Cột cờ Hà Nội 200 tuổi

QĐND – Năm 1802 Nguyễn Ánh lên ngôi vua, lấy hiệu là Gia Long, lập vương triều Nguyễn, định đô tại Huế. Cũng bắt đầu từ đó, Gia Long hoạch định xây dựng Kinh thành Huế và các đô thị theo kiểu thành Vô-băng của Pháp.

Ở Việt Nam, kiểu thành này xuất hiện đầu tiên ở Gia Định năm 1790, tiếp đó ở Huế, Thăng Long, Sơn Tây, Nam Định, Bắc Ninh, Thanh Hóa, Vinh, Đồng Hới, Quảng Trị v.v.. Trong cấu trúc thành Vô-băng ở nước ta thường có một điểm nhấn kiến trúc quan trọng là Kỳ đài (Cột cờ). Kỳ đài Huế được xây dựng năm 1807 với chiều cao tổng thể là 54,96m, Kỳ đài Nam Định được xây dựng trong 31 năm, từ 1812 đến 1843 cao 23,84m, Kỳ đài Sơn Tây được xây dựng năm 1822… Kỳ đài Thăng Long (lúc này mang nghĩa mới là Hưng Thịnh, năm 1831, dưới thời Minh Mạng mới đổi ra Hà Nội) được xây dựng cùng với thành Vô-băng năm 1805 trên vị trí Hoàng thành xưa. Trong Đại Nam nhất thống chí có đoạn viết về Hoàng thành Hà Nội như sau: “Các cửa thành đều bắc cầu đá qua hào. Mặt trước chính giữa xây Kỳ đài. Bốn phía trên mặt thành xây 24 pháo đài”. Kỳ đài Thăng Long là điểm nhấn kiến trúc nằm trên trục Bắc-Nam, do kiến trúc sư Đặng Công Chất đốc công xây dựng theo thiết kế đã được Gia Long phê từ năm 1805 đến năm 1812 mới hoàn thành.

Cột cờ Hà Nội. Ảnh: TRUNG NGUYÊN

Kỳ đài Thăng Long (từ đây xin gọi là Cột cờ Hà Nội) gồm 3 tầng đế và một thân cột. Các tầng đế hình chóp cụt, nhỏ dần, chồng lên nhau, xung quanh ốp gạch. Tầng 1, mỗi chiều dài 42,5m, cao 3,1m, có 2 cầu thang gạch dẫn lên. Tầng 2, mỗi chiều 27m, cao 3,7m, có 4 cửa. Cửa hướng Đông, trên có đắp hai chữ “Nghênh húc” (đón ánh nắng ban mai); cửa Tây với hai chữ “Hồi quang” (ánh nắng phản chiếu); cửa Nam với hai chữ “Hướng minh” (hướng về ánh sáng); cửa Bắc không đắp chữ. Tầng 3, mỗi chiều 12,8m, cao 5,1m. Trên tầng 3 là thân cột cờ hình trụ 8 cạnh thon dần lên trên. Trong thân trụ cột cờ có cầu thang xoắn ốc với 54 bậc lên tận đỉnh. Để có ánh sáng và thông thoáng, mỗi mặt trên thân cột cờ người ta tạo ra 4-5 hình hoa thị được xếp so le trên mỗi mặt (tổng cộng có 36 hình). Ở vị trí cao nhất, mỗi mặt có một ô hình dẻ quạt. Đỉnh cột cờ được cấu tạo thành một lầu hình bát giác, cao 3,3m, có 8 cửa tương ứng với 8 mặt. Giữa lầu là một trụ tròn, đường kính 0,4m, cao tới đỉnh lầu, là chỗ để cắm cán cờ (8m). Toàn bộ cột cờ cao 33,4m, nếu kể cả trụ treo cờ thì cao 41,4m.

Trong dân gian truyền tụng:
Kỳ đài năm thước vút trời cao
Thông đạt trong tâm có đường vào
Trong sáng muôn nơi dồn cả lại
Trung tâm thiên hạ đẹp biết bao!

Các Cột cờ ở các địa phương không thể vượt độ cao của Cột cờ kinh đô Huế. Dẫu vậy, Gia Long tạo điểm nhấn kiến trúc Cột cờ trong thành-pháo đài trên các tỉnh thành, đặc biệt khu vực Bắc thành (từ Hà-Nam-Ninh trở lên biên giới Việt-Trung) muốn khẳng định uy quyền của mình trên vùng đất dân chúng còn nặng tình với nhà Lê.

