“Nhân quyền cao hơn chủ quyền”, ”Nhân quyền không biên giới”, ”Chủ quyền hạn chế”, ”Can thiệp nhân đạo”… là những cách diễn đạt khác nhau của cùng một tư tưởng lý luận và ý đồ chính trị của các thế lực cực hữu phương Tây dùng dân chủ, nhân quyền làm công cụ để can thiệp vào công việc nội bộ của các nước XHCN và các quốc gia đi theo con đường độc lập dân tộc.
Để bác bỏ luận điểm ”Nhân quyền cao hơn chủ quyền”, chúng ta cần phân tích luận điểm này một cách có hệ thống trên cả hai bình diện: tư tưởng chính trị và pháp lý quốc tế.
Xét về tư tưởng chính trị, quyền con người là giá trị chung của nhân loại. Tất cả các quốc gia dân tộc đều có những đóng góp vào giá trị đó. Quyền con người là thành quả của các cuộc đấu tranh: đấu tranh giai cấp, chống áp bức, bóc lột; đấu tranh giành độc lập dân tộc và đấu tranh chống lại sự suy thoái về đạo đức, lối sống, hướng đến sự hoàn thiện phẩm giá con người. Với chúng ta, bảo đảm quyền con người chân chính thuộc bản chất của chế độ xã hội XHCN của Đảng và của Nhà nước ta.
Nói đến ”quyền” là nói đến pháp luật. Nói đến pháp luật không thể không nói tới vai trò của Nhà nước.
Là một dân tộc có bề dày lịch sử và một nền văn hiến rực rỡ, có truyền thống nhân đạo, bảo vệ con người, vào thế kỷ XI, dưới thời nhà Lý, chúng ta đã có “Bộ luật hình”. Trong đó đã có nhiều điều bảo vệ quyền con người – tất nhiên còn nhiều hạn chế bởi các điều kiện kinh tế và quan điểm giai cấp. Vào thời nhà Lê, thế kỷ XV, chúng ta có bộ luật ”Quốc triều hình luật”, còn gọi là bộ luật “Hồng Đức”. Bộ luật có tới 712 điều, trong đó không chỉ chứa đựng những quy phạm xã hội tiến bộ mà còn thể hiện những tư tưởng nhân đạo, nhân quyền sâu sắc như bảo vệ quyền của bị can, bị cáo, tư tưởng về bình đẳng trước pháp luật, về quyền của phụ nữ, về sự khoan dung đối với người già và người chưa thành niên…
Như vậy, có thể nói, trong xã hội nô lệ, phong kiến tuy chưa có chế định quyền con người, nhưng đã có những chế định pháp luật có nội dung bảo vệ con người.
Chủ nghĩa Mác- Lênin đã đặt quyền con người vào trong tiến trình lịch sử, rằng, những quyền đó gắn liền với Nhà nước và pháp luật. Quyền con người, do đó không thể không in dấu ấn giai cấp, nhất là khi vận dụng nó trong cuộc đấu tranh giai cấp cũng như đấu tranh giành độc lập dân tộc. Quyền con người đã từng là vũ khí đấu tranh của giai cấp tư sản nhằm lật đổ sự thống trị bởi vương quyền, thần quyền và dùng để củng cố địa vị thống trị của mình.
Xét trên phương diện pháp lý quốc tế trước khi tổ chức Liên hợp quốc ra đời, quyền con người chỉ tồn tại trong Luật Hiến pháp, có nghĩa chỉ điều chỉnh các quan hệ xã hội trong phạm vi nội bộ của mỗi quốc gia. Từ khi Liên hợp quốc thành lập (1945) cùng với Hiến chương Liên hợp quốc và các Công ước quốc tế cơ bản về quyền con người ra đời, quyền con người đã trở thành một chế định trong Luật quốc tế. Từ đây, quyền con người được bảo đảm bởi cả hai cơ chế, cơ chế quốc gia và cơ chế quốc tế. Đây chính là cơ sở lịch sử – chính trị của luận điểm ”Nhân quyền cao hơn chủ quyền”.
Cơ chế quốc tế bảo vệ quyền con người gồm những yếu tố sau:
– Hệ thống các cơ quan bảo vệ quyền con người của Liên hợp quốc bao gồm: Đại hội Đồng Liên hợp quốc; Hội đồng kinh tế – xã hội, Ủy ban nhân quyền, Cao ủy nhân quyền, các ủy ban nhân quyền của một số công ước… Hội đồng Bảo an cũng có vai trò quan trọng, là tổ chức ra quyết định có can thiệp bằng quân sự khi xuất hiện tình trạng vi phạm nhân quyền nghiêm trọng, phổ biến ở một quốc gia nào đó không?
