Thư viện

Búp sen xanh – Chương III: Phần 7

TUỔI HAI MƯƠI

Út Huệ ngồi bên bậc cửa vá áo, đầu nghiêng nghiêng. Một giọt nắng lọt qua mái nhà thủng, đậu trên tóc và chảy sáng xuống gò má. Hai lọn tóc mai dài xuống quá đuôi mắt. Hai con mắt to, dài, đen láy ấp ủ một nỗi buồn sâu kín, cặp môi tươi như một cánh hoa nở dưới cái mũi dọc dừa. Cả gương mặt Út Huệ như một hòn ngọc sáng.

Út Huệ tay lảy kim trên miếng vá của tấm áo anh Ba, lòng thẫn thờ, thầm nghĩ : Mấy hôm nay anh Ba hơi khang khác với mọi ngày. Anh trầm lặng, không còn vui tính khơi lên cho anh em trong nhà những trận cười phải ôm lấy bụng. Hằng ngày ảnh ăn rất ít, không còn giữ mức mỗi bữa ba bát nữa. Ảnh ăn không được, mình làm thêm món để ảnh ăn ngon miệng, ảnh lại gắp chia đều lên bát cho từng người. Đêm nào ảnh cũng thì thầm với ba, với anh Tư cho mãi tới khuya. Hình như ảnh không nói những chuyện gì đó với các anh Sáu Đen, Chín Mập. Ảnh cũng giữ kín cả với mình. Mà cũng phải thôi, mình là phận gái…

Đang mải nghĩ, nghe tiếng chân anh Ba ở ngoài cảng đi về, Út Huệ giật mình đặt vội tấm áo xuống đầu gối, ngước nhìn anh Ba, mỉm cười, đon đả :

– Anh đã về. Em ngỡ anh về muộn nên chưa soạn cơm nước chi cả.

– Nấu muộn một tí đợi anh em về đông đủ cùng ăn nóng, càng tốt, cô Út ạ.

Anh Ba vẻ mặt buồn buồn, ngồi xuống sập gỗ.

Bàn chân anh miết qua miết lại trên nền nhà, giọng nói không tự nhiên :

– Có một việc riêng, hôm nay tôi mới có dịp nói với cô Út.

Hai má Út Huệ ửng đỏ, mắt chớp chớp, môi mấp máy, hai lúm đồng tiền ẩn hiện trên má. Cô ngước nhìn thoáng anh Ba, cúi xuống liền, nói hơi run :

– Có điều chi anh Ba thấy cần dạy bảo em, em…

– Ấy chết! Chuyện riêng của tôi chứ đâu dám “dạy bảo” gì, hở cô Út?

Út Huệ đã bình tĩnh hơn :

– Anh đã tin em, anh cứ nói ra. Dù có quá sức em, em cũng ráng giúp anh.

Anh Ba nhìn ra xa, giọng trầm trầm :

– Tôi không ở đây nữa… Mai sớm, tôi… đi… xa…

Út Huệ rùng mình. Cái kim trên tay tuột xuống nền nhà. Cô bối rối, tay run run nhặt cây kim lên, môi mim mím. Hai người như bị hẫng, ngồi im lặng. Út Huệ nói, giọng nghèn nghẹn :

– Sao anh không ở đây nữa với ba em, với anh Tư…?… Mà anh đi mãi đâu, có vẻ hệ trọng vậy ạ?

– Tôi đi… xa lắm… đi khỏi nước mình, cô Út ạ. – Anh chùng giọng:- Ai mà chẳng muốn có một cuộc sống êm đềm bên cạnh những người thân yêu. Nhưng, tình cảnh nước mình, tôi không thể ngồi yên một chỗ, xây dựng cho riêng mình một tổ ấm được.

– Anh đi chừng bao lâu thì anh trở về đây?

– Cô Út! Ngày trở về, – anh Ba nói – cô Út hiểu thấu cho : ngày về của tôi xa mù mịt, tôi cũng chẳng định liệu trước được.

Út Huệ nắm chặt tấm áo vá trong tay mình, nén tiếng khóc từ trong cổ họng. Cô định nói thêm, nhưng tiếng ông già Đờn đã oang oang ngoài đầu ngõ hẻm. Chưa vào nhà, ông già đã hỏi con gái :

– Đã có đồ nhậu tối nay chưa, Út?

Út Huệ giấu mặt buồn, cúi xuống tấm áo vá, thưa :

– Dạ… Con chưa ra chợ, ba ạ.

Thấy anh Ba đã về đang ngồi trên sập giữa nhà, ông già vui vẻ :

– Ồ thầy cháu về rồi à?

– Cháu cũng vừa về được một lúc chú ạ. Mấy ảnh sao chưa về chú?

– Bọn nó biểu, mai sớm cháu đi, bọn nó ghé tiệm mua đồ nhậu, thức suốt đêm nay với cháu mà.

Ông già dặn nhỏ con gái, giọng bồi hồi :

– Út à. Anh Ba mầy hổng còn ở lại đây nữa. Ảnh đi vượt vời sang tận các nước Âu Mỹ kia. Mơi anh mầy đã đi sớm. Con ra chợ mua cái ăn, mua những thứ ngon, mắc mấy cũng được, ăn với nhau bữa cơm cuối cùng mà…

Út Huệ mím mím môi, cắn vội sợi chỉ, trao cái áo đã vá lành cho anh Ba, nói lảng :

– Những đường kim về sau vì vội nên không được đều anh vui lòng, nghe.

– Trời đất, cô Út cẩn thận quá. Cảm ơn cô Út.

Út Huệ sập rèm mi ướt, giọng nói đượm chút dỗi :

– Vá miếng áo có là chi đâu mà anh Ba cảm ơn em.

Anh Ba cười. Ông già Đờn dặn thêm con gái :

– Con nhớ mua một miếng thịt heo nạc, rặt nạc, nghe hông. Rồi mua dừa lấy nước kho với thịt. Kho thiệt khô. Nhớ mua nước mắm hạng nhất kho thịt mới để được lâu. Con cũng đừng mua gạo thường, mua gạo nàng thơm nắm mới dẻo.

Ông ngồi bên cạnh anh Ba, ngậm cái tẩu thuốc, mắt ông mơ màng bóng khói :

– Bước chân xuống tàu có lẽ là phải ăn cơm Tây rồi. Cháu chịu khổ mang cơm nắm theo. Chú nghĩ chắc còn lâu lắm cháu mới được ăn cơm trên đất quê mình. Hạt gạo, củ khoai, con cá, lá rau, quả cà, trái ớt, chút nước mắm, tí dấm… những món ăn của quê mình bình thường vậy mà thiếu nó ta không chịu nổi!

– Cảm ơn chú. Chú và cô Út đã săn sóc cháu nhiều mà cháu chưa đền đáp được gì!

– Đừng, cháu đừng nghĩ vậy. Cháu sắp rời xứ sở, hãy nghĩ về chặng đường phía trước…

*****

Bóng tối trùm xuống xóm thợ. Những tiếng rao đêm lang thang trong ngõ hẻm. Tiếng chửi rủa của bà già, tiếng khóc gào than vãn, tiếng quát tháo của người say rượu và bao nhiêu thứ tiếng ồn ào hỗn độn dấy lên trong đêm như biển động.
Không khí trong nhà ông già Đờn cũng đang như trước giờ cơn bão đến.

