Mấy vấn đề về cuộc kháng chiến năm 43 do Hai Bà Trưng lãnh đạo
QĐND – Hai Bà Trưng chỉ có một thời gian ngắn để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến này. Sách “Đại Nam quốc sử diễn ca”, qua và bằng ngôn ngữ thi ca, nói gọn một câu “Ba năm gánh vác sơn hà”, để chỉ thời gian làm chủ và lo toan việc nước của Hai Bà, trước khi tiến hành cuộc kháng chiến năm 43. Nhưng trên thực tế, trong ba năm ấy, năm 40 đã là thời gian khởi nghĩa; năm 41 và 42 là thời gian xây dựng đời sống tự chủ tự do, bằng biện pháp duy nhất được sử cũ ghi chép là: Xá thuế 2 năm cho dân. Cũng trên thực tế thì, theo sách “Đại Việt sử ký toàn thư”: Ngay từ năm 41, vua Hán Kiến Vũ đã “hạ lệnh sắp sẵn xe thuyền, sửa sang cầu đường, thông các núi khe, chứa thóc lương, cho Mã Viện làm Phục Ba tướng quân, Phù Lạc hầu Lưu Long làm phó, sang xâm lược rồi”.
Tái hiện hình ảnh Hai Bà Trưng tại Lễ hội làng Hạ Lôi, xã Mê Linh, huyện Mê Linh, Hà Nội. Ảnh: Tuấn Tú
Lực lượng tái xâm lược của Nhà Hán này – khoảng 2 vạn quân, (để đánh vào một đất nước chưa đầy 1 triệu tổng dân số – là nước ta, lúc bấy giờ), huy động từ các quận thuộc miền Hoa Nam: Trường Sa, Quế Dương, Linh Lăng, Thương Ngô, cùng với khoảng 2 nghìn thuyền lớn nhỏ – sang đến năm 42, sau khi tập kết ở Hợp Phố (nam Quảng Đông) đã chia hai đường thủy bộ song song ven biển Bái Tử Long – Hạ Long mà vào cõi, theo lối cửa sông Bạch Đằng, đến Lục Đầu Giang, tiến đánh phong trào Hai Bà Trưng.
Cuộc kháng chiến do Hai Bà lãnh đạo, bùng nổ vào năm 43, với ba loạt trận đánh lớn, do hai nữ vương trực tiếp chỉ huy ở: Tây Vu, Lãng Bạc, Kim Khê; và loạt trận cuối cùng do các thủ lĩnh địa phương của phong trào điều hành ở: Cửu Chân.
+ Tây Vu: Đây là tên một miền đất và bộ lạc lớn, từ thời Hùng Vương – An Dương Vương mà trung tâm, chính là Cổ Loa. (Vào năm 1982, đã đào tìm được ở dưới lòng đất, giữa thành Cổ Loa (Đông Anh – Hà Nội), một chiếc trống đồng thuộc nhóm cổ và đẹp nhất, có khắc chữ, trong đó, đọc được 2 chữ “Tây Vu”. Tòa thành Cổ Loa kỳ vĩ này, vào năm 179 trước Công nguyên – cùng với vũ khí “nỏ thần” – đã giúp An Dương Vương đánh bại (những trận đầu) cuộc xâm lược của Triệu Đà từ Phiên Ngung (Quảng Châu) tới, thì nay – đầu năm 43 – chính là cái đích đầu tiên tiến đánh của quân Hán Mã Viện, trên đường chúng từ Lục Đầu Giang nhằm vào, hướng tới “kinh đô” Mê Linh của Hai Bà. Và, một lần nữa – vào đầu năm 43 – thành Cổ Loa lại giúp Hai Bà Trưng làm nên loạt trận đánh phòng ngự ở Tây Vu thành công thắng giặc, mở màn cuộc kháng chiến oanh liệt.
Không đánh hạ được Cổ Loa, Mã Viện phải cho quân lui về Lãng Bạc.
+ Lãng Bạc: Đây là địa danh Hán ngữ, diễn Nôm văn vẻ một chút, thì thành “Bến Sóng”. Vùng đất và nước này, ở về phía đông Tây Vu. Vì thế, không thể coi Lãng Bạc là Hồ Tây (thuộc quận Tây Hồ – Hà Nội ngày nay) – vốn ở mạn tây của Tây Vu – như một số thuyết xưa đã nói. (Vả chăng, về thời gian đầu Công nguyên, chưa có Hồ Tây. Vốn chính là một khúc uốn của sông Cái (sông Hồng), vùng hồ này chỉ được thành lập, khi bị dòng sông Mẹ “bỏ quên” (ở lại tại chỗ) lúc đổi dòng, vào khoảng các thế kỷ 9-10). Do đó, vùng đất và nước trũng ở giữa huyện Tiên Du (Bắc Ninh) bây giờ, mới đúng là Lãng Bạc thời Hai Bà Trưng.
