Giương cao ngọn cờ tự do, dân chủ của chủ nghĩa xã hội bác bỏ đa nguyên, đa đảng tư sản

(ĐCSVN) – Trong diễn văn đọc tại buổi lễ nhậm chức tổng thống nhiệm kỳ hai, Tổng thống Mỹ G.Bu-sơ đã giương ngọn cờ tự do, công bố ý định xuất khẩu tự do kiểu Mỹ ra toàn thế giới: “Sự tồn tại của tự do trên mảnh đất của chúng ta ngày càng phụ thuộc vào sự thành công của tự do trên những mảnh đất khác”. Nhân danh tự do, ông ta tuyên bố mục tiêu cuối cùng của Mỹ là chấm dứt mọi chế độ chuyên chế trên thế giới: “Chính sách của Mỹ là tìm cách ủng hộ các phong trào và thể chế dân chủ ở mọi quốc gia và mọi nền văn hoá, với mục tiêu cuối cùng là chấm dứt chế độ chuyên chế trong thế giới này”.

Trong quan niệm của ông Bu-sơ và ê kíp của ông ta thì cái mũ “chế độ chuyên chế” là khá rộng; nó có thể úp vào bất cứ quốc gia nào không hợp khẩu vị của chủ nghĩa bá quyền Mỹ. Người ta tự hỏi rằng, sau lần điều chỉnh chiến lược toàn cầu, tuyên bố tập trung vào chống chủ nghĩa khủng bố quốc tế, phải chăng đây lại là một lần điều chỉnh mở rộng hơn nữa diện các kẻ thù của Mỹ? Cùng với chủ nghĩa đơn phương, quyền “đánh đòn phủ đầu”, sự phân chia một cách áp đặt “chế độ chuyên chế”, “chế độ tự do” và quyền trừng trị các “chế độ chuyên chế”, chính sách đối ngoại của nước Mỹ ngày càng phiêu lưu và nguy hiểm hơn, đẩy thế giới vào một trạng thái càng bất an hơn trước. Đương nhiên, khi mở rộng diện các chế độ chuyên chế, đế quốc Mỹ vẫn không bao giờ quên các nhà nước xã hội chủ nghĩa mà Mỹ gọi là “chế độ độc tài toàn trị”. Không những chủ nghĩa đế quốc không quên mà rút cục vẫn sẽ đặt các nhà nước xã hội chủ nghĩa lên hàng đầu trong các chế độ chuyên chế cần phải “giải phóng”. Phải chăng sau một thời gian choáng váng vì thắng lợi khi Liên Xô và hệ thống XHCN sụp đổ, bản năng giai cấp của chủ nghĩa đế quốc đã hồi phục lại và nó hiểu rằng, cuộc đấu tranh ý thức hệ giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội chưa phải đã kết thúc.

Được lời bảo đảm của ông chủ ở bên kia đại dương là “tìm cách ủng hộ các phong trào và thể chế dân chủ ở mọi quốc gia và mọi nền văn hoá”; trong các cách ủng hộ không chỉ có ủng hộ về tinh thần mà cả về tài chính và về vật chất, về mưu kế thâm hiểm, các thế lực thù địch trong nước (kể cả bọn người Việt thù địch lưu vong ở nước ngoài) sẽ càng mở những đợt tiến công mới chống Đảng Cộng sản Việt Nam, chống chế độ một Đảng Cộng sản độc quyền lãnh đạo chính quyền, đưa ra yêu sách đòi đa nguyên đa đảng. Có những người đòi Đảng rút lui, nhường chính quyền cho đảng khác thích hợp hơn với công cuộc xây dựng đất nước. Bây giờ người ta kín võ hơn, đưa ra yêu sách tuy có mềm hơn nhưng về thực chất vẫn là gạt bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đối với bọn thù địch về chính trị trong nước, tôi muốn dùng chữ thù địch thay cho chữ cơ hội về chính trị, chúng muốn khuyên Đảng ta nên từ bỏ cương lĩnh xã hội chủ nghĩa, chuyển thành đảng xã hội – dân chủ mà chúng nói là phù hợp với trào lưu chính trị hiện đại của thế giới. Đảng đó sẽ cùng tồn tại với các đảng chính trị khác và cùng tranh cử. Nếu thắng cử thì cầm quyền, nếu thất cử thì trở thành đảng đối lập với chính quyền đóng vai trò phê phán. Thế là nước ta sẽ trở thành nước dân chủ thực sự như ở phương Tây, sẽ không còn độc tài chuyên chế, sẽ được phương Tây ủng hộ nhiều, sẽ xây dựng đất nước nhanh hơn !

Ta sẽ phân tích ảo tưởng này ở bên dưới, nhưng trước hết ta hãy phân tích những vấn đề dân chủ và tự do đi từ những vấn đề nguyên tắc, làm rõ bản chất của vấn đề, chứ không thể chỉ dừng lại ở các biểu hiện bên ngoài. Hiện nay, việc phê phán dân chủ tư sản ở nước ta đang còn dừng lại ở những mặt cụ thể nào đó; thường là cái gì kẻ thù lên án ta về dân chủ nhân quyền thì ta mới phản bác lại. Cần phải trở lại truyền thống giáo dục một cách cơ bản, sâu sắc và những vấn đề về dân chủ tư sản và dân chủ XHCN cho cán bộ, đảng viên và nhân dân ta hiểu rõ bản chất.

Trước hết, chúng ta hãy nói đến các khái niệm “tự do” và “chuyên chế” của ông Bu-sơ. Ông ta coi tự do dân chủ là những giá trị cao quý và vĩnh hằng của phương Tây mà Mỹ là đại diện, coi những chế độ chính trị không theo khuôn mẫu đó của phương Tây là chế độ chuyên chế cần phải bị đánh đổ. Giương như ông Bu-sơ đã có một bổ sung mới cho “học thuyết” của mình trong nhiệm kỳ thứ hai của ông. Bằng tuyên bố như vậy, ông tổng thống đang phát động một cuộc thánh chiến hiện đại, một cuộc thánh chiến chính trị mà nước Mỹ muốn đóng vai trò hiệp sĩ của tự do.

