không muốn lâm vào đổ vỡ, thất bại,… chắc chắn phải biết tiến hành nghiên cứu dự báo một cách khoa học.
Vừa qua, Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) đã ra Nghị quyết về những nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình mới, trong đó nhiệm vụ đầu tiên là “đẩy mạnh tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, tiếp tục làm sáng tỏ hơn lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta”. Lý luận nào cũng hình thành từ sự tổng kết lịch sử và tổng kết thực tiễn, từ tổng kết mà rút ra các quy luật vận động của hiện thực đã qua để soi sáng cho hiện thực đang tới. Vì vậy, lý luận mang trong bản thân nó chức năng dự báo. Nghiên cứu lý luận tức là phải nghiên cứu dự báo. Đưa một chương trình, dự án, kế hoạch, … vào thực tiễn cuộc sống cũng cần có dự báo về các khả năng, cả thuận lợi và rủi ro. Chính vì vậy, rất cần đến khoa học dự báo.
Ngành tương lai học của Việt Nam trên con đường hình thành và phát triển không thể không nghiên cứu, tổng kết để kế thừa và vận dụng tốt phương pháp luận dự đoán tương lai của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Thắng lợi của cách mạng Việt Nam gắn liền với sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng ta mà tiêu biểu là trí tuệ thiên tài của lãnh tụ Đảng, của Bác Hồ vĩ đại, trong đó có năng lực tổng kết lịch sử, tổng kết thực tiễn và dự báo tương lai, nhờ đó đưa ra những quyết sách đúng đắn, có khả năng xoay chuyển tình thế, đưa cách mạng tiến lên những thắng lợi như ngày nay.
Hiện nay, chúng ta đang sống trong một thế giới đầy biến động, trật tự cũ đã thay đổi, trật tự mới chưa hình thành. Tình hình thế giới đang diễn biến phức tạp, chứa đựng nhiều yếu tố bất trắc và những thay đổi khôn lường. Để xác lập đúng đắn một chiến lược kinh tế hay một đường lối đối ngoại có khả năng thích ứng với những diễn biến phức tạp như vậy, chúng ta phải noi gương Hồ Chí Minh : phải nhận thức được thời đại mình đang sống một cách thật sâu rộng, trên cơ sở thường xuyên tổng kết lịch sử, tổng kết thực tiễn trong nước và thế giới ; chỉ có như vậy chúng ta mới có thể nắm bắt chính xác đặc điểm và xu thế diễn biến của tình hình, mới dự kiến được bước đi chắc chắn cho tương lai.
* PGS
(1) Hồ Chí Minh : Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, t 8, tr 567
(2) Bản thảo bút tích, in trong Đặc san Nhân Dân, số ra ngày 30-4-1985
(3) Xem Bộ Quốc phòng – Viện lịch sử quân sự : Sự nghiệp và tư tưởng quân sự của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1990, tr 224
Nguồn: tapchicongsan.org.vn
Vkyno (st)
Bạn phải đăng nhập để bình luận.