Búp sen xanh – Chương II: Phần 10

THỜI NIÊN THIẾU

10.1

Dấu chân Nguyễn Tất Thành in xuống đất cực Nam Trung Bộ. Dưới ánh nắng thiêu, bóng anh nghiêng nghiêng bên bóng những tháp Chàm trần trụi.

Trên đường đi vào, tình cờ Thành gặp người bạn cũ, Phạm Gia Cần từ Bình Thuận trở về Nghệ An. Thành viết vội thư gửi về quê cho chị Thanh và anh cả Khiêm. Anh kể khá tỉ mỉ những chuyện xảy ra trên dọc đường vào của mình. Anh miêu tả về cuộc sống cô đơn và sự chán chường việc quan của cha. Và Thành tâm sự trong thư “…Em đã nhận một chân dạy học tại trường Dục Thanh ở Phan Thiết. Trường này có các lớp tư, lớp ba, lớp nhì và lớp nhất. Học trò được học ba thứ chữ quốc ngữ, chữ Tây, chữ nho. Các môn sử ký, địa dư, cách trí, toán pháp, toán đố… đều được soạn dạy theo mục đích của trường mở mang tri thức cho học trò, đào luyện họ thành người ích nước, lợi nhà… Em nhận dạy chữ Tây cho lớp nhì, dạy sử ký, địa dư cho lớp nhất. Em được nhận vô dạy trường này là có sự giúp đỡ của ông Hồ Tá Bang, bạn thân của cha. Ông là tổng lý công ty Liên Thành thương quán chuyên sản xuất nước mắm. Công ty này là do các ông Trần Quý Cáp, Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Đặng Nguyên Cẩn… kêu gọi các nhà hằng tâm hằng sản góp vốn kinh doanh để xây đắp cho công cuộc mở mang dân trí, dân sinh. Các cụ Nguyễn Trọng Lội, Nguyễn Quý Anh, Hồ Tá Bang, Nguyễn Hiệt Chi, Trần Lệ Chất, Ngô Văn Nhượng là sáng lập viên Liên Thành. Trường Dục Thanh do công ty Liên Thành thương quán bảo trợ…”. Cuối thư, Thành dặn chị gái và anh trai : ” Trường Dục Thanh là một cung trên con đường em đi… Em sẽ ở lại đây một thời gian để rồi đi tiếp vô Sài Gòn…”.

*****

Cửa biển Phan Thiết hình cánh cung. Ban mai vắng lặng. Những con dã tràng kiên nhẫn xe cát. Sương mù bay lang thang từ xa khơi vào các xóm dân chài. Một vài con thuyền, bè mảng già nua nằm trơ trên bãi cát. Nhìn biển cả, thầy Thành bồi hồi nhớ về kỷ niệm cùng anh Khiêm theo cha mẹ vào kinh đô Huế, lúc lên đỉnh đèo Ngang, lần đầu thấy biển mà tưởng là cái ao. Giờ đây anh đã lớn khôn lại thấy biển mênh mông quá, muốn đi xa, đi tìm chân lý, tìm lẽ sống công bằng, nhưng vượt biển cách nào đây?

Anh bâng khuâng trước cảnh biển trời hùng vĩ. Bỗng tiếng trống trường từ trong phố âm vang, ngân dài theo tiếng sóng. Anh dời gót, bước về phía tiếng trống gọi. Từng dấu chân anh in mịn màng trên cát trắng phau.

Giữa khu vườn rộng có một dãy nhà dài, chia nhiều ngăn, lớp ngói “vảy rồng”. Bốn phía nhà không thưng che. Trước khi dùng làm trường học, đây thường gọi là nhà “thảo bạt”. Trước lối vào “thảo bạt”, một cái cổng cao, vững chãi, trên đó đặt tấm biển dày và dài suốt trên hai trụ đứng, khắc chữ quốc ngữ : Trường Dục Thanh. Hai bên khắc tên trường bằng hai thứ chữ : chữ Hán và chữ Pháp.

Ngay trước trường có một cái ao khá rộng. Cây dừa cổ thụ, cành vươn dài ra giữa ao. Từng chùm rễ trên cành rủ xuống ao như bộ râu dài phủ phê… Gốc cây dừa sù sì ngay cạnh bến đá xây nhiều bậc. Học trò thường xuống ao rửa chân trước lúc vào cổng trường.

Thầy giáo Nguyễn Tất Thành bận bộ dài trắng, cổ đứng, đi guốc gỗ mộc, ôm cặp da bò màu vàng cam, bước khoan thai vào lớp. Cả lớp hóc đón thầy với một không khí ấm cúng, trật tự và lễ phép. Thầy Thành nở một nụ cười tươi, nhìn các em âu yếm, nói :

– Thầy chúc các trò ngoan, học giỏi.