Thế nhưng, nếu chúng ta lật ngược vấn đề, hỏi rằng có phải tự do dân chủ là một giá trị độc quyền chỉ phương Tây mới có và liệu trên thế giới có còn những quan niệm khác, không giống với phương Tây về tự do dân chủ hay không; rằng chế độ tự do dân chủ của phương Tây xét đến cùng liệu có phải vẫn là một chế độ chuyên chế không hơn không kém hay không ? Trả lời các vấn đề trên đây, chúng ta sẽ phải về với Mác, với Lê nin. Nhưng chúng ta không trở về một cách giản đơn mà phải từ những vấn đề lý luận Mác-Lênin về dân chủ và tự do, vận dụng khái quát vào những điều kiện mới của đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc trên thế giới và ở nước ta hiện nay.

Trong quyền lực chính trị, không có tự do tuyệt đối cũng như không có chuyên chế tuyệt đối. Là người theo chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh bao giờ cũng trung thành với lý luận về bản chất giai cấp của nhà nước. Hồ Chí Minh viết: “Chế độ nào cũng có chuyên chính. Vấn đề là ai chuyên chính với ai ? Dưới chế độ phong kiến, tư sản, chuyên chính là số ít người chuyên chính với đại đa số nhân dân. Dưới chế độ dân chủ nhân dân, chuyên chính là đại đa số nhân dân chuyên chính với thiểu số phản động chống lại lợi ích của nhân dân, chống lại chế độ dân chủ của nhân dân”1.

Dưới chế độ tư bản, dù là tư bản hiện đại mà tự do dân chủ được phô trương ầm ỹ như là những giá trị vĩnh hằng của con người, thì trong thực chất vẫn là một nền tự do hạn chế, thậm chí hạn chế nhất bởi vì đó là một nền tự do của một số càng ít người hơn nữa, một nền tự do của tầng lớp đại tư sản. Một nền tự do như vậy, tất yếu cũng phải là một nền chuyên chế, một nền chuyên chế của số ít người đối với càng đông đảo người hơn nữa. Ở trong mỗi nước mà đại tư sản thống trị, ách chuyên chế không chỉ đè lên giai cấp công nhân, nhân dân lao động chân tay và trí óc, mà cả lên toàn bộ xã hội công dân tư sản. Cùng với việc chủ nghĩa tư bản trở thành chủ nghĩa tư bản toàn cầu hoá, sự chuyên chế tư sản cũng đè nặng lên các quốc gia kém phát triển dưới hình thức này hay hình thức khác, mức độ này hay mức độ khác.

Trong việc phê phán các nhà nước xã hội chủ nghĩa, các nhà tư tưởng tư sản thường quảng cáo cho quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, dường như ở các nước tư bản, ai cũng có quyền phát biểu chính kiến về chính trị, muốn nói gì thì nói, phê phán tuốt mo cho đến tận tổng thống… Có đúng vậy không ? Cần phải trả lời câu hỏi này một cách thật khách quan.

Trong lịch sử, sự chuyên chế tư sản có cứng, có mềm. Nhà nước tư sản kết hợp một cách nhuần nhuyễn cái gậy và củ cà rốt không chỉ trong lãnh vực đối ngoại mà cả trong lãnh vực đối nội. Trong khi ở lãnh vực đối ngoại, những lời lẽ và hành vi hiếu chiến “đánh đòn phủ đầu để ra oai với thiên hạ có vẻ được sử dụng nhiều hơn, thì trong lĩnh vực đối nội, giai cấp tư sản thời hiện đại hết sức chú trọng đến chính sách củ cà rốt, thực hiện sự “chuyên chế mềm”, sử dụng biện pháp rắn chỉ khi thật cần thiết, cốt tạo ra một sự ổn định chính trị trong lòng chế độ của chúng. Nhìn lại cả thế kỷ XX, chúng ta thấy, giai cấp tư sản đế quốc đã nhiều lần sử dụng nhiều biện pháp cực rắn để trấn áp giai cấp công nhân, nhân dân lao động trong nước và các dân tộc bị áp bức, dìm các phong trào cách mạng trong bể máu: chế độ phát xít, các đạo luật chống cộng sản và công nhân, chủ nghĩa thực dân kể cả cũ và mới … Nhưng nửa sau thế kỷ XX trở đi, cùng với việc chủ nghĩa tư bản trở thành chủ nghĩa tư bản toàn cầu hoá với những thành tựu về kinh tế và khoa học, công nghệ, giai cấp tư sản thực hiện ách chuyên chế của mình thiên về dùng các biện pháp tinh vi, che dấu, chuyên chế trong thực chất nhưng lại biểu hiện ra như là bình đẳng và tự do. Giống như con chim bị buộc dây vào chân nhưng sợi dây khá dài đủ để chim vẫn không cảm thấy bị trói chân. Ách chuyên chế mềm nhưng lại cũng rất chặt đó nói lên chỗ còn mạnh tương đối của chủ nghĩa tư bản hiện đại. Trong nửa sau của thế kỷ XX, cùng với những tiến bộ về phát triển kinh tế, một sự giải tha hoá nào đó trong lao động, một sự nới lỏng nào đó trong sự phân phối phúc lợi cho người lao động; những biện pháp chuyên chế che dấu của giai cấp tư sản đã tỏ ra có lợi cho sự thống trị của tư sản, cho phép nó đưa ra những học thuyết lừa bịp về “xã hội phúc lợi chung”, về “chủ nghĩa tư bản nhân dân hoá”…