– Cùng với sự ra đời hệ thống các cơ quan nhân quyền là hệ thống các văn kiện pháp lý về quyền con người, đó là Hiến chương Liên hợp quốc, Tuyên ngôn thế giới về quyền con người, các công ước quốc tế về quyền con người, đặc biệt là hai công ước – Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa; Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị (1966). Ngày nay, giới lý luận xem Tuyên ngôn thế giới về quyền con người và hai công ước trên là ”Bộ luật quốc tế về quyền con người”.
Bác bỏ luận điểm ”Nhân quyền cao hơn chủ quyền” cần phân tích mối quan hệ giữa độc lập dân tộc, quyền dân tộc tự quyết với cơ chế quốc tế bảo đảm quyền con người.
V.I.Lênin đã đề cập tới quyền dân tộc tự quyết trên tinh thần cách mạng và khoa học. Người nói:
”Quyền dân tộc tự quyết có nghĩa là sự phân lập của các dân tộc đó, với tư cách là quốc gia, ra khỏi tập thể các dân tộc khác, có nghĩa là sự thành lập một quốc gia dân tộc độc lập”. Người còn nhấn mạnh, quan điểm của chủ nghĩa xã hội đối với các dân tộc bị áp bức là: ”Chủ nghĩa xã hội thắng lợi nhất thiết phải lập nên chế độ dân chủ hoàn toàn và do đó, không những làm cho các dân tộc hoàn toàn bình đẳng với nhau, mà còn thực hành quyền tự quyết của các dân tộc bị áp bức”. Thực tiễn lịch sử ghi nhận, nhà nước Xô-viết đã giành quyền dân tộc tự quyết cho các dân tộc chung sống trong Liên bang cộng hòa XHCN Xô-viết bao gồm cả quyền tách khỏi Liên bang như trưởng hợp Phần Lan.
Tiếp nối và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê nin về quyền dân tộc tự quyết, Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong “Tuyên ngôn độc lập”, không chỉ nói đến ”quyền phân lập” với ”mẫu quốc” mà nhấn mạnh đến quyền đấu tranh giành độc lập dân tộc, đồng thời khẳng định dân tộc Việt Nam có đủ điều kiện và quyết tâm bảo vệ nền độc lập đó. Điều đó có nghĩa, Việt Nam không cần đến cái gọi là ”chế độ quản thác” của bất cứ ai, kể cả Liên hợp quốc.
Sau “Tuyên ngôn độc lập” của Việt Nam 15 năm, vào những năm 60 của thế kỷ XX, cộng đồng quốc tế mới chính thức thừa nhận quyền dân tộc tự quyết trong “Văn kiện Tuyên ngôn về trao trả độc lập cho các nước và dân tộc thuộc địa”. Điều này còn được khẳng định lại trong hai công ước: Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa, Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị, năm 1966.
Với hai công ước quốc tế về quyền con người năm 1966, Tuyên bố Viên và Chương trình hành động, 1993, quyền dân tộc tự quyết chẳng những được khẳng định trong Luật quốc tế nói chung mà còn là quyền tập thể trong hệ thống quyền con người. Các văn kiện nói trên còn lưu ý rằng, việc bảo đảm các quyền con người trước hết thuộc trách nhiệm của các quốc gia.
Như vậy là luận điểm ”Nhân quyền cao hơn chủ quyền” trên phương diện Luật quốc tế, không có căn cứ bởi vì chủ thể của Luật quốc tế là các quốc gia, chứ không phải là các cá nhân. Không phủ nhận rằng, trong Luật quốc tế về quyền con người, tư cách pháp lý của cá nhân cũng có thể được xác lập với điều kiện có sự cam kết của các chính phủ tham gia Nghị định thư không bắt buộc thứ nhất. Song, cho đến nay, Việt Nam và nhiều quốc gia chưa thừa nhận Nghị định thư này. Xét về nội dung việc bảo đảm các quyền con người ở mỗi quốc gia theo Công ước quốc tế còn phải căn cứ vào các điều kiện cụ thể về chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa của mỗi nước. Pháp luật quốc tế không cho phép bất cứ quốc gia nào hay tổ chức quốc tế nào được phép can thiệp vào vấn đề nhân quyền của mỗi nước. Những mâu thuẫn hoặc khác biệt nào đó giữa các quốc gia trên lĩnh vực này chỉ có thể được giải quyết trên tinh thần bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau và đối thoại xây dựng.
