Bác sĩ Trần Duy Hưng với Hà Nội những năm đầu Độc lập

QĐND – Ngay sau ngày Cách mạng Tháng Tám thành công, chính quyền cách mạng lâm thời Hà Nội đã mời các nhân sĩ Hà Nội như cụ Nguyễn Văn Tố, bác sĩ Nguyễn Văn Luyện, bác sĩ Trần Duy Hưng… tham gia chính quyền nhân dân. Các “sĩ phu Bắc Hà” đã vui vẻ nhận lời. Khi về Hà Nội, nhận thấy ở bác sĩ Trần Duy Hưng một nhân cách, một tấm lòng son sắt vì nước, vì dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề nghị ông làm Thị trưởng Thành phố Hà Nội. Ông đã đáp lại rằng: “Thưa Cụ, chức Chủ tịch xin Cụ chọn người khác xứng đáng hơn, tôi không quen làm…”. Nghe vậy, Cụ Hồ đã động viên: “Tôi có quen việc làm Chủ tịch nước đâu, chúng ta cứ làm rồi sẽ quen…”. Và từ ngày 30-8-1945, ở tuổi 33, ông đã là Chủ tịch đầu tiên của Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội.

Các đại biểu Quốc hội của Hà Nội ra mắt cử tri ngày 12-1-1946, trên sân vận động ở khu Việt Nam Học xá (Trường Đại học Bách khoa hiện nay). Từ trái sang phải: Kỹ sư Nông lâm Hoàng Văn Đức, Chủ tịch Hồ Chí Minh, bác sĩ Trần Duy Hưng, bác sĩ Nguyễn Văn Luyện, luật sư Vũ Đình Hòe, nhà giáo Nguyễn Thị Thục Viên.

Bác sĩ Trần Duy Hưng sinh ngày 16-1-1912, là con trưởng trong một gia đình trung lưu và có truyền thống hiếu học. Cha ông là một viên chức quê ở thôn Hòe Thị, nay thuộc xã Xuân Phương, Từ Liêm, Hà Nội, mẹ là con gái họ Phạm, một dòng họ lớn ở làng Ngọc Hà. Sau khi tốt nghiệp Trường Bưởi (nay là Trường Chu Văn An), ông theo học Trường Y khoa Đông Dương. Ngay trong thời kỳ này, ông cùng với Tạ Quang Bửu, Lưu Hữu Phước, Tôn Thất Tùng… là những người sáng lập Hướng đạo sinh ở Việt Nam, một phong trào có uy tín của thanh niên trí thức lúc đó, do Hoàng Đạo Thúy làm thủ lĩnh. Với cây đàn vi-ô-lông và cùng bạn bè, ông đã nhiều lần về các vùng quê đàn hát những bài ca yêu nước.

Sau khi tốt nghiệp, ông và em gái mở phòng khám tại nhà riêng ở số nhà 73 phố Hàng Bông Thợ Nhuộm. Là một bác sĩ đa khoa giỏi, nhưng điều ông được đồng nghiệp và người dân Hà Nội thời đó yêu quý nhiều hơn là ở tấm lòng đức độ của một người thầy thuốc sẵn sàng cưu mang và cứu giúp dân nghèo. Em gái ông, bà Trần Thị Mỹ, lúc đó đã tham gia Việt Minh, nên chính tại cơ sở chữa bệnh này, hai anh em ông đã cứu giúp và chở che cho những cán bộ Việt Minh như Nguyễn Đình Thi, Văn Cao… giữa vòng vây ráp của mật thám Pháp.

Với cương vị là Chủ tịch Ủy ban nhân dân Hà Nội (theo Sắc lệnh ngày 22-11-1945, được đổi thành Ủy ban hành chính) trong những ngày đầu của chính thể Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ông đã tập hợp được đông đảo các tầng lớp quần chúng nhân dân Thủ đô ủng hộ cách mạng, bảo vệ chính quyền non trẻ, “diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm”. Ông được nhắc đến với tác phong giản dị, gần gũi, lắng nghe và giải quyết kịp thời các phản ánh và tâm tư, nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Đêm Giao thừa Bính Tuất năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh và bác sĩ Trần Duy Hưng đã đi thăm các gia đình nghèo ở Hà Nội. Là chủ tịch của một thành phố lớn, nhưng ông tự soạn thảo các công văn, diễn văn, thư từ, điện tín và tự lái ô tô.