Đúng là trong nền dân chủ tư sản, có một sự “tự do ngôn luận” nào đó rất đặc trưng cho chế độ tư bản. Sự tồn tại của các tầng lớp, phe phái tư sản với những lợi ích khác nhau tạo ra các đảng tư sản đối lập nhau. Các đảng này đua tranh nhau trong thị trường chính trị, tự quảng cáo tâng bốc mình và phê phán công kích đảng có xu hướng khác mình. Điều đó xẩy ra thường nhật nhưng cao trào là vào các dịp tranh cử. Vào những dịp đó người ta tìm mọi cách hạ bệ nhau kể cả thủ đoạn bới lông tìm vết trong đời tư, tạo ra những vụ bê bối chính trị gắn với bê bối cá nhân. Đó là sự cạnh tranh chính trị trong nền dân chủ tư sản. Nhân dân có thể thu được một số lợi ích nào đấy do các đảng tư sản thắng thế phải mị dân, phải thực hiện một mức độ nhất định các lời hứa khi tranh cử nhưng về cơ bản nhân dân vẫn là những người thụ động, đứng ngoài lề cuộc đấu tranh giữa các phái tư sản nhiều hơn là tham gia chính trị với tư cách người trong cuộc.

Trong nền dân chủ và pháp quyền tư sản, người dân có nhiều chỗ để nói lên ý kiến của mình nhất là về những vấn đề đụng đến quyền lợi của mình, nhiều cửa để mà kiện cáo. Thế nhưng, có những vấn đề mà giai cấp tư sản không cho phép ai phát biểu tự do. Những vấn đề đụng chạm đến chế độ sở hữu tư nhân và tự do kinh doanh là những vấn đề không thể bị đụng chạm. Quyền sở hữu tư nhân vẫn là thiêng liêng và bất khả xâm phạm. Ngày nay, có thể nhà nước tư sản không giam cầm, bỏ tù những người có tư tưởng chính trị khác với đường lối của nhà nước nhưng nó lại có nhiều phương tiện và biện pháp để làm cho các tư tưởng đó không thể xuất hiện được hoặc nếu xuất hiện thì sẽ rơi vào một sự “im lặng hiện đại” đáng sợ hơn sự im lặng cổ điển. Trước đây, khi tư tưởng của Mác xuất hiện trên văn đàn chính trị, giai cấp tư sản lúc đó đã dùng sách lược phớt lờ, không bình luận. Ngày nay với những phương tiện báo chí và truyền thông hiện đại, với một đội ngũ những người làm truyền thông đông đảo và có tài, các tập đoàn đế quốc truyền thông đã nhào nặn dư luận xã hội theo ý muốn của giai cấp tư sản, chỉ cho nhân dân nghĩ theo hướng này mà không thể nghĩ theo hướng khác. Trong nền ngôn luận tư sản vẫn có ngôn luận của cánh tả, trong đó có Đảng Cộng sản, đại diện một phần cho ý chí chân chính của nhân dân nhưng do nhiều lý do, trong đó có khó khăn về tài chính, báo chí của Đảng Cộng sản chỉ với số lượng nhỏ nhoi, hạn chế trên thị trường tư tưởng, thực tế là bị bóp nghẹt trước sức nặng của báo chí tư sản. Về thực chất đó cũng là sự im lặng, một sự bịt mồm bịt miệng hiện đại. Giai cấp tư sản không chỉ thực hiện áp chế về tư tưởng, một sự “tẩy não” tinh vi kiểu tư sản mà còn có những biện pháp khác, những biện pháp đã có tính quá độ, kết hợp tính mềm và tính rắn trong thực hiện chuyên chế tư sản. Đối với những người vẫn kiên quyết bầy tỏ lập trường chống chế độ tư bản, giai cấp tư sản dùng sức ép về lợi ích vật chất, về công ăn việc làm, về điều kiện hành nghề để trấn áp, răn đe buộc người ta phải thay đổi lập trường hoặc im lặng không dám phát biểu. Những tay sai của giai cấp tư sản dùng cả biện pháp buộc tội những người có ý kiến chống lại chế độ tư bản là những người có tư tưởng không bình thường cần phải được đưa vào nhà thương điên để chữa trị. Trong chế độ tư bản, các bệnh viện tâm thần là nhà tù trá hình của những con người trung thực, là chốn đầy ải mới mà ở đó người không điên cũng sẽ trở thành điên.

Giai cấp tư sản vỗ ngực tự cho mình là đại diện duy nhất của những giá trị tự do trên hành tinh này. Đó là một thái độ biệt phái hết sức chủ quan. Họ quên mất rằng còn những giá trị tự do khác, những giá trị tự do của một hệ tư tưởng khác, hệ tư tưởng của giai cấp công nhân là chủ nghĩa Mác-Lênin.

Cho đến nay, thực tiễn đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc trên vũ đài thế giới cũng như nước ta chứng tỏ rằng, giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức phải xây dựng lý luận về tự do kiểu mới của mình, phải giương cao ngọn cờ tự do để thu hẹp và đánh bại từng bước những ảnh hưởng của ngọn cờ tự do tư sản.