Cả lớp đáp lại :

– Chúng con vâng lời thầy…

Cả lớp hướng mắt về thầy và thầy Thành giọng ấm áp điểm danh. Sau đó thầy viết lên góc bảng đen: Sĩ số : 38. Hiện diện : 38. Khiếm diện : 0. Thầy từ trên bục đi xuống. Đến cạnh em Lê Trung Liệt, thầy ân cần hỏi :

– Bữa nay ở nhà chắc có chuyện chi… Thầy thấy trò không được vui?

– Dạ, thưa thầy, má con bệnh nặng. Đêm qua má con trở bệnh. Con lo má con không qua khỏi ! Mà… ba con lại đang đi trẩy nước mắm, đi xa lắm.

Thầy Thành chớp chớp mắt nhớ về một thời thơ ấu của mình ở thành nội Huế. Giọng thầy buồn buồn :

– Nhà có đủ tiền thuốc thang cho má không?

– Thưa thầy má con bệnh nặng, kéo dài, con nghe mấy anh chị của con biểu : “Hết kiệt vốn liếng trong nhà rồi”. Sáng nay anh trai của con đang đi cầm đồ để có tiền chạy chữa cho má con, thưa thầy…

– Tan học, trò đưa thầy về thăm má của trò. Thầy vừa được lĩnh tiền giảng phí. (Em Liệt xúc động bật lên tiếng khóc). Trò đừng buồn phiền – Thầy Thành an ủi – Thầy đã từng nhận được tình thương của nhiều người chia sẻ. Thầy được chia sẻ với em chút tình ngày hôm nay là sự nhớ ơn của thầy đối với những người đã. chia sẻ với thầy lúc tối lửa tắt đèn.

Thầy Thành đưa mắt nhìn khắp lớp :

– Sau buổi học, có trò nào muốn đến thăm mẹ của trò Liệt không?

Cả lớp đồng thanh :

– Thưa thầy, có ạ.

Thầy Thành lên bục, vẻ mặt vẫn còn phảng phất buồn. Thầy nói :

– Hôm nay chúng ta học bài sử ký : Hùng Vương dựng nước, đời Hồng Bàng. – Thầy cầm viên phấn viết lên bảng đen đầu đề bài lịch sử. Nét chữ của thầy thanh như dáng người thầy. – Hồng Bàng là thời kỳ mở đầu của mười tám đời vua Hùng. Công lớn nhất của các vua Hùng là dựng nước.

Các em lắng cả tâm trí theo dòng ánh sáng của thầy giáo Thành đang truyền bá. Giọng thầy giảng bài ấm và âm vang : “truyện tích “Con Rồng cháu Tiên” là sự thể hiện niềm tự hào về giống nòi người Việt Nam của tổ tiên ta”.

Trong khi giảng bài, thầy thường hỏi :

– Thầy nói tiếng Nghệ, chưa sửa hết được thổ âm, thổ ngữ, các trò nghe có được rõ không?

– Thưa thầy rõ ạ.

– Các trò có hiểu được những điều thầy giảng không?

– Chúng con hiểu được ạ.

Một em học sinh lớn tuổi nhất lớp đứng lên xin phép :

– Thưa thầy con xin thầy được phép hỏi ạ.

– Trò mạnh dạn hỏi vậy là tốt.

– Thưa thầy, tích Lạc Long Quân lấy nàng Âu Cơ đẻ một bọc trứng, nở ra trăm con, một nửa theo cha xuống bể, một nửa theo mẹ lên ngàn, chuyện hoang đường ấy có nghĩa chi, thưa thầy?

Thầy Thành xuống bực, đi qua đi lại trước lớp, mắt mơ màng, giọng tha thiết :

– Các truyền thuyết thường tưởng tượng hoang đường vì nó bắt nguồn từ trong đời sống xã hội con người thời còn hoang sơ, những truyện nào cũng đều có ý nghĩa giáo dục. Cái bọc ấy chỉnh là lòng mẹ. Chung một lòng mẹ, nghĩa là cùng một nòi giống. Vì vậy mà dân ta có hai tiếng nghe rất thiêng liêng, đó là – thầy Thành viết chữ hoa – Đồng Bào. Có nghĩa là cùng bọc, cùng một dòng máu.

Thầy Thành lại hỏi :

– Các trò rõ chưa?

– Dạ, rõ rồi ạ.

– Còn sự tích một nửa số người đi lên ngàn, một nửa số người đi xuống bể, nó nói lên người Việt mình đã trải bao mưa nắng, người đi phương này, kẻ đi nơi kia để khai phá, mở mang bờ cõi, dựng xây đất nước. Nước Việt Nam ta được như ngày nay ta đừng quên công !ao của bao đời đã đổ mồ hôi và máu. Người ta thường nói : “Tình Tổ quốc, nghĩa đồng bào” là từ gốc tích ấy. – Giọng thầy đọc trầm bổng thiết tha :

Sông sâu nước chảy nặng dòng.
Lòng ta có khác chi lòng mình đâu.
Dầu Nam, dầu Bắc mặc dầu,
Cùng chung Tổ quốc, cùng sầu Nước Non.