Hai chiếc chiếu trải rộng giữa nhà. Một mâm thức ăn đầy ngộn đặt giữa chiếu. Ông già Đờn ngồi sát anh Ba. Anh Tư Lê, Chín Mập, Sáu Đen ngồi vòng tròn quanh mâm. Người nào cũng đăm chiêu, ít nói. Họ uống rượu từng tợp đủ thấm môi, không như mọi ngày, tu một người hết cả chén. Chẳng mấy ai cầm đũa nhắm. Người nào cũng luôn luôn trăn trở thế ngồi. Không khí trầm lặng kéo dài. Anh Ba định kể một câu chuyện vui vui thì Tư Lê ca bài Nam ai, buồn xé ruột. Tiếp đến Chín Mập hát bài Lý chiều chiều, Sáu Đen hát tích Nguyệt Nga cống Hồ. Hát xong, Sáu Đen nài nỉ anh Ba hát giặm Nghệ Tĩnh. Anh Ba vẻ lúng túng. Ông già Đờn đỡ lời :

– Cuộc vui đêm nay tiễn thằng Ba đi, tụi bây và tao phải làm hết mọi chuyện, đừng để thằng Ba nó phải dính vô một việc chi, nghe hông. – ông già so dây đàn : – Bữa nay tiễn Ba nó đi Tây, tao cho tui bây nghe trọn cả bài “ca lòng” của tao.

Nước mắt ông già rơm rớm, giọng ông buồn buồn :

Một… mối… tình… câm
Tình câm… một.. mối
Chàng… đã… ra… đi…
Chẳng nói lời… chi
Ôi cảnh… biệt… ly…
Thiếp ngóng…. theo… chàng…
Sông nước… mênh… mang…
Kéo neo… tàu… chạy…
Nước… mắt… tiễn…đưa…
Chàng đi… chàng đi…
Muôn trùng… sóng vỗ…
Thiếp giữ… tình câm…
Tình câm… theo… chàng…

Tư Lê, Sáu Đen, Chín Mập đều ngồi xo ro gục trên cánh tay và mỗi người đuổi theo một kỷ niệm của riêng mình.

Anh Ba chống tay đỡ cằm, máng tóc dày đổ xuống trán, mắt anh hướng vào một điểm sáng tụ dưới chiếu, nhưng trong đầu anh hiện lên lớp lớp những gương mặt thân yêu mà anh đã ghi nhớ từ tuổi ấu thơ. Cả hình ảnh các ông già mù hát dạo ở quê hương, ở Huế, ở Phan Thiết cũng hiện lên trong đầu anh. Và bao nhiêu bài ca anh đã từng nghe cũng đang văng vẳng giữa tâm hồn anh : Nước Nam ta sao lại có Tây?…

Út Huệ một mình một đèn, nước mắt giọt ngắn giọt dài tại buồng trong. Hai bàn tay Huệ vắt, nắm, vỗ vỗ nắm cơm gạo nàng thơm dẻo quẹo. Đặt nắm cơm vào tấm bẹ cau trắng mịn như lụa, Huệ ngồi thừ nhìn không chớp mắt. Tiếng đàn ca phòng ngoài vọng vào, cô chẳng để vào tai mình. Cô mở hòm lấy quyển vở, lật lật từng trang, nói thầm : Chữ anh Ba dạy cho mình. Anh Ba đã cầm tay tập cho mình viết. Sao anh Ba không ở lại đây mãi mãi? Lúc nào anh Ba cũng nói “cứu nước, thương đồng bào mình sống cực”!

Tiếng còi tàu chở khách sang Thủ Thiêm kéo một hồi dài. Út Huệ giật mình và chợt nhớ đã sáng đêm. Út Huệ cầm tấm khăn rằn của anh Ba mua dạo nọ, lau nước mắt. Bỗng Huệ nhớ hồi nhỏ Huệ được nghe mẹ ru :

Khăn thương nhớ ai mà khăn rơi xuống đất,
Đèn thương nhớ ai mà đèn không tắt,
Mắt thương nhớ ai mà mắt không khô…

Út Huệ trùm khăn đi ra cửa. Trời còn nhá nhem. Sương mù giăng trên nóc nhà xóm thợ. Út Huệ lại quay vào buồng, nhìn ngọn đèn, nói : Mình thương thầm ảnh. Giờ ảnh đi xa. Đi sang Tây. Mình có nên nói với ảnh cái điều dớ dẩn của mình nghĩ không? Ôi! Ai lại ngược đời đời vậy bao giờ? Mình là con gái kia mà. Nhưng, ảnh ra đi liệu ảnh có đoán biết được cái điều mình nghĩ về ảnh không? Đèn ơi! Nếu anh Ba không biết điều ấy thì đèn chứng cho tấm lòng Út Huệ này nhé. Ôi ! Một người mà ai cũng yêu mến…

Sáng ngày Năm, tháng Sáu, năm Một ngàn chín trăm mười một. Sương sớm phủ nóc Nhà Rồng. Dòng sông Sài Gòn cong vòng như lưng người già đã trải qua nhiều khúc đường đời khổ ải.

Trời ngả màu chì.

Cơn mưa đen tháng sáu dấy lên.

Từ trong ngõ hẻm, anh Ba bước từng bước ung dung, mắt nhìn thẳng phía trước. Đi bên anh là ông già Đờn. Tư Lê, Sáu Đen, Chín Mập đi sát phía sau. Út Huệ đi sau cùng.

Con đường hẻm dài hun hút. Họ im lặng đi. Sắp đến lối rẽ vào bến cảng, họ đi chậm bước, mắt hướng ra phía những con tàu đang xả khói đen đục. Và trong mắt họ có cái ảo giác cả đất trời tròng trành, thành phố Sài Gòn chao đưa.

Anh Ba khựng bước. Anh ôm chầm lấy người ông già Đờn :

– Chú Út ơi! Các anh ơi! Út Huệ ạ – Anh nhìn vào mắt những người thợ thuyền trao gửi niềm tin. – Nước mình, dân mình sẽ không cam chịu cảnh ngựa trâu nầy mãi được. Phải xóa bỏ kiếp nô lệ và nhất định đời thợ chúng ta sẽ đổi khác… Chúng ta tin ở tương lai, tin vào tiền đồ dân tộc…

Ông già Đờn ôm chặt lấy hai vai anh Ba, lắc mạnh :

– Ba! Chú tin… rất tin ở lời cháu vừa nói và càng tin sự quyết chí ra đi vì nước vì dân của cháu. Chúc cháu đi được trơn bọt lọt lạch, chân cứng đá mềm!

Ông ôm chặt anh Ba vào ngực mình, bộ tóc muối tiêu của ông xõa rộng xuống vai anh. Rời ông già Đờn, anh Ba bước đến với ba người thợ trẻ. Tư Lê cầm chặt tay anh Ba, giọng nghẹn ngào :

– Tôi không cùng đi với anh được, nhưng cái bụng của tôi mãi mãi ở bên anh. Ở lại bến cảng này, tôi sẽ làm việc và sống theo như anh đã bày biểu, căn dặn.

Sáu Đen, Chín Mập, hai người cầm hai tay anh Ba nhìn nhau. Và lần đầu tiên anh Ba thấy ở mắt hai người thợ “có đá trong đầu” này rơm rớm lệ. Hai người cùng nói một lúc :

– Anh Ba ơi! Anh đi, để lại trong mắt chúng tôi cái chữ…

Anh Ba chợt nhìn sang út Huệ thì ông già Đờn giục con gái :

– Út! Con đi với anh Ba một quãng đường nữa…

Gió cửa sông thổi giục từng cơn. Anh Bạ chắp tay giơ cao xá xá ông già Đờn và các bạn đang quay bước trên đường về.