Trước đây, khi đấu tranh với ngọn cờ tự do tư sản, phê phán tính chất lừa bịp và giả dối của nó, các nhà kinh điển Mác và Lê nin đã đưa ra quan điểm của giai cấp công nhân đối lập với quan điểm tư sản về tự do: “Tự do là tất yếu được nhận thức”. Đó đúng là một quan điểm đúng đắn về tự do nẩy sinh từ hệ tư tưởng của giai cấp công nhân, cái hệ tư tưởng muốn tìm cơ sở khoa học cho mọi hành động cách mạng của mình, muốn tìm đến cùng bản chất của mọi sự vật và hiện tượng, tính tất yếu của quy luật khách quan trong các sự vật và hiện tượng đó. Ngày nay, nghĩ lại, chúng ta có thể mạnh dạn nghĩ rằng, quan niệm đó về tự do đúng nhưng không đủ, cần phải được bổ sung. Quan niệm đó nhiều tính chất nhận thức luận triết học và có phần còn trừu tượng trong cuộc đấu tranh với chủ nghĩa tự do tư sản. Cuộc đấu tranh chính trị thực tiễn dường như đòi hỏi chúng ta phải đưa những quan điểm về tự do gắn với những phạm trù dân quyền và nhân quyền hơn. Có thể là trong tư duy của các nhà kinh điển dường như cuộc cách mạng cộng sản đang đến gần, tuy có chia ra hai giai đoạn của chủ nghĩa cộng sản nhưng với sự phát triển của Châu Âu thì bước tiến của loài người lên chế độ mới không còn xa. Trong lý luận của các ông về CNXH, vấn đề nhà nước tiêu vong đã được đặt ra, được giải thích về bản chất của sự tiêu vong. Thực tiễn sau này chứng tỏ rằng, để đi lên chế độ xã hội mới cần phải có một thời đại quá độ trên toàn thế giới, trong thời kỳ quá độ đó, đấu tranh giữa hai lý luận và thực tiễn nhà nước tư sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa trên vấn đề tự do chính trị còn diễn ra gay gắt vô cùng.

Tư tưởng Hồ Chí Minh nẩy sinh từ cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam gắn liền với cách mạng thế giới đã có một sự khái quát mới về cuộc đấu tranh cho quyền tự do của con người, gần với cuộc đấu tranh cho dân quyền và nhân quyền hơn. Đó là cuộc đấu tranh cho sự giải phóng con người khỏi mọi ách áp bức bóc lột; trước hết là ách áp bức bóc lột dân tộc của ngoại bang, sau đó là ách áp bức bóc lột của chế độ người bóc lột người và cuối cùng là giải phóng con người khỏi mọi sự áp bức của xã hội và cả thiên nhiên, mọi thiên kiến lạc hậu và ngu muội có từ hàng ngàn đời. Đầu tiên là phải tập trung giải phóng dân tộc theo khẩu hiệu “Không gì quý hơn độc lập tự do”, nhưng không độc lập tự do suông mà phải đấu tranh cho ấm no hạnh phúc của nhân dân đông đảo, phải kết hợp ba sự nghiệp giải phóng làm một: giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Ba sự nghiệp đó sau khi đất nước giành được độc lập phải được tiến hành đồng thời ngay một lúc và kết hợp chặt chẽ với nhau. Con đường đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng là con đường xây dựng nhà nước và nền dân chủ kiểu mới đối lập với nền dân chủ tư sản. Tư duy về sự nghiệp ba giải phóng có thể là cơ sở lý luận để xây dựng lý luận về tự do của chủ nghĩa Mác-lênin, làm cho chủ nghĩa Mác-Lênin có thể giành lấy quyền chủ động trong việc giương cao chủ nghĩa nhân văn mới, thoát khỏi tình trạng bị động đối phó trước các đòn công kích của quan điểm tự do tư sản.

Như vậy là còn có một ngọn cờ tự do khác với ngọn cờ tự do tư sản và những người cộng sản cũng là những chiến sĩ đấu tranh cho tự do, một nền tự do đối lập với nền tự do mà giai cấp tư sản quan niệm. Đó là một nền tự do kiểu mới và để có tự do, những người cộng sản phải giành lấy chính quyền, phải xây dựng một nhà nước kiểu mới đồng thời cũng là một nền dân chủ kiểu mới. Đó là nhà nước và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhà nước và nền dân chủ của số đông, nền dân chủ của đông đảo nhân dân dưới sự lãnh đạo tuyệt đối của một mình Đảng Cộng sản; một nhà nước và nền dân chủ như là một công cụ chính trị quan trọng có thể nói là quan trọng nhất để giai cấp công nhân và nhân dân lao động xây dựng xã hội mới.

Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là sự phủ định dân chủ tư sản nhưng không phải là một sự phủ định hư vô chủ nghĩa. Nền dân chủ XHCN đánh giá cao những thành tựu của dân chủ tư sản, coi đó không chỉ là những thành tựu tiến bộ của giai cấp tư sản mà còn là của nhân dân, của loài người; do đó khẳng định sự cần thiết học hỏi, tiếp thu, kế thừa những thành tựu tiến bộ của nền dân chủ tư sản. Thế nhưng không bao giờ để cho sự tiếp thu và kế thừa đó làm thay đổi bản chất giai cấp nhà nước và dân chủ của mình, không bao giờ tự diễn biến thành dân chủ tư sản, không bao giờ chấp nhận yêu sách của giai cấp tư sản đòi nhà nước xã hội chủ nghĩa phải thực hiện đa nguyên đa đảng đối lập.

Những người cộng sản đấu tranh giành và giữ chính quyền, hoạt động chính trị trên tinh thần trung thực, không dối trá, vì mục đích của họ là chính nghĩa, trong sáng. Có thể đấu tranh chính trị cần sự khôn khéo nên những người cộng sản cũng phải biết cái gì có thể công khai hoá, cái gì phải giữ kín, có lúc phải biết ngụy trang, che dấu ý định thật của mình nhưng không bao giờ che dấu lý tưởng chiến đấu của mình, không bao giờ che dấu bản chất giai cấp nền dân chủ của mình như giai cấp tư sản đã làm. Nền tự do kiểu mới của số đông đồng thời phải là sự chuyên chính của số đông đối với số ít là những thế lực thù địch với nhân dân như Bác Hồ đã dạy. Trong hoàn cảnh lịch sử Việt Nam nơi mà yếu tố giai cấp và yếu tố dân tộc gắn bó hữu cơ với nhau trong mọi giai đoạn cách mạng, nơi mà chuyên chính của giai cấp công nhân cũng đồng thời là chuyên chính của nhân dân, của khối đại đoàn kết toàn dân thì những người cộng sản Việt Nam chẳng có lý do gì để mà che dấu bản chất giai cấp nền dân chủ của mình; thừa nhận một cách công khai rằng, nền tự do ấy cũng là một sự chuyên chính, chuyên chính với các thế lực thù địch với nhân dân, với mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Không như giai cấp tư sản che đậy chế độ chuyên chế của nó bằng những luận điệu về những giá trị tự do vĩnh hằng, giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam công khai thừa nhận nền chuyên chính của mình. Cho đến nền dân chủ XHCN cũng sẽ không có tự do cho mọi người, có tự do cho đa số người nhưng vẫn có sự hạn chế tự do đối với một số ít người. Trong tương lai, khi mà người ta đã có thể nói đến và thực hiện tự do cho mọi người thì nội dung của khái niệm tự do đã thay đổi, từ một khái niệm chính trị – xã hội nẩy sinh từ cuộc đấu tranh giai cấp và dân tộc đã trở thành một khái niệm triết học, nói lên mối quan hệ giữa con người với thế giới quanh mình.