Mã Viện đã từ Tây Vu (Cổ Loa) lui quân về, đóng ở đây. Bấy giờ là mùa hè năm 43. Khổ vì tiến thoái lưỡng nan và vì thời tiết nóng nực, Mã Viện đã phải thốt lên lời than thở được sách “Hậu Hán thư” ghi lại rằng cũng giống như chính con diều hâu lúc ấy đang bay trên đầu, gặp khí nóng bốc lên ngùn ngụt từ vùng đất lầy lội, đã phải sã cánh mà rơi xuống!
Nhưng chính Hai Bà lại đem lực lượng dân binh mới được tập hợp, đến đánh công kiên cấp tập vào đạo quân viễn chinh nhà nghề của Mã Viện, ở đấy, và vào lúc ấy.
Không mong đợi gì hơn, viên tướng lão luyện của nhà Hán – được tháo cởi bế tắc, phát huy hết sở trường – đã đánh một trận kinh hoàng ở Lãng Bạc, tiêu diệt phần lớn lực lượng của Hai Bà.
Tổn thất nặng nề sau trận Lãng Bạc, Hai Bà Trưng phải rút về cố thủ ở Kim Khê.
+ Kim Khê: Đây là địa danh dịch từ tên Nôm sang Hán ngữ của vùng “Suối Vàng”. Dòng suối này, chảy ra từ ngọn Viên Nam – bộ phận phía Nam của núi Tản Viên (Ba Vì), nay ở giữa các huyện Lương Sơn (Hòa Bình) và Thạch Thất – Quốc Oai (Hà Nội). Cho đến gần đây, nhiều người vẫn tìm đến nơi này, đãi vàng sa khoáng.
Đọc (phát âm) theo tiếng Bắc Kinh, “Kim Khê” trở thành “Chin Xi”. Cũng thành “Chim Xi”, là những từ “Cấm Khê”, “Cẩm Khê”. Vì thế, trong nhiều sách vở, thay vì “Kim Khê”, nhiều tác giả đã viết: “Cấm Khê”, “Cẩm Khê”. Chẳng hạn: “Cấm Khê đến lúc hiểm nghèo/ Chị em thất thế phải liều với sông”. Đó là cách nói về chung cuộc của Hai Bà Trưng, ở sách “Đại Nam quốc sử diễn ca”.
Nhưng trên thực địa, không có thực thể nào, mang tên “Cấm Khê” hoặc “Cẩm Khê” mà lại phù hợp với sự “thất thế” của Hai Bà Trưng vào mùa hè năm 43 cả. Chỉ có “Suối Vàng” – Kim Khê. Và, ở đây, cũng không hề có việc “phải liều với sông” (tự trầm) nào của Hai Bà. Thực tế lịch sử không theo tâm thức (tâm lý) cổ truyền của nhân dân, dân tộc: Muốn Hai Bà phải được chết một cách mát mẻ trong dòng sông quê hương – đã diễn ra thật ác nghiệt: Hung tướng Mã Viện đã dẫn đại binh đuổi theo Hai Bà đến tận nơi cố thủ Kim Khê (Suối Vàng). Và đã giết các nữ vương nước Việt ở đấy. Thậm chí theo sách “Hậu Hán thư” – còn chặt đầu những nữ anh hùng lãnh đạo cuộc kháng chiến năm 43, mang về bêu ở kinh đô Lạc Dương của triều Hán.
Cuộc kháng chiến năm 43 của Hai Bà Trưng – bộ phận tổ thành, và ở giai đoạn cuối của cả phong trào đấu tranh dân tộc vô cùng oanh liệt ở thời gian đầu Công nguyên – đến đây đã bị dìm gần hết vào biển máu. Thủ lĩnh Đô Dương ở địa phương Cửu Chân (Thanh Hóa) – với vị thế tàn dư của phong trào – còn đánh những trận cuối cùng vào mùa đông năm 43 nữa. Và Mã Viện cũng còn ở lại đất Việt một năm nữa – sau mùa đông kéo quân vào Cửu Chân tận diệt cuộc kháng chiến của thủ lĩnh Đô Dương để tiếp tục thi thố những thủ đoạn chiến tranh, đô hộ và đồng hóa – cực kỳ thâm độc và bạo tàn nữa.
Nhưng, dù thế nào thì bản anh hùng ca của những năm đầu Công nguyên đấu tranh anh hùng do Hai Bà Trưng lãnh đạo vẫn bất tuyệt mà vang vọng đất trời. Đây là biểu hiện đầu tiên và là minh chứng đặc biệt của tinh thần và truyền thống dân tộc mà Chủ tịch Hồ Chí Minh là người phát biểu đích xác nhất: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Và, còn nguyên vẹn cả những bài học và kinh nghiệm lịch sử – đắt giá, quý giá – để lại mãi mãi cho đời sau. Nói về thắng lợi vĩ đại của cuộc Cách mạng Tháng Tám và cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đây là ý kiến của Đại tướng Võ Nguyên Giáp (trả lời phỏng vấn của nhà sử học, nhà báo Alan Ruscio): “Cái đó, ở chúng tôi, có gốc rễ từ những sự kiện xưa, vào đầu Công nguyên”.
GS Lê Văn Lan
qdnd.vn