Cả lớp nhất không một em nào động tay, động chân, lắng hồn đón nhận từng lời thầy như đêm dày được ánh sáng soi vào.

Cuối bài, thầy dặn :

-Các trò ạ! Chữ là mắt. Người không có chữ coi như bị mù vậy. Hồi còn nhỏ, thầy thường được nghe cha, mẹ, ông bà ngoại của thầy nói về cái chữ tối hệ trọng đến vậy. Mà nó hệ trọng thật. Không có chữ, con người ta bé nhỏ trước tất cả dưới gầm trời này, và người không có chữ sẽ mãi mãi là vật sai khiến, vật hy sinh của bọn thống trị. Cho nên, các trò được ngồi học là phải tự hỏi mình : Học chữ để nên người, giúp dân cứu nước hay để được vinh thân phì gia?

Trống ra chơi điểm từng tiếng. Bóng nắng xao động theo chân của đám học trò chạy nhảy tung tăng trên sân trường.

Nắng trưa trải dài trên con đường xanh xa.

Thầy giáo Nguyễn Tất Thành từ nhà em Lê Trung Liệt đi ra phố. Đám học trò theo thầy tới thăm mẹ bạn Liệt đã tản về các ngả đường. Thầy Thành đi về phía bờ sông Cà Ty gần gần chợ. Một tiếng đàn bầu của người hát rong cất lên ai oán. Thầy Thành khựng lại. Không định dừng lại nghe đàn nhưng thấy cái thau đựng tiền của người hát rong chưa có một đồng nào, thầy Thành lần trong túi lấy ít tiền còn lại biếu người hát rong. Thấy ông giáo trẻ cho tiền người hát rong, mấy người luống tuổi đang đứng nghe và cả người đi ngang qua lần lượt bỏ vào thau những đồng tiền kẽm, đồng hào trắng… Nhìn vào thau đã có cái ăn cầm hơi cho người mù hát rong, thầy Thành cảm thấy lòng mình âm ấm và bước đi nhẹ gót chân hơn. Nhưng dòng suy nghĩ của thầy trĩu nặng về hình ảnh ông Xẩm ở quê nhà. Và những năm tháng lớn lên, thầy nghiệm thấy điều ông Xẩm nói càng có lý : “Mắt mù không đáng sợ bằng mắt sáng mà tim mù”. Bởi lẽ, người ta bị mù mắt thì khổ trăm đường, ai cũng có thể ăn hiếp được. Nhưng kẻ mắt sáng mà tim mù thì sẽ đem lại những tai họa ghê gớm cho bao người và ở trên đời này, cái bọn mắt sáng mà tim mù đâu có ít?

10.2

Lại một mùa hè nữa đến với thầy giáo Nguyễn Tất Thành Nước da của thầy đã nhuốm nắng miền cực Nam Trung Bộ.

Một buổi trưa. Thầy giáo Thành ngồi đọc sách. Tiếng chim ngoài vườn xanh um tùm vọng vào. Lòng bồn chồn, ngồi không yên, thầy cầm trên tay cuốn sách, dạo bước quanh “Ngoạ du sào” (83). Nhìn qua bên kia vườn cụ Nguyễn Thông, thầy thấy một em bé đang trèo khế hái trộm quả, một em đứng dưới “canh gác”. Thầy chau mày, mỉm cười : Trò Tây và trò Phùng rồi. Hai trò to đầu này chẳng chịu ngủ trưa, lẻn đi hái trộm khế. Bà ấm Lội biết được thì rầy to!

Thầy Thành gập cuốn sách lại, khoan thai đi sang vườn khế. Từ Trường Phùng thấy thầy giáo Thành vội vàng đưa ngón tay lên miệng định “báo động” cho Nguyễn Thành Tây đang ở trên cây, nhưng thầy Thành đã khoát tay ngăn lại. Phùng đứng khép nép vào gốc cây, sợ hãi. Thầy Thành đến gần, nói nhỏ nhẹ :

– Bạn Thành Tây của trò đang ở trên cao, trò đừng làm vậy mà bạn ấy hốt hoảng nhảy đại xuống lỡ gãy chân gãy tay, rõ chứ trò?

– Dà… ạ. Từ Trường Phùng đã hết sợ hãi vì thầy Thành không mắng một lời nào. Thầy còn dặn : “Ráng đợi cho trò Tây xuống đất rồi hãy đến”.

Nguyễn Thành Tây từ trên cành cao bước xuống với hai túi áo đựng khế đầy căng. Vừa đặt chân xuống đất, trò Tây đã thấy thầy giáo Thành đi tới, chân em đứng không vững, mặt tái mét, mắt nhắm chờ mấy cái bợp tai của thầy. Song, một tiếng nói ấm áp :

– Trò ngồi xuống chỗ có bóng mát kẻo mỏi chân.