Việc chúng ta trung thực thừa nhận nền dân chủ xã hội chủ nghĩa của chúng ta vẫn có bản chất giai cấp xác định, vẫn là sự thống trị giai cấp nhất định, tuy là sự thống trị của tuyệt đại đa số đối với số ít nhưng vẫn là một sự thống trị giai cấp, cho phép chúng ta bảo vệ một cách đàng hoàng có căn cứ khoa học nhất một số biện pháp mà giai cấp tư sản thường phê phán chế độ XHCN chúng ta là không dân chủ. Cần phải nói lên một sự thật là cái mới khi mới ra đời thường là yếu ớt so với cái cũ. Chủ nghĩa xã hội và nền dân chủ XHCN cũng vậy, là những cái mới. Không tính đến những sai lầm chủ quan chết người thì chế độ đó bên cạnh tính ưu việt cũng đã có nhiều điểm yếu rồi. Do đó, trong những thời gian đầu, chế độ buộc phải có những biện pháp mạnh để bảo vệ nhà nước còn non trẻ có thể ra đời và phát triển thuận lợi. Trong tương lai không xa, khi so sánh lực lượng giữa CNXH và CNTB đã thay đổi, nhất là trên mặt trận chính trị, khi tư tưởng xã hội chủ nghĩa đã là tư tưởng ăn sâu vào đông đảo các tầng lớp nhân dân thì lúc đó nền dân chủ mới sẽ có thể nơi lỏng các biện pháp cấm đoán, phòng ngừa và trấn áp.

Đó là bài học mà chúng ta học được từ chính các điều chỉnh giữa rắn và mềm của chuyên chính tư sản trong thế kỷ trước.

Với một quan điểm phương pháp luận như vậy, chúng ta sẽ bàn đến yêu sách đa nguyên, đa đảng. Các thế lực thù địch với độc lập dân tộc và CNXH đòi hỏi chúng ta phải xoá bỏ chế độ một Đảng Cộng sản lãnh đạo, đòi thực hiện chế độ đa nguyên đa đảng cạnh tranh nhau về chính trị theo hình mẫu của chế độ đa nguyên phương Tây. Có vẻ như các nhà lý luận của nền dân chủ tư sản chủ quan kiêu ngạo, muốn rao giảng cho toàn thế giới về tự do, coi mô hình dân chủ phương Tây là mô hình duy nhất của tự do, lấy đó làm hệ quy chiếu để xét mọi nhà nước trên thế giới, coi các nhà nước không giống như vậy, đặc biệt coi nhà nước XHCN do giai cấp công nhân lãnh đạo là chế độ chuyên chế. Thế nhưng trong thâm tâm, các thế lực đó hiểu rất rõ rằng, con đường đa nguyên, đa đảng là con đường nhanh và gọn nhất để lật đổ chính quyền của Đảng Cộng sản, của nhân dân lao động. Đó là con đường thực hiện bạo lực phản cách mạng phi vũ trang? Ở các nước dân chủ phương Tây, việc thực hiện đa nguyên đa đảng, đảng này thay thế cho đảng kia cầm quyền thì việc đó trong ý thức của giai cấp tư sản không bao giờ được coi là sự mất chính quyền của giai cấp tư sản.

Trái lại, ở các nước XHCN, yêu sách đòi đa nguyên đa đảng thường gắn với những cuộc biểu tình đường phố của một bộ phận quần chúng tạm thời lầm lạc bị bọn thù địch xúi dục, gắn với sự trợ giúp của giai cấp tư sản thế giới về tinh thần và cả vật chất tài chính như là một sự xuất khẩu phản cách mạng. Dưới sức ép của tình thế phản cách mạng, Đảng Cộng sản không còn ở vị trí lãnh đạo nữa và bị một đảng khác, một lực lượng chính trị khác thay thế.

Việc đó ngay lập tức được cả địch và ta hiểu rằng, đó là sự mất chính quyền của Đảng Cộng sản, là sự khởi đầu của việc chuyển đổi chế độ XHCN sang chế độ tư bản dù cho các thế lực thù địch vẫn lừa bịp, trấn an dư luận, coi việc thay đổi chính trị đó vẫn là một phong trào cách mạng của nhân dân tìm con đường dân chủ chống chế độ độc tài cộng sản. Một diễn biến như vậy tất yếu dẫn đến sự phản kháng của các lực lượng chân chính bảo vệ cách mạng, nội chiến giai cấp dưới mức độ này hay mức độ khác tất yếu diễn ra. Sự phản kháng nếu không diễn ra, hoặc diễn ra không đáng kể thì chỉ chứng tỏ sự yếu ớt của Đảng Cộng sản và quần chúng nhân dân. Sau khi lật đổ được Đảng Cộng sản, nhà nước sẽ tư sản hoá, trở thành công cụ chính trị để huỷ bỏ những thành tựu của chủ nghĩa xã hội và chuyển đổi xã hội thành xã hội tư bản. Vì hiểu thực chất của đa nguyên đa đảng như vậy cho nên thái độ Đảng và nhân dân ta là kiên quyết bác bỏ đa nguyên đa đảng, chủ động tấn công mọi mưu đồ đa nguyên đa đảng từ lúc mới nhen nhóm.