Nhằm ngăn chặn ý đồ thông qua vấn đề nhân quyền để can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia cũng như việc áp đặt hệ tư tưởng tư sản, đại diện của Liên Xô đã bác bỏ những đề xuất ban đầu của Tiểu ban soạn thảo Tuyên ngôn ở một số điểm sau:
Thứ nhất, bác bỏ khái niệm ”Công ước” quốc tế về quyền con người mà thực chất là Bộ luật quốc tế về quyền con người Nói cách khác là bác bỏ tính ràng buộc về mặt pháp lý của Văn kiện này. Cuối cùng các thành viên đã nhất trí tính chất của văn bản là ”Tuyên ngôn”, một văn kiện không ràng buộc về mặt pháp lý.
Thứ hai, bác bỏ tư cách cá nhân của các thành viên tham gia Tiểu ban soạn thảo, thay vào đó là tư cách đại diện của mỗi quốc gia.
Thứ ba, mặc dù không đưa ra nguyên tắc đa số hay đồng thuận, song trên thực tế, nguyên tắc đồng thuận là nguyên tắc làm việc của Tiểu ban (vì lúc đó trong Tiểu ban chỉ có một đại diện của Nhà nước XHCN – đó là Liên Xô).
Thứ tư, về nội dung các quyền, đại diện Nhà nước Xô-viết bác bỏ quan điểm tuyệt đối hóa các quyền dân sự, chính trị và quyền tự do cá nhân… thay vào đó là sự bảo đảm hài hòa giữa các quyền dân sự, chính trị với các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa… Tuy nhiên, văn kiện này đã để ”ngỏ” vấn đề chủ quyền quốc gia.
Mặc dù còn một số hạn chế, Tuyên ngôn thế giới về quyền con người vẫn là một Văn kiện chứa đựng những tư tưởng lớn, tiến bộ, có giá trị bền vững trên lĩnh vực quyền con người. Hiện nay, cùng với Hiến chương Liên hợp quốc, Văn kiện này được tất cả các quốc gia thành viên Liên hợp quốc, mặc nhiên thừa nhận và xem đó như một Văn kiện mang tính đạo lý và có tính pháp lý mà các quốc gia cần phải tôn trọng.
Vào thập kỷ 60, thế kỷ XX do phong trào giải phóng dân tộc phát triển mạnh mẽ, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô đã thu được những thành tựu to lớn, chủ nghĩa đế quốc không thể phát động chiến tranh xâm lược, Hoa Kỳ đã đẩy mạnh chiến lược diễn biến hòa bình đối với các nước XHCN. Ngoại giao nhân quyền được xem là phương thức quan trọng của chiến lược đó.
Luận điểm ”Nhân quyền cao hơn chủ quyền” là một trong những nội dung cơ bản của cuốn sách “Ngoại giao nhân quyền” do D.Niu sơn viết và xuất bản tại Hoa Kỳ năm 1966. Các lực lượng cầm quyền Hoa Kỳ cho rằng, hệ tư tưởng tư sản với tự do, dân chủ nhân quyền là thế mạnh của họ. Hoa Kỳ có thể giành được ưu thế chính trị nếu biết dựa trên quan niệm dân chủ, nhân quyền trong hoạt động đối ngoại.
Chính sách ngoại giao nhân quyền của Hoa Kỳ lấy quan niệm dân chủ, nhân quyền của họ ”làm nền tảng”. Tùy theo tương quan lực lượng và điều kiện khách quan, chủ quan mà họ đề cập tới vấn đề nhân quyền với quốc gia nào và ở mức độ nào. Đôi khi Hoa Kỳ đặt vấn đề nhân quyền là điều kiện tiên quyết để thiết lập và duy trì quan hệ ngoại giao. Tuy nhiên, bản chất ngoại giao nhân quyền là dùng khái niệm dân chủ, nhân quyền để can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác. Trên lĩnh vực tư tưởng, ngoại giao nhân quyền hướng vào phê phán, bài bác các quan điểm nhân quyền mác-xít, truyền bá quan điểm nhân quyền tư sản nhằm làm biến đổi ý thức hệ Mác-Lênin từ đó làm thay đổi tận gốc chế độ xã hội XHCN ở các quốc gia, áp đặt một xã hội theo ”hình ảnh” của họ.