Anh Ba im lặng đi bên Út Huệ. Mắt Út Huệ luôn luôn nhìn về hướng con tàu rồi liếc nhìn anh Ba. Chưa bao giờ Út Huệ thấy anh Ba đẹp trai như lúc này. Cô lâng lâng như đang ở trong mơ và thấy anh Ba là chàng hoàng tử trong truyện cổ tích…

Anh Ba bất chợt nhìn Út Huệ, nhìn con tàu. Anh rùng mình. Một luồng giá lạnh từ đỉnh đâu xuống gan bàn chân như phân chia con người anh làm hai. Anh dừng lại :

– Sắp hết giờ lên tàu rồi. Út… đi với tôi, đến đây là… Út về kẻo…

Út Huệ vẫn ôm trên tay mình cái gói nho nhỏ, mắt chớp chớp nhìn vào mắt anh Ba. Tiếng Út Huệ nhẹ như gió thoảng :

– Em muốn nói với anh… chỉ sợ… anh cười em!

– Ấy! Đến giờ này mà Út còn chưa thiệt tin tôi?

Út Huệ bối rối. Cái gói cầm trên tay cứ trao qua trao lại, nhưng Huệ vẫn hết nhìn con tàu đang xả khói lại nhìn anh Ba.

Giọng út Huệ bồi hồi :

– Anh nói đi anh!

Anh Ba lúng túng :

– Điều nói được, tôi đã nói với Huệ từ hôm qua rồi.

– Lúc này khác với ngày hôm qua. Em muốn được nghe anh nói với em một tiếng giữa phút giây nầy, anh Ba ạ!

– Hôm qua, hôm nay và mãi mãi tôi nhớ tấm lòng của Huệ cũng như bao nhiêu tấm lòng vàng khác đã cứu giúp tôi trong những phen hoạn nạn, lúc sẩy nhà ra thất nghiệp.

– Anh Ba luôn luôn nhớ đến những người có lòng tốt với mình, nhưng anh có biết người khác nhớ anh đến cháy ruột cháy gan không? – Út Huệ nghẹn ngào nói.

Anh Ba sững sờ… Út Huệ biết mình đã buột miệng lỡ lời vội nói khỏa lấp :

– Em biết anh là con chim bằng, chiếc lồng son không thể nào nhốt được.

Anh Ba nhấn từng tiếng chắc và ấm :

– Phải có tự do! Huệ ạ, Tổ quốc ta, nhân dân ta phải có độc lập tự do chứ không thể nô lệ mãi được!

– Ước mơ ấy, khát vọng ấy liệu có thành sự thật ở quê mình không anh?

– Vì mất nước mà phải lìa nhà. Nếu không tìm ra phương kế giành lại độc lập cho nước, hạnh phúc cho dân thì tôi không về mà cũng chẳng ai mong đợi làm gì!

Út Huệ run run, cái gói trên tay như muốn rơi xuống, nước mắt giàn giụa :

– Anh! Cơm nắm. Em nấu cho anh bữa cơm cuối cùng nầy. Cầm lấy anh! Đi đi… anh!

Anh Ba đỡ gói cơm trên tay Huệ. Một tiếng gọi lẫn trong tiếng khóc bật ra từ trái tim người con gái Sài Gòn :

– Anh Ba! Em…

Út Huệ ôm mặt chạy trở về. Anh Ba cầm nắm cơm trong tay. Âm thanh thành phố Sài Gòn đổ dồn xuống cửa sông như trùm lấy anh. Anh nghe tiếng còi tàu nhọn hoắt khoan vào không gian nhức nhối. Anh bước sải dài, vội vã xuống tàu. Gương mặt người con gái Sài Gòn chập chờn trước mắt anh như một búp sen quê hương. Và cả khuôn mặt Việt Nam choán lấy trái tim anh!

Út Huệ lại quay lại chạy theo xuống bến tàu.

Con tàu chở anh Ba mờ mờ phía chân trời. Lê Thị Huệ chắp tay trên ngực nhìn theo, khấn trước đất trời :

Sông ơi!
Đừng mọc đá ngầm…
Biển ơi!
Đừng dựng sóng dữ…
Anh đi thuận gió xuôi buồm…
Hỡi những phương trời xa lạ…
Hãy đón lấy Anh…
Một chàng trai nước Việt…
Anh là của Nước của Dân…
Tất cả đợi Anh về…

Ngõ Văn, ngày 23 tháng 8 năm 1981

Hoàng Nhật Minh

Advertisement

Búp sen xanh – Chương III: Phần 6

TUỔI HAI MƯƠI

Cảng Nhà Rồng mờ mờ ánh đèn. Đêm hè trải dài theo gió. Gió va vào những boong tàu, dây buồm, phát ra những âm thanh hiu hắt hòa trong tiếng sóng vỗ bờ. Mấy con thuyền câu, bè vó như những chấm đen trôi lững đững trên sông loang loáng ánh đêm. Từ bên Thủ Thiêm, những ngôi sao lạc kẻ từng đường sáng giữa mênh mông. Anh Ba ngồi kề vai với anh Tư Lê bên bờ sông. Họ im lặng nhìn xuống dòng sông. Anh Ba vẻ thận trọng hỏi Tư Lê :

– Anh Tư này. (Tư Lê xoay người nhìn vào mặt anh Ba). Anh có dám nghĩ đến việc đuổi Tây ra khỏi nước mình không?

– Tôi là người thợ. Nhà tôi có thù với chúng mà, anh Ba!
Hai người lại im lặng. Trước mặt họ một chân trời đen kịt. Anh Ba dè dặt hỏi :

– Anh có giữ kín được không?

– Kín chớ. Ơn sâu nghĩa nặng từ kinh đô Huế. Rượu thề kết nghĩa trên sông Phan Thiết, quên làm sao được anh Ba.

Bóng tối như loãng ra quanh hai người. Anh Ba thì thầm :

– Nỗi khổ của người dân mất nước, chúng mình đã từng tâm sự nhiều lần. Bây giờ… bây giờ mình đã quyết định đi ra nước ngoài… Mình muốn anh cùng đi.

Tư Lê hơi bối rối. Anh cầm bàn tay anh Ba :

– Đi tới đâu hả anh Ba?

– Sang Pháp và… đi tới các nước văn minh khác. Sau khi xem xét họ làm ăn thế nào, chúng mình trở về giúp đồng bào đuổi hết thực dân Pháp ra khỏi đất nước, giành độc lập, tự do…

Tư Lê băn khoăn :

– Đuổi Tây, giành độc lập tự do, sao chúng mình lại sang Tây?

– Tôi đọc báo, đọc sách của những người Pháp viết, họ bàn nhiều đến quyền tự do, bình đẳng, bác ái. Tôi nghĩ, quyền lợi tối cao của một dân tộc là độc lập, tự chủ. Quyền cơ bản nhất của con người ở trong xã hội là quyền tự do, bình đẳng giữa người với người. Tôi muốn sang Pháp để được nhìn tận mắt người dân Pháp họ sống thế nào, đằng sau những cái chữ tự do, bình đẳng, bác ái ẩn náu những gì. (97)

Anh Tư Lê do dự.