Như vậy, cùng những biện pháp đa nguyên đa đảng nhưng trong chế độ này thì chúng củng cố chế độ còn trong chế độ khác thì chúng lại đóng vai trò phá huỷ chế độ như một chất a xít cực mạnh. Chỉ có thể cắt nghĩa điều đó bằng việc phân tích sự khác nhau về bản chất giữa hai nền dân chủ. Đó là hai nền dân chủ có bản chất giai cấp đối lập nhau, phản ánh những quan hệ kinh tế và chính trị – giai cấp không giống nhau nên phương thức và cơ chế vận hành nền dân chủ không thể giống nhau. Chúng ta bác bỏ đa nguyên đa đảng nhưng chúng ta cần phải tìm tòi một phương thức và cơ chế dân chủ đặc trưng cho dân chủ XHCN và hữu hiệu hơn dân chủ tư sản. Việc phê phán, bác bỏ phải đi cùng với việc xây dựng và chừng nào chúng ta xây dựng được trên thực tế nền dân chủ XHCN thì chúng ta mới đánh bại được yêu sách đa nguyên đa đảng.

Theo một ý nghĩa nào đấy thì đa nguyên đa đảng là một hiện tượng tất yếu của nền dân chủ tư sản. Giai cấp tư sản bao giờ cũng có nhiều tầng lớp, phe phái có lợi ích khác nhau. Tuy cùng dựa trên sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa nhưng với tính chất cạnh tranh tư bản chủ nghĩa vì mục tiêu lợi nhuận hết sức khốc liệt, ít nhiều cũng mang tính chất đối kháng trong nội bộ giai cấp tư sản, cho nên nẩy sinh nhu cầu mỗi tầng lớp, phe phái tư sản cần có đảng chính trị đại diện cho lợi ích của mình.

Sự đa nguyên đa đảng tư sản cũng có nhiều hình thức khác nhau. Ở một số nước đó là chế độ lưỡng đảng; tuy chế độ không cấm bất cứ các đảng nhỏ nào ra tranh cử nhưng trên thực tế chỉ có hai đảng lớn thay nhau giành quyền kiểm soát chính quyền mà thôi. Ở những nước khác như ở châu Âu, số lượng đảng chính trị mà so sánh lực lượng không chênh lệch nhau lắm, tranh cử sẽ có nhiều đối thủ cạnh tranh hơn nhưng rút cục vẫn tồn tại hai xu hướng chính trị lớn đóng vai trò chi phối là các đảng chính trị cánh hữu và cánh tả; do có nhiều đảng hơn hai đảng, xuất hiện những hình thức liên minh chính trị giữa các đảng chính trị cánh hữu và cánh tả.

Với thể chế đa nguyên đa đảng, hoạt động chính trị ở các nước tư bản, nhất là vào dịp tranh cử có vẻ xôm trò và náo nhiệt nhưng thực tế vẫn chỉ là sự náo nhiệt giữa các đảng tư sản với nhau. Dù có sự khác nhau nào đấy trong cương lĩnh của các đảng nhưng các đảng đó vẫn thống nhất trên lập trường cơ bản là bảo vệ chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. Chế độ đa nguyên tư sản vẫn nói lên tính chất hình thức và giả dối của nền dân chủ tư sản. Nó là đa nguyên trên hình thức, ở biểu hiện bề ngoài, còn trong thực chất vẫn là chế độ “nhất nguyên tư sản”, vẫn đảm bảo cho giai cấp tư sản sự thống trị tuyệt đối với nhà nước và xã hội.

Trong nền dân chủ tư sản, chỉ có trên hình thức thể chế đa nguyên cho các đảng tư sản mà không có đa đảng đối lập của các đảng chính trị chống lại giai cấp tư sản. Các đảng xã hội – dân chủ ra tranh cử và đã từng thắng cử trong nhiều nước châu Âu, đã từng lên cầm quyền, tạo ra huyền thoại về “nhà nước phúc lợi chung”. Liệu Đảng Xã hội dân chủ có phải là đảng đối lập chống lại giai cấp tư sản không ? Đúng là các đảng xã hội – dân chủ có cương lĩnh đấu tranh và thực tế có đem lại cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động những lợi ích kinh tế, cải thiện đời sống của họ. Thế nhưng, cương lĩnh chính trị của các đảng đó không bao giờ đụng đến nền tảng kinh tế của chế độ tư bản. Việc cơ chế lưỡng đảng, lưỡng cực trong tranh cử tư sản đóng vai trò như một cái van sú-páp để thay đổi khẩu vị của quần chúng đối với nền dân chủ tư sản. Sau 4 đến 5 năm cầm quyền khi đảng cầm quyền đã làm quần chúng chán ngấy đến tận cổ thì nền dân chủ đó lại đưa ra một bộ mặt chính trị mới, tiếp tục tạo ra những ảo tưởng mới cho quần chúng. Các đảng xã hội dân chủ là con bài cực kỳ hữu hiệu đối với giai cấp tư sản trong việc gây ảo tưởng cho quần chúng lao động. Tự xưng là đảng của giai cấp công nhân nhưng trong thực chất, các đảng xã hội – dân chủ không đại diện cho lợi ích cơ bản của công nhân mà lại đại diện cho lại ích cơ bản của giai cấp tư sản.

Về thực chất, các đảng đó là cánh tả của hàng ngũ các đảng tư sản thì đúng hơn và giai cấp tư sản coi việc các đảng đó thắng cử chẳng đe doạ gì xã hội tư bản, giai cấp tư sản chỉ phải thay đổi sự phân phối lợi nhuận chịu đóng thuế cao để mua lấy một “xã hội phúc lợi chung” mà thôi. Thế rồi chỉ được một thời gian, khi giai cấp tư sản xót của vì phải đóng thuế cao thì đến kỳ tranh cử sau, chính quyền xã hội – dân chủ lại đổ để cho một đảng chính trị tư sản khác lên thay.