Trong chiến lược ”diễn biến hòa bình”, ngoại giao nhân quyền là một vũ khí lợi hại của chủ nghĩa đế quốc. Vào những năm 1918 – 1922, khi nước Nga Xô-viết vừa ra đời, đứng giữa vòng vây và cuộc can thiệp quân sự của nhiều nước đế quốc nhưng nước Nga Xô-viết vẫn tồn tại và phát triển. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Hồng quân Liên Xô là lực lượng chủ yếu đánh bại chủ nghĩa phát xít, bảo vệ vững chắc Tổ quốc XHCN, đồng thời còn góp phần giải phóng cho nhiều dân tộc khác. Thế nhưng, với chiến lược truyền bá tư tưởng ”dân chủ”, ”công khai”, ”đa nguyên, đa đảng”, ”nhân quyền”… các thế lực đế quốc đã làm sụp đổ ý thức hệ Mác-Lênin ở Liên Xô, Đông Âu. Đây là một trong những nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự sụp đổ một bộ phận quan trọng của hệ thống XHCN vào những năm 1989 – 1991.
Sau khi Liên Xô tan rã, các nước XHCN Đông Âu sụp đổ, đế quốc Mỹ thúc đẩy chiến lược ”diễn biến hòa bình” và ngoại giao nhân quyền, sử dụng luận điểm ”Nhân quyền cao hơn chủ quyền” để can thiệp vào công việc nội bộ của các nước. Năm 1991, Hoa Kỳ dùng quân sự can thiệp vào cuộc chiến tranh Irắc – Côoét. Năm 1999, Hoa Kỳ và NATO kiếm cớ bảo vệ nhân quyền của người An-ba-ni xâm lược Nam Tư. Năm 2001 , họ xâm lược Áp-ga-ni-xtan và năm 2003 họ xâm lược I-rắc cùng với những lý do dân chủ, nhân quyền.
Đối với Việt Nam, sau khi buộc phải rút quân, Hoa Kỳ đã áp dụng nhiều chiến lược phá hoại, từ các ”kế hoạch hậu chiến”, nuôi dưỡng những phần tử có hận thù với cách mạng, xây dựng lực lượng chính trị, quân sự trong nước và ngoài nước… đến việc đưa biệt kích xâm nhập nội địa, mưu toan gây bạo động chính trị, vực dậy lực lượng phản động trong nước… nhưng họ đã bị thất bại. Trong mục tiêu chiến lược đánh đổ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, kịch bản ”diễn biến hòa bình”, dựa trên lợi dụng dân chủ, nhân quyền như đã từng diễn ra ở Liên Xô, Đông Âu (1989 – 1991) được xem là phương thức chủ yếu, là điều mong muốn nhất của họ.
Khác với các giai đoạn trước đây, điểm mới trong chiến lược ”diễn biến hòa bình” cũng là điểm mới trong việc sử dụng luận điểm ”Nhân quyền cao hơn chủ quyền” của Hoa Kỳ là song song với việc truyền bá hệ tư tưởng tư sản, lối sống, văn hóa là áp đặt pháp lý đơn phương nhằm gây khó khăn, từng bước làm biến đổi chế độ xã hội ta.
Liên tiếp từ năm 2001 đến nay, không kể Báo cáo nhân quyền hàng năm, lực lượng cực hữu Hoa Kỳ đã áp đặt nhiều Dự luật đối với Việt Nam, mở đầu là ”Đạo luật nhân quyền Việt Nam”, HR2368, tiếp đó là Hạ viện bang Viếc-gi-ni-a thông qua đạo luật cho phép công sở treo cờ ba sọc của ngụy quyền Sài Gòn, rồi đến ”Dự luật thúc đẩy tự do thông tin 1019”, ”Dự luật nhân quyền Việt Nam 2003”, HR1587 và ”Một số khoản bổ sung Dự luật chi đối ngoại của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ năm 2004 – 2005”, HRI950 – trong đó, họ đòi Việt Nam phải phóng thích tất cả tù nhân ”chính trị và tôn giáo” và yêu cầu Chính phủ Mỹ cung cấp tài chính cho đài phát thanh châu Á tự do, cho lực lượng ”đấu tranh” dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam…
Có thể nói về chiến lược của chủ nghĩa đế quốc hiện nay là lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền, lợi dụng luận điểm ”Nhân quyền cao hơn chủ quyền” để can thiệp vào vấn đề dân tộc, tôn giáo, phá hoại đại đoàn kết toàn dân tộc làm trọng tâm; lấy việc xây dựng tổ chức, tạo dựng ngọn cờ và gây bạo loạn chính trị, tạo cớ móc nối với các thế lực bên ngoài làm khâu đột phá.