– Lấy tiền đâu mà đi và sang tận bên Tây lạ nước lạ cái sống bằng cách chi được, anh Ba?

– Đây – anh Ba giọng cương quyết, chìa hai tay ra giữa bóng đêm – tiền đây. Chúng ta sống bằng bàn tay, bằng cái đầu của chúng ta.

Anh Tư Lê thở dài :

– Tìm đường cứu nước, cứu dân, việc quá lớn. Đầu óc tôi mới được vài chữ anh vừa chia sớt cho. Đi sang bên đó họ văn minh, tôi lĩnh hội hổng nổi, anh Ba ạ.

Hai người lại im lặng. Tiếng sóng thầm thì và tiếng đàn cò của ông già Đờn vắt qua sông, lan dài trong đêm xa mịt : … Kéo neo… kéo… neo… tàu chạy… Gạt… nước… mắt… tiễn… đưa… Thương người…người… đi muôn… trùng… sóng… vỗ…

Ngày 2 tháng 6 năm 1911.

Anh Ba mặc quần áo trắng, toát lên màu thanh khiết tóc rẽ đường ngôi bên phải, chải mượt, chân đi dép xăng-đan. Anh đi khoan thai xuống tàu Đô đốc La- tu-sơ Tơ-rê-vin.

Được sự giới thiệu của ông chủ sự cảng Nhà Rồng, anh Ba gặp viên thuyền trưởng. Thuyền trưởng Lu-i Ê- đu-a Mai-sen trạc tuổi gần bốn mươi, tiếp anh Ba dưới buồng khách của con tàu. Ông ta quan sát diện mạo anh Ba với một thái độ trọng nể. Ngay từ phút đầu, ông Mai-sen đã để ý tới đôi mắt to, dài và sáng của anh Ba. Ông chìa hai bàn tay ra trước mặt, nói :

– Ô! Nhìn anh, tôi ưa lắm, tốt lắm. Tiếc là trên con tàu của tôi không còn có loại công việc hợp với anh – Mai-sen lật lật quyển sổ nhân sự để trước mặt. Ông lại nhìn anh Ba, hỏi: – Anh biết đọc chữ Pháp chứ?

– Thưa ông Mai-sen, tôi đọc được ạ.

– Ồ…! Tốt, tốt lắm. – Mai-sen chỉ vào trang sổ nhân sự và nói bằng tiếng Pháp: – Đây. Anh xem, vừa mới sáng nay, tôi đã nhận thêm bốn người An-nam. Danh sách bốn người đây. – Mai-sen đọc tên từng người: – Đặng Quang Giao, Lê Quang Chi, Nguyễn Tuân, Nguyễn Văn Tri.

Anh Ba chau mày, những ngón tay gõ gõ trên mặt bàn. Hai mắt anh Ba như phủ một lớp sương chiều. ông Mai-sen đọc được những băn khoăn trong đôi mắt anh Ba : – Tôi biết những người như anh muốn làm cánh chim bay trên những miền đất lạ. Tiếc là, trên con tàu của tôi chỉ còn cần một chân phụ bếp.

Hai mắt anh Ba bừng sáng :

– Thưa ông Mai-sen, tôi đề nghị ông nhận tôi vào chân phụ bếp ấy.

– Ồ… ! – Mai-sen nhìn anh Ba, hơi ngờ vực. – Một thư sinh như anh chịu không nổi đâu. Công việc làm bếp ở con tàu này rất nặng nhọc. Hằng ngày phải lo những bữa ăn cho cả trăm người với nhiều khẩu phần khác nhau; riêng hành khách có vé hạng nhất đã bốn mươi người.

Anh Ba chìa hai bàn tay ra trước ông Mai-sen :

– Ông xem những vết chai sạn trên bàn tay của tôi.

Mai-sen cầm lấy bàn tay anh Ba ngắm, mỉm cười :

– Người phương Tây chúng tôi rất tin khoa xem tướng bàn tay. Tôi không sành bói toán, nhưng bàn tay anh ngón thon dài thế này thì viết chữ đẹp, có năng khiếu mỹ thuật và âm nhạc. Anh được cả hai cái lớn : con mắt và bàn tay. Tôi biết một câu rất hay mà người An-nam hay dùng : “Giàu hai con mắt, khó hai bàn tay”.

– Ông đã xem tướng tôi, ông có tin là tôi làm được phụ bếp không?

– Tôi muốn nhận anh vào một công việc hợp với khả năng của anh, ít ra cũng là một chân thư ký trên con tàu của tôi. Để anh giữ chân phụ bếp, phí quá – ông ta hạ giọng: – Thôi được, từ ngày mai – Ông ta nhìn lên tấm lịch – ngày mai là mồng 3 tháng 6, anh xuống tàu nhận việc. Tôi sẽ báo cho ông quản bếp để tiếp nhận anh đúng 8 giờ sáng mai. Tháng đầu tiên này tôi tạm cấp lương cho anh là 45 phơ-răng. Được chứ?

Anh Ba cười :

– Tôi sẽ làm việc xứng đáng với sự tin dùng của ông.

Ông Mai-sen còn đưa cho anh Ba một tấm thiếp in hình con tàu rẽ sóng đại dương, có chữ ký của ông, và một cuốn sách mỏng, cỡ bỏ túi, ngoài bìa cũng có hình con tàu Đô đốc La-tu-sơ Tơ-rê-vin. Ông dặn cẩn thận:

– Anh giữ cái các (98) để tiện việc lúc lên bến, lúc xuống tàu. Cuốn sách nhỏ này giúp anh hiểu về hãng Sác-giơ Rê-uy-ni và con tàu của chúng tôi hoạt động như thế nào…

Rời con tàu Đô đốc La-tu-sơ Tơ-rê-vin, trên đường về xóm, anh Ba vừa đi vừa xem tập sách nhỏ của ông Mai-sen đưa. Anh đọc nhẩm : Tàu Đô đốc La-tu-sơ Tơ-rê-vin thuộc hãng tàu Sác-giơ Rê-uy-ni. Con tàu này thuộc loại lớn nhất của hãng và cũng là tàu có cỡ của đầu thế kỷ 20. Chiều dài của con tàu : 120 mét 10, rộng 15 mét 20, trọng tải là 5.572 tấn, chạy bằng máy hơi nước với 2.800 sức ngựa. Tàu có thể chạy một mạch những 12.000 hải lý, không cần phải ghé bến. Trong lòng con tàu được thiết kế hiện đại, tiện nghi. Đáy tàu là một bể chứa nước ngọt, tới 900 tấn. Có hầm chứa than : 150 tấn. Tầng trên của con tàu là các buồng làm việc, nghỉ ngơi, phòng giải trí vui chơi của các sĩ quan và thủy thủ. Tiếp đến là dãy phòng đủ cho bốn chục khách đi vé hạng nhất. Ở giữa khoang tàu, phần dưới cùng là ba nồi hơi lớn, các cỗ máy lớn và bếp nấu, nơi nghỉ của các người làm bếp, bồi bàn… Xem đến trang giới thiệu về khu vực nhà bếp, anh Ba mỉm cười : mình sẽ được làm bạn với Táo quân.