Ngày 6-1-1946, nhân dân cả nước đi bầu đại biểu Quốc hội khóa đầu tiên của nước Việt Nam độc lập. Nhân dân Hà Nội đã lựa chọn được 6 đại biểu. Chủ tịch Hồ Chí Minh được số phiếu cao nhất và sau đó là bác sĩ Trần Duy Hưng. Tại cuộc họp Quốc hội thứ nhất vào ngày 2-3-1946 tại Nhà hát Lớn, Hà Nội, ông đã được Quốc hội bầu vào Ban soạn thảo Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Với trọng trách này, bác sĩ Trần Duy Hưng không chỉ chăm lo tới người dân trong nước mà kể cả người Việt Nam ở nước ngoài. Báo Cứu quốc, cơ quan của Tổng bộ Việt Minh số 398, ra ngày 6-11-1946, có tường thuật lại ý kiến của bác sĩ Trần Duy Hưng trong buổi họp Quốc hội góp ý kiến cho bản Hiến pháp 1946: “Công dân Việt Nam ở nước ngoài được Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bảo đảm về quyền lợi” với mục đích “là để nước ngoài nhận cái địa vị của nước Việt Nam và nhận cái chủ quyền của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”.

Chính vì vai trò và sự tận tâm của bác sĩ với Thủ đô nên kẻ thù luôn tìm cách mua chuộc, hãm hại ông, nhằm làm giảm uy tín của chính quyền cách mạng. Nhiều báo những năm đó đã đăng tải vụ kẻ thù tiến hành bắt cóc ông. Báo Dân quốc số ra ngày 21-12-1945 có thuật lại vụ này: “Hồi hơn 12 giờ trưa ngày 19-12-1945, bác sĩ Trần Duy Hưng, Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội, bị một bọn 3 tên mang súng định bắt cóc ở ngay trước cửa nhà ở phố Hàng Bông Thợ Nhuộm. Một trong 3 tên đó mặc giả lính Trung Hoa, hai tên kia mặc âu phục. Trong khi ông Hưng đang quay xe để vào nhà thì nhân lúc không để ý, 3 tên Việt gian đã ngồi chờ sẵn ở một hàng nước trước cửa, nhảy xổ lên ô tô gí súng vào người và bắt ông lái xe đi. Nhưng ông Hưng vẫn giữ được cấp trí, tắt ngay máy đi và bóp còi lên. Kẻ gian thấy bị lộ bèn xô ông Hưng vào một bên giữ chặt lấy ông và định cầm lấy tay lái nhưng không vặn được xe đi. Trong khi ấy, người nhà bác sĩ Hưng biết có sự biến chạy ra và đồng thời anh em tự vệ trong phố cùng đổ đến. Thấy nguy, 3 tên Việt gian bỏ chạy, ông Hưng được tự do, rút súng bắn chỉ thiên, nhưng bọn bắt cóc cứ chạy, 2 tên tẩu thoát được, còn 1 tên đến đầu phố thì bị anh em tự vệ bắt”.