Ảo tưởng thành lập ”Nhà nước Đêga độc lập” ở Tây Nguyên, ”Nhà nước Khmer Rôm” ở Tây Nam Bộ; ”Vương quốc H’mông tự trị” ở Tây Bắc; ”Vương quốc Chăm” ở Nam Trung Bộ cùng với mưu đồ xây dựng các tổ chức chính trị đội lốt tôn giáo phi pháp như ”Tin Lành Đêga”, “Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất”, ”Ủy ban liên tôn đấu tranh vì tự do tôn giáo”… là những kịch bản đầy tham vọng của họ.
Bác bỏ luận điểm ”Nhân quyền cao hơn chủ quyền” trong bối cảnh chính trị quốc tế hiện nay, chúng ta cần nhận thức đầy đủ, toàn diện về mục tiêu, chiến lược cách mạng của Đảng, về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Đồng thời chúng ta cần nắm chắc đặc điểm của tình hình quốc tế liên quan đến cuộc đấu tranh trên lĩnh vực quyền con người.
Như trên đã trình bày, đặc điểm của tình hình quốc tế liên quan tới quyền con người hiện nay đó là sự hình thành cơ chế quốc tế bảo vệ quyền con người với hệ thống các cơ quan nhân quyền rộng lớn có sự tham gia (ở những mức độ khác nhau) của các thành viên Liên hợp quốc. Hiện nay, Việt Nam đang là một thành viên tích cực. Chúng ta đã tham gia Ủy ban nhân quyền và đang tiếp tục ứng cử làm thành viên ủy ban này trong nhiệm kỳ tới. Các chuẩn mực cơ bản về quyền con người, được xem như Bộ luật quốc tế đã được cộng đồng quốc tế thừa nhận rộng rãi.
Ở châu Âu, châu Phi, châu Mỹ đã hình thành tổ chức nhân quyền khu vực bao gồm cả Tòa án Nhân quyền. Nhân quyền đang trở thành mối quan tâm chung của cả cộng đồng quốc tế.
Trong điều kiện cơ chế quốc tế đã hình thành, hiện nay, giải quyết những vấn đề nhân quyền chúng ta cần phải tính đến các nhân tố quốc tế. Cuộc đấu tranh chống ”diễn biến hòa bình” nói chung, đấu tranh chống các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân chủ nhân quyền là một bộ phận của sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Cuộc đấu tranh này cần phải phục vụ cho mục tiêu nhiệm vụ của chiến lược cách mạng hiện nay: xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, phát triển kinh tế, văn hóa đồng thời mở rộng quan hệ quốc tế, bảo vệ quốc gia và an ninh xã hội.
Trong khi kiên quyết và kiên trì cuộc đấu tranh chống ”diễn biến hòa bình”, bảo vệ vững chắc hệ tư tưởng, Cương lĩnh, đường lối quan điểm của Đảng, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước, đấu tranh bảo vệ vững chắc chế độ chính trị, an ninh quốc gia, chúng ta cần phải chống lại âm mưu và thủ đoạn bôi nhọ, hạ thấp hình tượng cao đẹp của Việt Nam đã hình thành trong cuộc đấu tranh giành và bảo vệ độc lập dân tộc. Chúng ta có thể và cần phải đấu tranh chống lại âm mưu và thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền cô lập Việt Nam, cản trở và ngăn chặn Việt Nam hội nhập với cộng đồng quốc tế.
Để giành được thắng lợi trong cuộc đấu tranh này, chúng ta phải chủ động; hợp tác trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, đối thoại bình đẳng. . . Đồng thời, giải quyết ngày càng tốt hơn các quyền công dân và quyền con người cho người đần; xử lý kiên quyết đối với những phần tử cơ hội, phản động trong nước và đấu tranh chống lại âm mưu, thủ đoạn của các thể lực thù địch nước ngoài./.
Theo Cao Nguyên, Tạp chí Thông tin công tác tư tưởng lý luận tháng 5/2005
cpv.org.vn