———–

Chú thích:

(97) Trang 14, sách “Chủ tịch Hồ Chí Minh, tiểu sử và sự nghiệp”, Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng Trung ương, NXB Sự thật in : “…Vào trạc 13 tuổi, lần đầu tiên tôi đã được nghe những từ Pháp : tự do, bình đẳng, bác ái. Thế là tôi muốn làm quên với văn minh Pháp, tìm xem những gì ẩn giấu đằng sau những từ ấy”.
(98) Tấm thiếp.

Hoàng Nhật Minh

Búp sen xanh – Chương III: Phần 5

TUỔI HAI MƯƠI

Tháng sáu 1911.

Hoa điệp thắp chói đỏ từng mảng trời thành phố Sài Gòn. Mặt đường lấm tấm những cánh hoa như xác pháo sau đêm giao thừa.
Anh Ba bước chầm chậm. Những cánh hoa điệp rơi lả tả xuống dấu chân anh. Anh bâng khuâng nghĩ về lời hẹn của ông chủ sự cảng Nhà Rồng : “Ngày mồng hai tháng sáu này, tàu Đô đốc La-tu-sơ Tơ-rê-vin từ Tua-ran vào sẽ cập Bến Nhà Rồng, ở lại vài ba ngày và có thể họ tuyển thêm bồi tàu.Tôi hứa sẽ giới thiệu anh với ông thuyền trưởng Lu-i Ê-du-a Mai-sen…”.

Anh Ba càng băn khoăn, nghĩ ngợi sẽ nói gì với cha lần gặp cuối cùng này. Liệu anh có cầm được nước mắt trước mặt cha lúc anh phải nói lên cái điều “dứt áo ra đi biệt xứ” không?

Đường phố yên tĩnh và êm ả. Anh Ba hơi tần ngần trước cửa lữ quán. Một người đàn ông đã luống tuổi ngồi ngay lối vào cửa quán. Anh vừa bước lên thềm, ông ta hỏi ngay :

– Anh hỏi gì?

– Thưa tôi xin gặp ông bảng Nguyễn Sinh Huy ạ.

Người coi quán nhìn anh Ba từ đầu xuống chân và hơi nhíu mày lúc nhác thấy anh đi dép “cu li”.

– Anh là ai mà dám gặp quan Phó bảng?

– Dà… tôi là con…

– Anh hổng đùa chứ?

– Đâu dám!

Người coi quán lại đảo mắt xuống đôi dép “cu li” dưới chân anh Ba, chưa hết ngờ vực. Nhưng lúc ông nhìn lên bắt gặp cặp mắt anh Ba sáng long lanh, ông đổi giọng :

– Mời cậu ấm lên lầu. – ông chỉ tay về lối cầu thang.

Anh Ba vừa đặt chân lên bậc thang gác, ông ta lại chạy tới, vồn vã :

– Cậu ấm lên khỏi thang gác này thì quẹo theo hành lang phía tay trái, đến phòng có chữ Cửu treo trên cửa ra vào, cậu kéo dây chuông, nghe cậu.

Anh Ba cúi đầu cảm tạ và nhẹ nhàng bước lên cầu thang gỗ đen màu sừng. Hành lang hẹp, gốc nhẵn bóng. Anh sáng lờ mờ, hành lang như can đường dưới đêm trăng lu. Anh hồi hộp dừng bước trước cửa phòng treo chữ Cửu (92). Cái dây chuông thòng lòng ngang tầm tay. Anh đưa ngón tay trỏ định kéo dây chuông nhưng thụt lại ngay và anh úp bàn tay hồng đỏ lên vầng trán nóng ran. Anh đứng dựa vào lan can một lát. Vuốt lại mái tóc, anh lại bước đến cửa, mạnh dạn kéo dây chuông rồi lại tới dựa lan can, đợi…

Cánh cửa hé mở. Một ông già bước ra. Hai người cùng quan sát lẫn nhau. Anh Ba lễ phép bước đến hỏi trước :

-Thưa bác, xin bác cho cháu được gặp ông Phó bảng Nguyễn Sinh Huy.

Ông già nhíu đôi lông mày trắng như hai múi bông, tóc ông xếp làn sóng đổ dài xuống quá ót và bạc phơ. Bộ râu ba chòm rung rinh theo nhịp miệng, ông nói :

– Anh là người có quan hệ chi với quan lớn? – Mắt ông già không ngừng xem xét diện mạo và đôi dép “cu li” dưới chân anh Ba.

Hiểu được thái độ ông già, anh Ba lễ phép thưa :

– Cháu là con quan Phó bảng Huy, thưa bác.

– Trời… đất! – ông già rướn cao đôi mày, ngạc nhiên chắp hai tay trước bụng. – Xin lỗi cậu ấm. Tôi đâu dè cậu là con quan Phó bảng Nguyễn Sinh Huy. – ông bước lại gần anh Ba: – Tôi hổng đeo kiếng nên đâu có nhìn rõ! – ông chìa hai tay: – Mời cậu ấm vô ạ.

Anh Ba bước vào phòng. ông già dẫn anh đến bên chiếc giường con:

– Đây là nơi quan lớn nghỉ. Cậu ấm ngồi tạm. Quan lớn hiện đang dùng trà với ông cử dưới Lục tỉnh lên chơi ngoài phòng khách.

Anh nhìn theo ông già, lắc đầu nói thầm :

– Cha mình đã bỏ cái ghế quan trường như bỏ cái tấm giẻ rách lau chân, nhưng mọi người lại trọng vọng nó ngợp cả mắt. Tội nghiệp!

Ông già trở ra, chìa tay :

– Quan lớn mời cậu vô.

Anh Ba cúi đầu đáp lễ và đi vào sau tấm bình phong. Phòng trà lữ quán mà ông Huy đang tiếp khách là một gian nhà vuông vức, sàn gỗ đen bóng. Bộ bàn trà kê sát cửa sổ lớn. Ngoài cửa sổ là vườn cây râm mát, bóng trúc ngoắt ngọn vào khung cửa. Hoa ngoài vườn đưa hương vào phòng trà. Ông Phó bảng Huy ngồi ở chiếc ghế kê sát cửa sổ. Màu xanh ngoài vườn trúc tỏa vào quanh nơi ông ngồi. Ông cử nhân miền Lục tỉnh ngồi đối diện. Hương chè quyện hương vườn xanh đưa vào ngọt cả không gian.

Anh Ba bước vào chắp tay đằng trước cúi chào cha và khách của cha. Anh đứng nghiêm trang, tay vẫn giữ trước ngực. Ông khách chìa tay ra phía trước :

– Mời cậu ấm an tọa.

Anh Ba cúi đầu đáp lễ. Nhưng anh chưa được cha cho phép nên vẫn đứng nguyên vị trí. Ông Phó bảng nhìn con, giọng nghiêm mà ấm :

– Quan bác đã cho phép, con ngồi vào ghế.

Anh Ba bưng chiếc ghế lùi xuống một chút, không dám ngồi ngang hàng với những.người bề trên mình. Vị khách cảm mến sự lễ phép mẫu mực gia phong của anh. Ông khách ân cần mời anh uống trà. Anh Ba đỡ lấy chén trà trên tay vị khách. Ông Phó bảng giới thiệu với bạn :

– Cháu là Tất Thành, con thứ ba của tôi.

Ông cử miền Lục tỉnh gật gù nhưng mắt vẫn ánh lên sự băn khoăn khó hiểu về bộ quần áo vải thô và đôi dép “cu li” nhuộm vẻ phong trần của người thanh niên có khuôn mặt tuấn tú này. Anh Ba hơi bối rối. Ông khách vẫn nhìn anh Ba, và trong mắt ông lộ rõ niềm xúc động khó tả. Ông Phó bảng Huy giục con :

– Thành chuyên trà mời quan bác, con!