Nguyễn Thành Tây thở phào nhẹ nhõm, hai mắt em mở to, nhìn thầy giáo Thành e ấp một niềm cảm kích, biết ơn.

Thầy Thành ngồi giữa hai người học trò bên gốc cây khế. Thầy ôn tồn hỏi :

– Trò Phùng hay trò Tây bày ra chuyện đi lấy trộm khế?

-Dạ thưa thầy, con ạ.

– Dạ, thưa thầy cả con nữa ạ.

– Thầy biết việc này là cả hai trò rồi, nhưng thầy muốn hỏi rõ trò nào đã nêu ra trước?

– Thưa thầy con ạ. Chính con đã rủ bạn Phùng ạ.

Thầy Thành đặt tay lên vai Nguyễn Thành Tây, nét cười thoáng trên môi, thầy nhìn tập sách cuộn tròn cặp trong nách Tây hỏi thân mật :

– Trò có cuốn sách chi đó mà lại cuộn tổ sâu vô nách vậy?

Tây lấy cuốn sách từ nách ra, hơi luống cuống.

Phùng nhìn Tây nháy mắt, cười. Tây nói :

– Thưa thầy sách thơ Lục Vân Tiên ạ.

– Trò đã đọc được tới đâu rồi?

– Thưa thầy con vừa mới đọc được ít thôi ạ.

– Đọc đến dòng nào chỉ thầy coi.

– Đây ạ. “Trai thì trung hiếu làm đầu”.

– Trò có hiểu nội dung câu thơ này không?

– Con hiểu được phần nào ạ.

– Trò nói cho thầy và bạn Phùng nghe điều trò hiểu đi nào.

– Dạ. “Trung hiếu làm đầu” có nghĩa là trung thành với vua, hiếu thảo với cha mẹ.

Thầy Thành quay hỏi Phùng :

– Trò thấy bạn Tây giải thích vậy đã đúng chưa?

– Thưa thầy, con cũng hiểu như bạn Tây ạ.

– Các trò hiểu chữ trung, chữ hiếu như vậy là đúng, nhưng còn cạn, còn hẹp. Ta phải hiểu rộng hơn. Ấy là lòng trung thành với Tổ quốc, lòng hiếu thảo với cha mẹ, với đồng bào… Bởi vì mỗi người chứng ta sống trong một rường mối liên quan từ trong gia đình ra tới họ hàng, làng nước. Các trò phải ôn lại bài học “vua Hùng dựng nước” mà thầy đã giảng ở lớp. – Thầy Thành nhìn vào hai túi áo Nguyễn Thành Tây đựng đầy khế.

– Hai trò rủ nhau đi lấy trộm khế là phạm lỗi gì?

Cả hai em mặt đỏ bừng, đáp :

– Chúng con lấy trộm của người khác là không hiếu thảo với đồng bào ạ.

– Biết việc làm sai, phạm lỗi thì nên xử trí thế nào?

-Thưa thầy từ nay chúng con không bao giờ làm như vậy nữa ạ.

– Phạm lỗi, dám nhận lỗi và sửa chữa lỗi lầm là một nhân cách, là biết đạo làm người. Giờ thì thầy đưa hai trò đến nhận lỗi gia đình thầy ấm Lội. Mặc dầu không một ai trong nhà thầy ấm Lội biết việc này, nhưng ta có lỗi lương tâm ta thúc giục ta sửa lỗi.

Nguyễn Thành Tây bưng một mũ khế, cả ba thầy trò đi dưới vườn cây mát rượi tiếng ve sầu. Thấy hai cậu học trò mặt buồn xỉu, thầy Thành động viên :

– Các trò có thích chơi ve sầu không?

– Chúng con thích ve sầu lắm, thầy ạ.

– Các trò thấy ở ve sầu có tính gì đặc biệt nào?

Nguyễn Thành Tây giọng nghịch ngợm :

– Thưa thầy giống ve sầu chống đối việc bắt nó bằng cách đái một bãi vào tay ạ.

Cả ba thầy trò cười thoải mái. Từ Trường Phùng nhận xét :

– Thưa thầy, ve sầu có đặc tính kêu dai suốt cả mùa hè ạ.

Thầy Thành tươi cười :

– Các trò có con mắt quan sát, tốt lắm. Riêng thầy thấy giống ve sầu còn có một tính riêng biệt, rất là thú vị đó là tính hay “xấu hổ”, cứ úp mặt vào thân cây mà than vãn cả mùa hè .

Tiếng cười khúc khích của ba thầy trò Nguyễn Tất Thành hòa vào âm thanh ve sầu bồng bềnh theo gió xanh sắc biển xa…

10.3

Cơn mưa đầu mùa đến miền cực Nam bất chợt, ngắn ngủi. Đất khát. Nước mưa ít như nước đái ve sầu, chẳng thấm tháp gì.