Đối với những đảng thực sự đối lập với chế độ tư bản, những đảng cộng sản thực sự có cương lĩnh vượt qua chủ nghĩa tư bản để xây dựng một xã hội mới tốt đẹp hơn, giai cấp tư sản có một đối sách khác để ngăn cản sự thắng cử của các đảng đó. Về mặt pháp lý, trừ những thời gian có những hoạt động cấm các đảng cộng sản ra còn thông lệ hiện nay là các đảng cộng sản vẫn có quyền tranh cử ngay cả tranh cử bầu tổng thống. Thế nhưng trên thực tế, trong so sánh lực lượng hiện nay, không có khả năng cho Đảng Cộng sản lên nắm chính quyền bởi vì giai cấp tư sản không muốn thế và nó đã bao vây thu hẹp được thế lực của Đảng Cộng sản, cho phép các đảng đó có thể có một số ghế trong nghị viện để tô vẽ cho nền dân chủ đa nguyên đa đảng nhưng bao giờ cũng là một thế lực nhỏ nhoi chẳng có thể ảnh hưởng đến đường hướng cơ bản của nền dân chủ tư sản. Để bao vây các thế lực thực sự đối lập, giai cấp tư sản dùng nhiều biện pháp từ đấu tranh chính trị, tư tưởng, văn hoá đến cả những biện pháp kinh tế và tài chính để chống cộng sản. Để hoạt động tranh cử cần phải có tiền. Trong khi các đảng tư sản lớn được các tập đoàn tư bản hùng mạnh tài trợ hậu hĩnh thì những người cộng sản chỉ có thể gây quỹ tranh cử bằng tiền đóng góp của những người lao động vốn không sẵn tiền.

Như vậy là nền dân chủ tư sản không phải thực sự là đa nguyên đa đảng mà là một nền dân chủ nhất nguyên tư sản, không có đa đảng đối lập. Cho nên với yêu cầu các nhà nước XHCN phải thực hiện đa nguyên đa đảng như trong chế độ tư bản thì giai cấp tư sản lại lừa bịp một lần nữa nhân dân các nước XHCN. Họ yêu cầu các nước XHCN làm những việc mà chính giai cấp của họ không làm. Vậy thì đúng lẽ đời hơn là tại sao giai cấp công nhân và nhân dân lao động không được quyền thực hiện sự nhất nguyên xã hội chủ nghĩa như giai cấp tư sản đã làm nhất nguyên tư sản. Chỉ có điều giai cấp công nhân và nhân dân lao động thực hiện sự nhất nguyên một cách công khai đàng hoàng chứ không cần che đậy như giai cấp tư sản.

Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa không cần thể chế đa nguyên đa đảng, không cần chế độ nhiều đảng, nhất là không có đảng tư sản đối lập. Điều đó đã được pháp chế hoá, được ghi vào Hiến pháp của các nước XHCN. Đó là bởi vì trong buổi bình minh của chế độ XHCN, nền chuyên chính của giai cấp công nhân và nhân dân lao động còn phải dùng các biện pháp rắn để bảo vệ cho chế độ mới ra đời thuận lợi. Trong một thời gian còn dài, không cho đảng chính trị tư sản được phép tồn tại đóng vai trò phá hoại nền chuyên chính đó ? Về thực chất, giai cấp tư sản cũng đã làm như vậy trong việc củng cố nhà nước tư sản. Khi nó còn yếu, nó cũng đưa vào pháp chế những đạo luật chống cộng, đàn áp cộng sản, không cho phép Đảng Cộng sản tồn tại. Chỉ đến khi chúng mạnh lên đồng thời cũng do đấu tranh của những người bị áp bức thì chúng mới chuyển sang thực hiện chuyên chính mềm. Đó chính là lý lẽ cơ bản để bác bỏ yêu sách đa nguyên đa đảng.

Nền dân chủ XHCN Việt Nam không cần đa nguyên đa đảng nhưng sẽ được xây dựng mạnh mẽ hơn dân chủ tư sản, sẽ có một phương thức và cơ chế dân chủ khác làm cho nhân dân thực sự làm chủ theo tư tưởng Hồ Chí Minh; làm cho nền dân chủ diễn ra trong thực chất, chứ không phải diễn ra một cách hình thức, làm cho nền dân chủ diễn ra phổ biến mọi lúc mọi nơi, không chỉ trên phạm vi vĩ mô cả nước mà cả trong từng địa phương, từng cơ sở, bằng cách kết hợp thể chế dân chủ đại diện với dân chủ trực tiếp nhất là dân chủ trực tiếp ở cơ sở.

Lâu nay, khi đưa ra lý lẽ bảo vệ cho việc bác bỏ đa nguyên đa đảng, chúng ta thường nói rằng, giai cấp công nhân là một giai cấp thống nhất, không có lợi ích phe phái nên không cần nhiều đảng đại diện cho mình như giai cấp tư sản. Thực tiễn xây dựng nền dân chủ ở nước ta chứng tỏ rằng, nhận định đó có mặt hợp lý nhưng không đầy đủ, rằng giai cấp công nhân nếu cộng cả khối nhân dân đông đảo thì cũng chia thành những cộng đồng phân biệt theo nghề nghiệp, giới tính, theo địa phương… Tuy có lợi ích cơ bản chung là độc lập dân tộc và CNXH nhưng các cộng đồng trong nhân dân ta cũng có những nhu cầu và lợi ích khác nhau, có khi đối lập nhau và cần một sự đấu tranh để bảo vệ quyền lợi của mình. Tuy nhiên, tất cả các sự khác nhau đó không có tính chất đối kháng và xã hội ta không đòi hỏi phải tổ chức ra các đảng chính trị theo từng cộng đồng để làm rối loạn sự ổn định chính trị trong xã hội. Không cần nhiều đảng mà chỉ cần một Đảng Cộng sản là đủ vì đảng đó đã đại diện cho những lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân và nhân dân. Nhân dân ta không cần đến nhiều đảng nhưng rất cần nhiều diễn đàn tranh luận. Điều đó sẽ được thoả mãn bằng các hội đoàn thể chính trị – xã hội và xã hội – nghề nghiệp, bằng tổ chức Mặt trận Tổ quốc, các diễn đàn của sự hiệp thương và giải quyết sự khác nhau về lợi ích trong phạm vi nội bộ nhân dân.