Anh Ba thay ấm trà cũ. Anh tráng ấm chén qua nước sôi và đang chuyên trà thì khách đã xin cáo lui :

– Xin phép quan bác, tôi còn ở Sài thành sẽ còn tới hầu chuyện quan bác. Giờ này để quan bác và cậu ấm bàn bạc việc nhà.

Ông Phó bảng đứng lên, tay chắp trước bụng. Ông cử nhân Lục tỉnh nhìn anh Ba, nói:

– Tôi đã kính mộ quan bác : một đại nhơn, đại đức. Nay tôi càng kính phục quan bác có một người con, đúng như cổ nhơn dạy : “Ty dĩ tự mục, khiêm nhi dũ quang, tiến đức tu nghiệp”. (93)

Ông Phó bảng chắp tay xá ông bạn và mỉm cười.

Anh Ba hơi bối rối về lời khen mình, anh lễ phép :

– Thưa bác, cháu cũng chỉ học hỏi theo người xưa là “Lập nghiệp thủy ư tu thân” thôi ạ. (94)

Ông cử đặt bàn tay lên vai anh Ba, nói giọng cảm phục :

– Cậu ấm ơi! Hậu sanh khả úy. Hậu sanh khả úy. Nhìn thấy cậu, tôi đã nói ngay với quan bác : một con người thành nhân trước khi thành nghiệp…

– Dà không dám, thưa bác, cháu chỉ là…

Anh Ba chưa nói hết điều định nói, ông cử đã chắp tay xá xá đi ra…

                                                                                          *****

Không khí trong phòng lặng ngắt. Ông Phó bảng Huy vẻ băn khoăn hỏi :

– Sao con vẫn còn quanh quẩn ở đây?

– Thưa cha, con sắp đi xa Tổ quốc. Con gặp cha lần này có lẽ… có lẽ… – Anh Ba rưng rưng nước mắt.

Ông Huy sắc mặt biến đổi, giọng hơi dịu :

– Con đi xuất dương đến nước nào?

– Dạ, con sang Pháp và có thể còn đi nhiều nước khác nữa để học hỏi…

– Đế quốc Pháp là kẻ thù của Việt Nam mình, sao con lại sang Pháp để mưu việc cứu nước?

– Dạ, thưa cha, con đã giãi bày với cha cái điều ấy từ hồi còn ở kinh đô Huế ạ.

– Bấy giờ con hãy còn thơ, vừa qua tuổi vị thành niên. Nay cha muốn biết được điều suy nghĩ của con ở tuổi hai mươi.

– Từ ngày con ngồi trên ghế trường Quốc học Huế, con học lịch sử nước Pháp, con chú ý nhiều về cuộc cách mạng 1789. Họ đã lật đổ chế độ vua quan phong kiến. Rồi con đọc sách, tìm thấy ở nước Pháp có tự do, bình đẳng, bác ái. Đặc biệt là coi trọng nhân quyền. Có tổ chức bảo vệ nhân quyền, gọi là Hội Nhân Quyền. Con muốn được nhìn thấy tận mắt cái nước Pháp có nhân quyền lại vừa là nước Pháp đi xâm lược các nước nhỏ yếu khác.

Ông Phó bảng chống tay xuống thành ghế, bước đến bên con trai. Anh Ba đứng lên, môi anh mím mím, sợ bật lên tiếng khóc. Ông Phó bảng đưa vòng tay khoác vào cổ anh Ba và đứng tựa bên khung cửa sổ rợp bóng trúc xanh. Ông nói :

– Thành à! Bây giờ cha mới thực tin con quyết chí ra đi. Con đi vì một mục đích lớn. Con có thể thực hiện được cái điều mà cha và lớp người như cha phải bó tay. Con ơi! (Anh Ba níu chặt cánh tay cha. Nước mắt của hai cha con nhỏ xuống khung cửa). – ông nói, giọng đằm thắm : – Xưa nay cha vốn ít nói. Với các con, cha càng ít nói nữa. Cha chỉ nói khi thấy không nói không được. Lần này là lần đầu mà cũng có lẽ là lần chót cha nói nhiều với con. Bởi cha con mình gặp nhau lần này, chưa biết rồi đây còn có dịp được gặp lại nữa không? Con đi xa nước, xa cha. Sinh ly có khác gì tử biệt, con! Có khi “nỗi đau tử biệt không bằng sinh ly”. Nhưng cha khóc lần này không chỉ vì đau buồn mà còn có phần tự hào về con nữa.

– Con biết, con đi xa, cha ở lại đây một mình…

– Đừng, con đừng nghĩ về cuộc sống của cha! – ông khoát tay, nói cao giọng. – Cha đang tự hào về chí lớn của con. Con phải gạt bỏ những tính toán bé nhỏ, tầm thường. Cha rất vui trong lòng về mục đích con đi tìm độc lập cho nước, tự do cho dân. Nhất là nhân quyền… Con nói tới hai tiếng ấy, cha nghe mà nao nao lòng! Cũng như vừa rồi, ông Diệp Văn Cương nói với cha lúc cùng ông Hồ Tá Bang ngoài Phan Thiết vô thăm các bằng hữu là : Hội Nhân Quyền bên Pháp đòi trả tự do cho ông Phan Chu Trinh. Cha lấy làm lạ vì những tên Pháp ở trên đất chúng ta thật đáng nguyền rủa, sao bên Pháp lại có nhân quyền, có Hội Nhân Quyền bênh vực cho cả người nước thuộc địa của họ. Con đi sang bên đó coi thực sự có nhân quyền không.

– Con cũng rất ngờ về những “nhân quyền”, “tự do”, “bình đẳng”, “bác ái”… e là những cái nhãn đẹp thôi, cha ạ!

– Có thể là như vậy. Ông Mạnh Tử nói : “‘Dân vi quý, quân vi khinh” (95) cũng chỉ nói để mà nói chứ chẳng là sự thật ở trên đời này. Nhưng con phải ra thiên hạ xem xem. Cha gẫm thấy từ thuở lập quốc tới giờ ở đất nước mình có rất nhiều vị anh hùng dân tộc chống giặc ngoại xâm, cả nước vô cùng oanh liệt, mà chưa từng có một vị anh hùng nào vừa cứu được nước thoát vòng nô lệ vừa đem lại tự do hạnh phúc cho nhân dân.

– Quyền lợi nhân dân có phần trong quyền lợi của Tổ quốc rồi cha?