Các thầy giáo và học trò trường Dục Thanh phải gò lưng khiêng nước ao tưới cho hàng cây trồng quanh sân, vườn trường. Các ông Nguyễn Trọng Lội, Nguyễn Quý Anh, Hồ Tá Bang, Nguyễn Hiệt Chi, Trần Lệ Chất, Ngô Văn Nhượng, sáu vị sáng lập công ty Liên Thành và “Hội đồng bảo trợ” trường Dục Thanh đến thăm một buổi “lao động chấn hưng trường ốc”. Cả sáu ông đều ngạc nhiên : thầy giáo Nguyễn Tất Thành, con trai quan Phó bảng Nguyễn Sinh Huy, mà gánh nước đi dẻo như người gánh cá tươi chạy chợ trưa vậy. Những cô gái con các nhà có chân trong công ty Liên Thành cùng “nhìn trộm” thầy giáo Thành gánh nước tưới cây. Bà Hồ Tá Bang với con mắt người mẹ hằng kén rể thì nhìn thầy Thành “người mảnh khảnh, da trắng, môi đỏ như gái cấm cung, ăn không gắp nặng đũa mà gánh gồng chất nặng đầy vai! Lại còn trí khôn trước tuổi”…

Từ ngoài vườn trường về, thầy giáo Thành ngồi nghỉ bên thềm, hai mắt mơ màng dõi theo đàn bồ câu đang bịn rịn trên sân, bóng cây in xuống sân như mảnh gấm hoa đen. Thầy lại bồi hồi nhớ về một buổi sáng tiễn cha từ Huế đi Bình Khê, đàn bồ câu và những bóng cây trên sân lưu luyến theo người… Ông già đầu bếp rón rén đến bên thầy :

– Mời thầy vô nhà xơi cơm ạ.

– Cảm ơn chú Tám.

Thầy Thành ngồi vào bàn ăn. Ông già đầu bếp nhấc chiếc lồng bàn đưa xuống nhà dưới. Trước mặt thầy, chiếc mâm thau bóng loáng, đôi đũa son, cái bát kiểu đặt bên những món ăn thanh đạm : đĩa cá kho, tôm rim mặn với thịt và bát canh rau. Thầy Thành vừa xới cơm vào bát, ông già đầu bếp bước vào :

– Thưa, có người lạ đến tìm thầy ạ.

Hai mắt thầy Thành ánh lên vẻ ngạc nhiên:

– Nhờ chú Tám mời ông vô giùm cho, được chứ chú Tám?

– Hay là thầy… – ông già Tám ngập ngừng nói – thầy cứ việc cơm nước đàng hoàng, tôi sẽ mời ông ta vô nhà dưới ngồi đợi ạ.

– Chắc ông ta từ xa đến… để người ta đợi mình lâu, không nỡ, chú Tám ạ.

Một người quần áo vá chằm, làm cái nón che đằng trước đầu gối, rón ra rón rén đi theo ông già Tám. Thầy Thành từ trong nhà bước ra, đon đả hỏi :

– Mời ông vô. Ghế đây, mời ông ngồi tự nhiên.

Ông khách thở phào nhẹ nhõm khi thấy người thầy giáo trẻ măng, con quan mà cư xử với ông niềm nở, quý mến chứ không coi khinh ông rách rưới thất thểu đi kiếm ăn. ông ngồi xuống mép ghế. Thầy Thành hỏi :

– Ông từ đâu đến và có việc chi cần gặp tôi ạ?

– Bẩm cậu ấm…

– Xin ông đừng bẩm, – thầy Thành nói – ông cứ nói bình thường. Tôi chỉ bằng tuổi em út của ông thôi.

– Thưa cậu ấm, con từ ngoài huyện Bình Khê vô đây. Có thư của quan huyện gửi đến cậu ấm đây ạ.

Thầy giáo Thành đỡ phong thư, nhác thấy hai bàn tay ông khách quặt quẹo, nhưng không tiện hỏi, môi hơi mím lại kìm sự xúc động. Thầy nói :

– Ông từ xa đến đây, gặp bữa, xin mời ông cùng xơi cơm với tôi.

– Dạ, bẩm cậu ấm, cậu nhân đức quá!

Thầy Thành đi xuống nhà dưới, lúc trở lên có cả ông già Tám mang lên theo đũa bát, mấy món ăn thêm. Ông khách vẫn còn sợ sệt, con mắt đói khát nhưng không dám gắp mạnh dạn. Thầy Thành vừa gắp lên bát cho khách vừa phân trần :

– Ông cứ ăn tự nhiên. Ăn nhiều thức ăn. Ở Phan Thiết đây chẳng thiếu cá tôm đâu. Tôi vốn ăn ít đã thành thói quen rồi. Ông đừng vì tôi ăn ít mà e ngại…

Sau bữa cơm, ông khách ngồi uống nước ở bàn trà. Thầy Thành tựa tràng kỷ xem thư của cha gửi đến. Dáng thầy ngồi đọc thư cha rất kính cẩn, hai nét mày luôn chuyển động và lá thư trăn trở trên.bàn tay. Thầy lại cầm phong thư của cha gửi ông Hồ Tá Bang :”Hàn sĩ Nguyễn Sinh Huy kính thư Hồ Tá Bang tiên sinh”.