Với một cơ cấu kinh tế nhiều thành phần và một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì sẽ tất yếu nẩy sinh và phát triển cộng đồng những nhà doanh nghiệp tư nhân tư bản chủ nghĩa. Có thể người ta còn tranh luận xem đó có phải là một giai cấp không, nhưng là một cộng đồng có những lợi ích riêng thì là điều hiển nhiên rồi. Có thể tạm gọi đó là những tầng lớp tư sản ! Các tầng lớp đó có cần đảng chính trị của mình để đối lập với Đảng Cộng sản không ! Các tầng lớp đó không cần đảng chính trị riêng của mình bởi vì Đảng Cộng sản Việt Nam cũng đại diện cho các lợi ích và nguyện vọng cơ bản của họ, họ cũng sẽ đấu tranh dưới ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH trong đội ngũ khối đại đoàn kết toàn dân mà không cần một ngọn cờ chính trị khác. Họ có thể có diễn dàn riêng hoặc diễn đàn của Mặt trận Tổ quốc để hiệp thương, thảo luận các yêu cầu lợi ích của mình trong trật tự của nền dân chủ XHCN.

Vậy là giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam, kể cả các tầng lớp tư sản trong thời kỳ đổi mới không cần đến đa nguyên đa đảng. Vậy thì ai là người Việt Nam cần đến đa nguyên đa đảng ? Chỉ còn một dúm người thù địch với con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Đảng ta và nhân dân ta là yêu sách một cách tự giác Đảng Cộng sản Việt Nam phải xã hội dân chủ hoá và thực hiện đa nguyên đa đảng, mong lật đổ Đảng Cộng sản để giành lấy chính quyền bằng bất cứ giá nào để kiếm lợi. Hy vọng rằng, trước mắt nhân dân Việt Nam, chúng chẳng thể là các chiến sĩ của tự do như phương Tây tâng bốc mà chỉ là phái phản động, tay sai của của chủ nghĩa đế quốc mà thôi.

Tuy nhiên, tư tưởng dân chủ tư sản với mô hình đa nguyên đa đảng không phải là không có ảnh hưởng trong một bộ phận cán bộ, đảng viên chúng ta. Tư tưởng đó đã thâm nhập vào môi trường chính trị của chúng ta.

Có người nói ra và có người không nói ra nhưng một số người có một ý nghĩ mơ mơ màng màng là nếu chúng ta đi theo mô hình của phương Tây, chúng ta sẽ được phương Tây giúp đỡ nhiều hơn, sẽ làm cho đất nước phát triển nhanh hơn khi còn cứ bám lấy ngọn cờ xã hội chủ nghĩa.

Theo tư tưởng phương Tây, chấp nhận đa nguyên, đa đảng, đó là một ảo tưởng cực kỳ sai lầm! Nền dân chủ của chúng ta hiện nay còn có những khuyết tật cần phải được khắc phục một cách cơ bản, những khuyết tật nhiều khi còn do những tàn dư của quá khứ vẫn còn đè nặng lên chúng ta. Thế nhưng, chúng ta sẽ sửa chữa các khuyết tật đó, hoàn thiện nền dân chủ mới của chúng ta bằng con đường XHCN, theo hệ tư tưởng của giai cấp công nhân chứ không phải chuyển sang nền dân chủ tư sản. Nếu xẩy ra việc thực hiện đa nguyên đa đảng, Đảng Cộng sản mất chính quyền thì không phải là một xã hội phát triển ổn định kiểu phương Tây sẽ ra đời ở nước ta mà sẽ xuất hiện một xã hội của chủ nghĩa tư bản hoang dã. Trong quá trình chuyển đổi sang chủ nghĩa tư bản, theo kinh nghiệm của các nước XHCN mà giai cấp công nhân và nhân dân lao động đã mất chính quyền thì chủ nghĩa tư bản hoang dã cơ bản là đóng vai trò phá hoại các lực lượng sản xuất mà chế độ XHCN đã tạo nên. Bọn ăn cướp của công theo đúng nghĩa của từ này, bọn lưu manh chính trị sẽ làm tan hoang nền kinh tế, diễn ra một sự bần cùng hoá mới đối với nhân dân. Cũng có thể là sau một thời kỳ hỗn độn, tình hình ổn định lại dần dần trên cơ sở một kết cấu kinh tế và giai cấp kiểu tư bản chủ nghĩa. Có thể xuất hiện phái chính trị tư sản muốn giương cao ngọn cờ dân tộc. Sự xuất hiện đó không làm hài lòng phương Tây, nhất là chủ nghĩa bá quyền Mỹ và chúng lập tức đánh chặn ngay con đường phát triển độc lập của chủ nghĩa tư bản bản xứ như diễn biến tình hình ở Gru-zia và U-crai-na đã chứng tỏ.

Vậy thì ngày nay, chúng ta đang đi con đường XHCN quang minh chính đại, con đường chắc chắn và nhanh nhất đưa đất nước đến phồn vinh, đem lại ấm no hạnh phúc cho nhân dân, đất nước đang ổn định và phát triển thì tại sao chúng ta lại dại dột, nghe những lại dụ dỗ của các thế lực phản động về chính trị, từ bỏ con đường đó để đi vào một con đường bế tắc, đầy chông gai, chẳng hứa hẹn điều gì tốt đẹp cho đất nước, cho dân tộc./.

GS.Trần Xuân Trường
cpv.org.vn