– Tổ quốc, nhân dân tuy một mà là hai, con ạ. Nước độc lập mà chắc gì dân có hạnh phúc, có cơm no, áo ấm hả con. (96)

Anh Ba chớp chớp mắt để lắng vào tâm hồn mình lời cha tâm sự. Ông Phó bảng vẫn nhìn ra vườn xanh phất phơ bóng trúc, giọng trầm trầm :

– Cha nói với con về bát cơm manh manh áo và địa vị làm người của lương dân là điều mà cha đã nghĩ nhiều về nó…

Ông nén tiếng thở dài và bá vai con cùng đi quanh phòng. Anh Ba nén xúc động trước cử chỉ đặc biệt của cha mà suốt cả quãng đời niên thiếu anh chưa từng được thấy. Cho nên, anh đi sóng bước với cha mà lòng lâng lâng nghe cha nói như đang trong một giấc mơ :

– Nhân dân ta có một đặc tính quý vô giá, con ạ. Kẻ ngoại bang kéo đến dù là Hán, là Đường, là Tống, là Nguyên, là Minh, là Thanh… bất kể chúng nó mạnh, chúng nó đông mức nào, dân ta vẫn không biết sợ mà lo sao có một đấng minh quân biết đưa họ đi dẹp giặc cứu nước. Một khi giặc ngoại xâm bị quét sạch ra khỏi bờ cõi, các triều đại vua quan muốn đối xử với bất kể chính sách gì, dân mình đều nghe theo. Sống có trên, có dưới một lòng. Cả những khi nước nhà gặp phải ông vua bạo ngược, hoang dâm vô độ, dân mình cũng chỉ có than thầm, oán trộm. Cốt giữ sao đừng để sơ hở cho kẻ thù bên ngoài lợi dụng nhảy vào cướp nước. Tổ quốc là tài sản thiêng liêng nhất của mọi người dân. Nhân dân mình trung hậu vậy đó. Nhưng nước mình ít có ông vua thương dân, dành cho dân một quyền sống xứng đáng. Lê Lợi, từ một người bình thường ở xứ Thanh, trước cảnh nước mất nhà tan, ngài đã phất cờ tụ nghĩa ở chốn Lam Sơn. Sau ngài vào đứng chân ở đất Nghệ. Dân ta đã từng phò đấng minh quân, nuôi nghĩa quân, một lòng một dạ kháng chiến cứu nước. Nhưng lấy lại được độc lập, Lê Lợi lên ngôi làm Lê Thái Tổ, còn dân ta trước sau vẫn là :

Muôn dân một lũ cơ hàn,
Vua ngồi chễm chệ ngai vàng hiếp dân.

Nếu có được ông vua nhân từ, thỉnh thoảng đi vi hành, ghé thăm nhà dân là quý lắm rồi. Nhưng con ơi : Vua đến nhà dân vua được tiếng, dân mất buổi cày.

Anh Ba rót nước mời cha. ông Phó bảng uống ngụm trà nóng, mắt ông hướng về anh Ba. Ông nói, vẻ mệt mỏi :

– Cha luôn ngẫm nghĩ đến những gì bất công, nhưng cha, không thể làm được gì hơn. Cha chỉ còn có mong ở con, trút hết nỗi lòng với con như mẹ con đã bóc cái bánh trao tay con vậy. Cha yên tâm thấy con đã biết nhìn vào lịch sử của dân tộc, con biết nghĩ đến sự giải phóng nhân dân trong khi đi tìm đường cứu nước. Cha dặn thêm : Dân Nam ta sống nặng với nghĩa nước tình nhà. Cả làng chung nghe một tiếng trống đình: tiếng trống họp làng, tiếng trống thu thuế, tiếng trống tế thần, tiếng trống hộ đê, tiếng trống có cướp… Cả nhà ăn chung một nồi, đầu đũa chấm chung một bát nước chấm mặn, ngọt, cay, chua. Khi đi xa đất nước, con hãy nhớ hãy nghĩ về những điều bình thường ấy, con sẽ thấy trong tâm hồn mình cả một quê hương, cả một dân tộc… Thôi. Cha nói đã có phần nhiều lời, – ông đứng lên – mà cũng chỉ nói được với con lần này thôi. Từ nay con đi… đi vào tương lai. Cha từ đây thuộc về dĩ vãng (Anh Ba ôm mặt khóc). Đừng khóc lúc này, con! Phút quyết định đừng nhỏ lệ. Con nhìn cha xem. Mắt cha chỉ còn lại niềm tin đợi chờ nước độc lập, dân hạnh phúc. Đây – ông lấy cái ví lận trong lưng quần tai tượng. Ông nói, giọng khỏe : – Cha đinh ninh sẽ có một ngày con ra đi. Cha dành số tiền này để góp vào số lộ phí cho con lên đường. Số tiền tuy ít, nhưng là tiền cha ra vốn cho con… Sống phải có “tiền lưng gạo bị”, con ạ.

Anh Ba lau nước mắt, đỡ lấy tay cha. Anh thốt lên :

– Cha!

Ông Phó bảng ngăn lại :

– Đừng! Con đừng gọi cha lúc này! Con phải gọi : Tổ quốc ! Đồng bào ! Đi… đi con !

Những ngọn trúc quân tử ngoài vườn xanh gục đầu vào cửa sổ chiêm ngưỡng hai trái tim thương nước thương dân.

————

Chú thích:

(92) Chữ Hán có nghĩa là số chín
(93) Ý : lấy cái khổ cực để chăn giữ mình, khiêm tốn thì vinh quang, đức độ cao ắt lập được nghiệp lớn.
(94) Việc xây dựng sự nghiệp phải bắt đầu bằng sự rèn luyện bản thân mình.
(95) Dân là quý, vua là thường.
(96) Trong thư gửi cho các Ủy ban nhân dân, Hồ Chủ tịch viết : “Nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc thì độc lập không có nghĩa lý gì”. – “Những năm tháng không thể nào quên” của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, trang 80.

Hoàng Nhật Minh

Búp sen xanh – Chương III: Phần 4

TUỔI HAI MƯƠI

Thầy Thành với tên gọi giản dị – anh Ba – mở lớp học. Lớp học không có gì sang trọng cả, chỉ là căn nhà lụp xụp của ông già Đờn nép dưới bóng cây mận. Chính trong căn nhà này, trước đây trải chiếu làm nơi đánh bạc, nhậu nhẹt của anh em thợ thuyền, giờ đã đổi mới : cánh cửa kê làm bàn học, ở vách dựng lên một tấm ván thùng lượm ngoài cảng về làm bảng viết.

Tư Lê, Sáu Đen, Chín Mập… ngồi vào lớp học. Út Huệ ngồi riêng một bàn, gần tấm bảng đen. Ông già Đờn cũng nghỉ tay đàn lúc con em mình vào lớp. Ông già lắng nghe thầy giáo giảng bài.

Hôm khai giảng, anh Ba nói rất chân tình với những người học trò xóm thợ :

– Bọn cai trị dân bao giờ cũng đinh ninh cái điều : “Dân ngu dễ trị, dân trí khó chăn”. Cho nên, hễ ai quan tâm đến việc dân no cơm ấm áo, dân có chữ, dân hiểu biết là chúng triệt ngay. Vừa qua, trên khắp ba miền Trung, Nam, Bắc có các ông nghè, ông cử bị giết hại, bị đi đày Côn Lôn chỉ vì “tội” hô hào dân sinh, dân trí… Dĩ nhiên bọn thống trị phải duy trì cho dân có một mức sống chừng mực để tiếp tục làm ra của cải thì chúng mới đầy túi tham được. Và chúng phải mở trường học đào tạo những người có trình độ để làm tay sai cho chúng. Chúng ta là người thợ phải rõ cái điều ấy để có chí học, có chí làm những công việc ích nước, lợi nhà…

Được anh Ba khai tâm, anh chị em thợ thuyền học rất chóng biết mặt chữ. Anh chú trọng dạy cho anh em phát âm thật đúng từ lúc còn đang tập đánh vần. Và, anh nắn tay cho từng người tập viết chữ thẳng hàng, ngay lối, đủ nét, đều đặn và rõ rành. Anh cầm bàn tay từng người hướng dẫn cách cầm bút, đưa bút lên nhè nhẹ để nét chữ thoáng, kéo bút xuống nhấn tay để nét đậm, vạch tròn vành các chữ có “bụng” như a, d, đ, g, o, q… và cách đánh các dấu đúng vị trí của nó trong từng chữ. Lần đầu tiên anh cầm tay Út Huệ tập cho cô viết. Út Huệ xúc động, vạch nét nào nghều ngào nét ấy. Nhưng anh vẫn nhẫn nại giúp Út Huệ viết chữ đẹp.