Thầy Thành bước đến bàn trà, giọng chân thành :

– Tôi sẽ trao thư của cha tôi tận tay ông Hồ Tá Bang. Tôi cũng sẽ thưa chuyện giúp ông với ông Hồ để ông được vào làm công trong công ty Liên Thành như cha tôi dặn trong thư.

– Bẩm cậu! – Người khách cảm động nói líu cả lưỡi. – Phúc phận cho nhà con rồi! – ông chìa hai bàn tay tật nguyền : – Cậu ấm coi, kiếp làm người của con vầy đây!

– Bàn tay ông sao vậy?

– Bẩm cậu ấm, – ông vẫn quen thưa bẩm – vì con không có tiền nộp thuế. Đám hào lý ở xã con tịch thu bò cày của con. Con chống cự, bị họ bắt giam và họ lấy giẻ tẩm dầu lạc quấn vào hai bàn tay con rồi châm lửa đốt mới nên nông nỗi này.

Thầy giáo Thành hai tay ôm lấy đầu, mắt như có màng mây che tối lại, bàn chân thầy xê dịch trên nền nhà. Tiếng ông khách kể như những giọt nước mắt nhỏ xuống đều đều :

– Bọn hào lý áp giải con lên huyện và vu cho con “tội đào ngạch, khoét vách ăn trộm của nhà giàu, bị người ta bắt và chịu hình phạt tẩm dầu đất đôi bàn tay đạo tặc”. Nhưng, quan tri huyện Nguyễn Sinh Huy đã như một ngọn đèn trời soi tỏ được nỗi oan khốc của con. Quan đã cấp cho con một tờ phóng thích : “vô tội bất can miễn chấp”. Con về nhà được ít lâu thì vợ và hai đứa con đều chết trọi! Con định đi sang làng khác kiếm sống nhưng hào lý không cấp thẻ thuế thân cho con. Con lại đánh đàng lên quan huyện xin được quan che chở. Thiệt là phước bảy đời để lại cho con. Quan lớn không một tí ngần ngại chi, quan viết thư đưa cho con, cho con tiền ăn đường và dặn : “Anh cầm thư này đi vô Phan Thiết. Con trai tôi đang dạy học ở trường Dục Thanh. Anh phải đi thật xa như vậy mới có thể yên thân được. Vì tôi sẽ không còn ngồi ghế tri huyện này nữa mô”. Quan còn nói : “Làm quan theo thời thì mất phúc đức to. Tôi sẽ đi cắt thuốc chữa bệnh giúp dân là phải hơn cả… “

Thầy giáo Thành vuốt lại mái tóc, đứng dậy, nói :

– Mời ông, ta sang văn phòng của công ty Liên Thành. Ông Hồ Tá Bang giờ này thường ở bên đó.

Hai người bước ra sân. Sương chiều ngoài cửa bể như những tấm lụa trắng và phơn phót hồng bay vào thành phố hoàng hôn…

10.4

Một ngày chủ nhật.

Nước thủy triều ròng kiệt. Cửa bể Phan Thiết trải một màu nâu bầm. Bãi biển lùi rộng ra xa. Từng đàn chim biển lên phơi nắng, xòe những đôi cánh trắng phau giữa thềm cát mịn màng. Những con còng, dã tràng lên dày như mắt sàng.

Thầy giáo Nguyễn Tất Thành đưa học trò đi chơi biển, học tập ngoài trời. Thầy mặc áo sơ-mi cộc tay, quần soóc đều màu trắng, đội mũ cốt bần lợp vải quét phấn trắng, chân đi giày băng-túp. Đám học trò con trai cùng mặc đồng phục như thầy giáo. Hai cô nữ sinh mặc áo dài màu trắng…

Ra khỏi phố, thầy trò leo lên những động cát. Trèo lên được hai ba bước lại tuột xuống một bước. Nhiều em lên được ngọn động, níu tay nhau ngồi bệt xuống, cát chuồi tuột xuống chân dốc, các em cười khoái chá. Hai cô nữ sinh thì mải mê tìm các vỏ sò vỏ ốc có hình thù và màu sắc vân dạng kỳ thú…

Thầy Thành bâng khuâng nhìn. biển nước ròng, bờ xa nắng trải những cồn cát, nương dâu liền một dải chân trời. Thầy cảm nhận những cánh buồm mọc thẳng trên nền biển xanh có sức kêu gọi con người đứng dậy mà đi tới. Thầy gọi học trò đến ngồi xưng quanh trên động cát có bóng cây cổ thụ. Thầy hỏi :

– Các trò có biết tại sao người dân chài lại trồng các loại cây cao to, có rễ sâu, tán rộng trên bờ biển không?