Trong những năm 1894-1897, người Pháp đã tiến hành phá hầu hết thành Hà Nội để xây dựng Thủ phủ Đông Dương theo kiến trúc phương Tây. Một vài công trình kiến trúc Hà Nội đã thoát khỏi sự ứng xử thô bạo của người Pháp, trong đó có cửa Bắc, Đoan Môn và Cột cờ. Một bức ảnh xưa nhất do Louis Sadoul chụp năm 1890 còn lại cho ta thấy khu vực vườn hoa tượng đài Lê-nin dưới chân Cột cờ còn là hồ Voi (nơi tắm cho voi) và quân Pháp đang xây dựng doanh trại và Cột cờ Hà Nội được dùng làm đài quan sát.

Cột cờ Hà Nội nằm trên đại lộ Puy-gi-ni-ê, nhưng dân gian thường gọi là đường Cột Cờ. Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, ta đã chính thức hóa tên gọi thân quen này. Vì thế, nhà thơ Xuân Diệu có câu thơ nhắn nhủ với những người bạn xa gần của mình rằng:

Nhà tôi hai bốn Cột Cờ,
Ai thân thì ghé, ai sơ thì đừng

Cột cờ Hà Nội sừng sững, hiên ngang, kiêu hãnh vươn lên trời xanh, chứng kiến bao kỳ tích của đất nước, của thủ đô Hà Nội kiêu sa. Sau cuộc chiến đấu cầm chân địch suốt 60 ngày đêm cho cuộc rút lui chiến lược của Chính phủ kháng chiến Hồ Chí Minh lên Việt Bắc, Trung đoàn Thủ Đô tạm biệt Hà Nội, ra đi “đầu không ngoảnh lại” và hẹn ngày tái ngộ trên mảnh đất hùng thiêng này.

Ngày 10-10-1954, đoàn quân chiến thắng theo năm cửa ô, trong rừng cờ hoa của người Hà Nội, vào tiếp quản Thủ đô. Chiều hôm đó, cả Hà Nội đổ về khu vực Cột cờ chứng kiến giây phút lịch sử: Lễ thượng cờ Tổ quốc trên đỉnh Cột cờ Hà Nội.

Đúng 15 giờ, sau hồi còi dài từ Nhà hát Lớn thành phố, đoàn quân nhạc cử Quốc thiều theo sự điều khiển của nhạc trưởng Đinh Ngọc Liên, lá cờ Tổ quốc từ từ kéo lên theo nhịp quân hành. Lá cờ đỏ sao vàng tung bay trên đỉnh Cột cờ Hà Nội. Từ đó trở đi, lá cờ Tổ quốc vẫn hiên ngang tung bay giữa trời đất, trong bão tố mưa sa và cả trong lửa đạn quân thù.

Ngày 7-5-1964, nhân kỷ niệm 10 năm chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, vào lúc 17 giờ 30 phút, thành phố Hà Nội tổ chức trọng thể lễ gắn biển, đổi tên đường Cột Cờ thành đường Điện Biên Phủ. Từ năm 1986, trong bầu không khí đổi mới, được sự chỉ đạo của cấp trên, lá cờ Tổ quốc cỡ 24m2 luôn tung bay trên Cột cờ (trước đó chỉ treo vào dịp lễ, Tết). Trông giữ lá cờ thiêng liêng này là cán bộ, chiến sĩ Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam. Lá cờ do Xưởng thêu may cờ 67 Hàng Trống sản xuất. Cờ được may bằng loại vải phi bóng sản xuất trong nước. Để chống chọi với gió mạnh trên cao, các đường may phải cần đến 3 lần chỉ, góc cờ được chần hình quả trám. Vì lá cờ có khổ quá lớn nên thợ may khi may xong phần nền đỏ, phải trải ra nền nhà rộng để khoét hình sao trước khi may. Cứ khoảng 2-3 tuần thay một lá cờ. Mỗi năm thay khoảng 20 lá cờ.

Theo cán bộ, chiến sĩ Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam kể lại: Có lần Tổng thống Vê-nê-xu-ê-la, ông Hu-gô Cha-vết đến Hà Nội, khi đi ngang qua Cột cờ đã yêu cầu cho dừng xe và vào thăm. Cán bộ bảo vệ đã hướng dẫn Tổng thống trèo lên đến tận đỉnh Cột cờ để ngắm cảnh thành phố Hà Nội thời mở cửa.

Với sự quan tâm gìn giữ như một báu vật quốc gia, Cột cờ Hà Nội sẽ mãi còn hiên ngang đứng đó để chứng kiến những đổi thay lớn lao của mảnh đất hùng thiêng này, chứng minh cho một chân lý bất di bất dịch: Còn di tích, còn ký ức, còn dân tộc.

PGS.TS Phạm Xanh
qdnd.vn