Cũng trong giai đoạn này, thực hiện Thông cáo của Chính phủ “về việc đặt tên đường phố và công viên tại các thành phố và tỉnh lỵ” đáp ứng mong muốn của nhân dân Thủ đô được sống trong một đất nước độc lập, ngày 1-12-1945, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội Trần Duy Hưng đã ký tờ trình về việc đặt tên phố và công viên Hà Nội. Nguyên tắc đặt tên phố là: Giữ nguyên tên cũ của Hà Nội 36 phố phường; đường phố Hà Nội mang tên các “anh quân, danh tướng, văn gia, chiến công, các nhà cách mạng cũ và mới”; các danh nhân ngoại quốc có liên lạc với Việt Nam; các tên phố và vườn hoa trong từng khu vực có liên lạc với nhau; các vĩ nhân danh tiếng nhất đặt phố to nhất, và được chia ra từng khu vực có liên quan đến nhau. Ví dụ: Khu độc lập có vườn hoa Độc lập (nay là quảng trường Ba Đình) và các phố Dân chủ Cộng hòa (nay là Điện Biên Phủ), Tự Do (nay là Bà Huyện Thanh Quan), Hạnh phúc (nay là Tôn Thất Đạm), Dân Quyền (nay là Hoàng Văn Thụ), Hùng Vương (nay vẫn giữ tên cũ); Khu Quốc Tử Giám có các phố như Chu Văn An, Ngô Sĩ Liên…; Khu trường đại học có các phố Lê Thánh Tôn, Trạng Trình, Hàn Thuyên…; Khu quanh thành cổ có tên các phố Phan Đình Phùng, Tôn Thất Thuyết, Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu…; Khu bờ sông tên phố là tên các chiến công và các tướng đã đánh các trận Bạch Đằng, Tây Kết, Vạn Kiếp, Vân Đồn, Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật, Nguyễn Khoái… Khu hồ Hoàn Kiếm có Vườn hoa Chí Linh, các phố Lê Thái Tổ, Nguyễn Trãi, Lê Lai, Lê Thạch…; Khu giải phóng có phố Gia Phong, Đô Lương, Thái Nguyên, Tân Trào. Ngoài ra có mấy khu không liên lạc với tên phố nhưng để nhắc lại cảnh đau đớn của ách nô lệ: Cổ Am, Nghĩa Lộ… Theo nguyên tắc trên, tên một số phố thời kỳ bác sĩ Trần Văn Lai (Đốc lý Hà Nội thời chính phủ Trần Trọng Kim) đã cho đổi tên vẫn được giữ.

Tháng 2-1947, sau hai tháng chiến đấu anh dũng chống quân Pháp, Chính quyền Hà Nội rút lên Việt Bắc. Quân Pháp tạm chiếm Hà Nội. Tại chiến khu, bác sĩ Trần Duy Hưng được cử giữ chức Thứ trưởng Bộ Nội vụ (năm 1947), Thứ trưởng Bộ Y tế (năm 1954). Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, ngày 10-10-1954 bác sĩ Trần Duy Hưng, lúc này là Phó chủ tịch Ủy ban Quân chính Hà Nội, đã cùng đoàn quân chiến thắng vào tiếp quản Thủ đô. Sau đó ông trở lại với chức danh Chủ tịch Ủy ban Hành chính, rồi Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội. Năm 1977, ông xin nghỉ hưu. Ông mất ngày 2-10-1988 tại Hà Nội.

Thiếu tướng Vương Thừa Vũ và bác sĩ Trần Duy Hưng (trái) cùng bộ đội tiếp quản Thủ đô trong buổi lễ chào cờ tại sân Cột Cờ Hà Nội. Ảnh: Phan Xuân Thúy

Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã có nhận xét về ông: “Một con người của nhân dân, vì nhân dân; là một trí thức để lại tấm gương sáng cho các thế hệ trí thức cả hôm nay và mai sau học tập, noi theo”.

Để ghi nhận công lao của ông, năm 2005, Nhà nước đã truy tặng ông Huân chương Hồ Chí Minh. Tháng 1-1999, một con đường đẹp của Thủ đô mới được mở trong thời kỳ đổi mới mang tên ông: phố Trần Duy Hưng. Các đường phố quanh đó mang tên những người đã từng lãnh đạo Hà Nội như Nguyễn Ngọc Vũ, Lê Văn Lương, Nguyễn Khang, Khuất Duy Tiến. Và mới đây, chuẩn bị cho đại lễ 1000 năm Thăng Long, tại cuộc họp chiều 14-7-2010 của Hội đồng nhân dân Thành phố Hà Nội, các đại biểu đã nhất trí đặt tên đoạn đường nối dài từ phố Trần Duy Hưng đến Hòa Lạc là Đại lộ Thăng Long.

Ngô Thế Long
qdnd.vn