– Thưa thầy, để có bóng mát họ ngồi chơi như thầy trò ta đang ngồi ạ. Một em khác nói :

– Họ trồng cây to trước cửa bể để lấy gỗ đóng thuyền, làm chèo, làm lái ạ…

Thầy Thành cười. Các em nhìn nhau cười khúc khích. Thầy ôn tồn nói :

– Các trò nói có phần đúng. Nhưng các trò phải hiểu là loại gỗ dùng đóng thuyền, làm chèo, làm lái phải là loại gỗ ít ngấm nước, nhẹ mà dẻo mới được. Còn những cây người ta trồng trước cửa bể là cốt để làm “cột tiêu” cho thuyền bè lúc trở về bến.

Thầy chỉ tay ra phía xa khơi :

– Các trò có thích những cánh buồm đi khơi kia không?

Trò Nguyễn Thành Tây vẻ nghịch ngợm :

– Thưa thầy, nhường hai bạn “quần thoa” vốn có nhiều cao kiến nói về cảm tưởng cánh buồm trên biển ạ.

Hai cô nữ sinh mặt đỏ dừ, tay cầm con ốc chông vẽ vẽ trên cát. Đám con trai cười, nháy nháy mắt nhau. Thầy Thành gõ gõ lên đầu em Tây :

– Lại trêu chọc bạn, thầy sẽ phạt ngồi nhà như lần đi chơi núi mới rồi đó nghe.

Nguyễn Thành Tây cười tủm tỉm. Cả đám học trò đua nhau nói những cảm nghĩ của mình về cánh buồm trên biển cả. Có em đã tưởng tượng :

– Thưa thầy con thấy biển là một trang vở lớn mà buồm là chữ “A”.

Một em khác nói tranh :

– Cánh buồm là dấu than (!) trên trang vở biển nữa, thưa thầy…

Thầy Thành cười :

– Các trò ạ, người ta ví :

Chí làm trai tựa cánh buồm biển cả,
Tấm lòng già như cây lớn quê hương

Nghe thầy Thành đọc hai câu thơ, các em hết nhìn ra biển lại ngước trông lên ngọn cây. Thầy nói, vẻ đầy tin tưởng :

– Thầy vừa qua tuổi thiếu niên, thầy đọc cho các trò nghe một bài thơ mà thầy đã thuộc cách đây vài năm.
Có em hỏi :
– Chúng em chép vào các-nê (sổ tay) có được không, thưa thầy?

– Được. – Thầy đọc chầm chậm :

Hú hồn thiếu niên
Ngồi ngẫm chuyện năm châu trên trái đất,
Sóng văn minh dồn dập nổi phong trào.
Kìa như ai người thì khôn, sức thì mạnh, đất thì rộng, của thì nhiều,
Trời há lẽ riêng chi một cõi!
Sao ta cứ dã man quen thói,
Khom thân nô mà luồn cúi dưới cường quyền?
Hú ba hồn các chú thiếu niên!…

Một ông lão vai vắt tấm lưới từ trong xóm chài đi ra, theo sau ông là đám trẻ con không áo, không quần, lấm lem đất cát.

Thầy Thành nói nhỏ với các em :

– Lúc khác thầy sẽ đọc tiếp cho các trò nghe những bài thơ, bài ca mới mà thầy đã thuộc. Giờ thầy trò mình đến bắt chuyện với ngư dân, họ sẽ kể cho nghe vô số chuyện lạ trên bể…

Nhìn thấy thầy Thành, ông lão giơ tay quá đầu, nói oang oang :

– Ồ! ồ! Thầy giáo ở trong phố. Chào thầy.

– Cháu chào cụ. Hôm nay biển lặng mà cụ nghỉ nhà, hả cụ?

– Ờ… Ờ… Đáng lẽ đã ở ngoài khơi, biển bữa nầy lặng như ao. Nhưng vàng lưới bọn tui bị mập và cá nóc nó cắn, nhiều tấm rách quá trời, phải nghỉ đến mấy ngày vá víu đã thầy giáo ạ.

Mấy đứa trẻ đứng đằng xa nhìn đám học trò áo quần trắng đẹp, vẻ thèm khát, không dám đến gần.

Thầy Thành hỏi ông lão :

– Cháu định đưa học trò vô xóm để các cụ, các ông nói cho nghe những chuyến đi khơi, về lộng, tháo động vượt bão ạ.

– Trong xóm bữa nầy hổng có ai ở nhà đâu. Những ông cùng thuyền với tui cũng đang đi mỗi người một việc. Chỉ còn tui vừa vá lưới, vừa ra coi thuyền, chờ nước ròng đưa thuyền xuống theo. – ông nhìn ra phía xa, nói : – Để hôm biển động, mời thầy đến xóm chài bầy tui, muốn nghe mấy cũng được. Chuyện đi biển kể mấy ngày, mấy tháng cũng chẳng hết, thầy ạ.

Ông già đi thủng thỉnh xuống thuyền. Thầy Thành dẫn đám học trò đi lại chỗ mấy đứa bé trần trùng trục ngồi bệt dưới cát. Thấy người lạ, mấy đứa nhỏ sợ, vùng ra khỏi cát, chạy lùi từng bước, có hai em nhỏ tuổi nhất đứng im nhìn… Thầy Thành cười, nói:

– Chẳng ai làm gì các em đâu mà các em sợ. Các em đến đây, thầy và các anh, các chị cho kẹo.

Mấy em lớn máy máy bàn tay mềm mại, đám trẻ trở lại gần bên thầy Thành và các anh chị học sinh… Thầy Thành đưa gói kẹo cho hai nữ sinh phát cho các em. Thầy đứng nhìn mấy em gầy ốm bé nhỏ nhất trong đám trẻ. Thầy hỏi :

– Em bé này chắc nhà đói lắm, phải không?

– Thưa nhà nó đói, đói dữ, má nó vừa mới chết ạ.

Thầy Thành sập mi mắt xuống, lông mày rung rung. Thầy ngồi thụp xuống, bế xốc em bé lên vai. Nó hơi hốt, hai chân chuồi chuồi, lấm cả vạt áo trắng trước ngực áo thầy. Thầy dỗ dành :

– Về nhà em… thầy sẽ cho em nhiều kẹo mà.

Thầy Thành bế em bé mồ côi cùng với các em học trò đi theo đám trẻ về xóm chài.

Khi qua giếng thơi, thầy đặt em bé mồ côi xuống. Mượn được một số gàu, thầy và trò múc nước tắm cho đám trẻ. Hai nữ sinh cuốn gọn tà áo dài quanh người, múc nước giội cho em bé nhất. Thầy Thành vừa kỳ cọ cho các em, vừa dặn :

– Ngày ngày các em phải tắm cho sạch. Ăn uống đã khổ, người lại bẩn thỉu thì không lớn, không khỏe mạnh được. Ba má bận đi làm chài, đánh lưới thì em lớn tắm cho em nhỏ. Ở cùng xóm phải giúp đỡ nhau…

Một số bà con trong xóm thấy chuyện lạ chạy ra, nói bô lô ba la một chập : “Trời đất! Trời đất!… Mấy thầy, mấy cậu, mấy cô tốt bụng… tốt bụng quá lận. Có đời thuở mô người trên tỉnh sang trọng lại xuống cái xóm mường nước mặn này… Cho con nít kẹo,tắm gội cho chúng nữa nhớ! Hiếm thấy! Hiếm thấy trên trần gian đó nghe…”

Bà cụ già móm mém nhìn những vết lấm lem trên áo thầy Thành cụ cười một nụ cười héo hắt chỉ còn lợi. Cụ cầm một miếng trầu, đặt vào thành giếng, trở sống dao dần dần. Thầy Thành đỡ lấy tay cụ :

– Để cháu nhai giùm cụ, giã kiểu này đã không mềm mà ăn lại lạt lẽo.

Bà cụ ngạc nhiên, hai mắt nhìn thầy Thành chằm chằm :

– Răng thầy trắng ngọc, trắng ngà mà thầy rành cả việc nhai trầu?

– Cháu thường nhai trầu cho bà ngoại của cháu, cụ ạ.

– Thầy thương trẻ quý già. Lạ lùng lắm! Ước chi ông quan đầu triều, đức vua đầu nước có lòng thương người như thầy thì cánh dân đen bầy tui được mát mặt đôi ba phần!

Thầy Thành chắp tay xá xá bà cụ và những người xóm chài. Trên đường về, thầy Thành nói với học trò :

– Các trò thấy đó, bà cụ sống trên cửa bể nầy đã rụng hết răng mà cũng không sắm nổi chiếc cối giã trầu. Cảnh dân mình khổ vậy đó. Thầy đi từ ngoài xứ Nghệ vô đây, nơi nào thầy cũng thấy người dân sống lầm than, tối tăm, nhục nhằn! Thầy nghĩ là chúng ta học cái chữ để biết được điều hay lẽ phải trên đời và theo thầy, trước hết là học để biết và làm được những việc ích nước lợi dân…

Từ trong xóm chài cất lên tiếng võng đưa và tiếng ru con:

Sớm Nam rồi đến chiều nồm,
Anh đi để lại biển buồn cho em…

————
Chú thích:

(83) Ngôi nhà của nhà thơ yêu nước Nguyễn Thông. Nhà thơ ví cái nhà của mình như tổ chim yến là nơi nằm chơi, ngâm thơ bình văm với các bạn đồng chí đồng tâm.

Hoàng Nhật Minh