Hằng ngày đi làm ngoài cảng, lúc sinh hoạt trong nhà giữa anh Ba và anh em thợ đều xưng hô thoải mái “mày mày”, “tao tao”. Nhưng lúc vào lớp học, ai cũng gọi anh Ba bằng thầy giáo. Tư Lê là trưởng lớp mà anh em gọi vui quen miệng : anh sếp lớp. Mỗi lần có bạn vắng mặt trong buổi học, Tư Lê đều đứng khoanh tay trước thầy nói rõ lý do. Ông già Đờn lòng như trẻ lại khi thấy lớp học ngày một nền nếp, ai cũng hứng thú học và kết quả ngoài cả sự tưởng tượng của ông. Ông vui nhất là đám thợ trẻ trong nhà ông không còn vùi đầu vào canh bạc và ẩu đả nhau vì sự được thua gian lận. Cả đến nhậu nhẹt trong mỗi kỳ lĩnh lương cũng đã giảm nhiều. Ông thấy căn nhà tồi tàn của mình và cả trong đầu óc mình như mở sáng ra mỗi khi tiếng anh em thợ tập đọc những trang sách chữ in mà anh Ba mua ở trên phố về. Anh Ba cũng mua cho ông cuốn truyện thơ “Lục Vân Tiên”. Ông học hết các chữ cái và tập đánh vần. Anh Ba dạy ông tập đọc qua sách “Lục Vân Tiên” mà ông đã thuộc lòng cả hai ngàn hai trăm bốn mươi sáu câu thơ của cuốn truyện này.

Ông tâm sự với anh Ba :

– Chú bắt đầu nhận thấy hình như trong mắt mình có chữ thì có lòng tự tin hơn và nhìn kẻ có quyền thế mình đỡ sợ hãi. Chú nghĩ vậy, có đúng hông thầy cháu.

– Bọn thống trị, những kẻ sống trên lưng dân, chúng nó muốn độc quyền sự hiểu biết. Chúng nó rất sợ dân có nhiều người biết chữ. Có chữ, đầu óc họ được mở mang, họ nhìn ra sự bất công thì chúng sẽ không ngồi yên trên lưng dân được. Mà chú Út ơi, – anh Ba giọng thủ thỉ – khi con người ta đã có học thì cũng sẽ có lòng tự trọng cao và biết sống sao cho đáng sống, biết cư xử giữa người với người, đỡ phần tăm tối, chú Út ạ.

– Ừ. Có vậy thiệt. Nói đâu xa, ngay ở trong cái nhà trệt nầy, từ hôm thầy cháu chia chữ cho người “cùng hội cùng thuyền” thì đám Sáu Đen, Chín Mập khác hẳn với ngày chúng nó chưa biết chữ. Ông cha nói đúng thiệt : “ăn vóc học hay”. Hay thiệt! Cái chữ cho con mắt còn cần hơn cả miếng cơm cho cái miệng vậy.

Chẳng bao lâu lớp học của anh Ba dạy trong nhà ông già Đờn, anh em thợ đến xin học đông không còn chỗ để kê bàn ghế. Và từ trong xóm thợ Bến Nhà Rồng giữa đêm dài nô lệ đã sáng lên một tiếng nói mới : Chữ anh Ba. Chữ anh Ba thắp sáng lên trong trái tim những người thợ…Hoàng Nhật Minh

Hoàng Nhật Minh

Búp sen xanh – Chương III: Phần 3

TUỔI HAI MƯƠI

3.1

Ba người ra khỏi ngõ hẻm, Út Huệ nói với cha :

– Xem chợ Tết, đừng để anh Ba đi bộ, cha ạ.

– Ừ. Tao cũng đã nghĩ cái việc đó. Con gọi xe tay đến, mau đi!

Anh Ba vẻ băn khoăn :

– Đừng gọi xe nữa, cô Út ạ. Ta đi bộ lên phố, đâu có xa là bao.

– Hừ, – ông già Huệ giục con gái – cứ gọi xe, Út! Lội bộ lên tới phố Sặc-nè, phố Mặc-má-hồng bở hơi tai rồi còn sức đâu mà đi coi kiểng Tết?

– Mình là dân thợ mà ngồi xe cho người khác kéo, coi bộ kỳ quá, chú Út ạ!

– Dêề – ông già phát bàn tay lên vai anh Ba. – Gì mà câu nệ vậy Ba? Cả tháng, cả năm chúng mình đã làm tôi tớ. Lúc năm cùng, tháng tận này chúng mình lên ngôi ông chủ, bà chủ ngồi xe, dạo ta phố mới vui chớ! – ông già hạ giọng : – Có kẻ còn dám chơi “nhứt dạ đế vương” cơ mà.

Anh Ba đành cười trừ. Ba người cùng bước lên xe ngồi : ông già và anh Ba ngồi trong thùng xe, cô Út Huệ ngồi dưới sà, nơi để chân của hai người ngồi trên. Lần đầu tiên ngồi trên xe kéo, anh Ba cảm thấy ngượng ngập. Ông già dặn :

– Lên tới chợ Bến Thành, Út đi sắm đồ rồi về trước. Còn cha với anh Ba mầy đi dạo xem bông (hoa), xem cây kiểng ở Sặc-nè (89), Mặc-má-hồng (90) đó nghe.

Út Huệ trước lúc nhập vào dòng người bên chợ Bến Thành còn dặn với cha:

– Đưa anh Ba đi coi bông Tết, ba nhớ về sớm kẻo ảnh mệt và con đợi cơm đó, nghe ba…

Anh rất đỗi ngạc nhiên giữa ngày giáp Tết mà nóng nực, mồ hôi như mỡ rán. Mắt anh ngợp trước những “núi” trái cây dọc chợ Bến Thành. Anh không ngờ về mùa đông, ngày Tết mà lại có nhiều dưa hấu như mùa hạ ngoài Bắc. Anh Ba tấm tắc :

– Chà… chà… trái cây cứ như củi lụt ấy. Vào đây cháu mới thấy được sự giàu có cửa đất Lục tỉnh, chú Út ạ.

– Sản vật của Lục tỉnh đưa về đây mới chỉ một phần thôi. Có dịp chú đưa cháu đi thăm miền châu thổ của Cửu Long Giang, cháu sẽ sướng cái mắt, mát cái bụng về một vùng đất đai giàu có của Tổ quốc mình. Tiếc là… tiếc là – ông già giọng bồi hồi – ở trên đời nầy hổng có được sự công bằng, nên chi giữa nơi của cải như núi vẫn có nhiều người phải chạy ăn từng bữa, cháu ạ.

– Dạ, – anh Ba giọng hồi tưởng – cha cháu thường nói cái điều chú vừa nói với các ông quan to mà cháu nghe lỏm hồi nhỏ : “Công bằng viễn lộ hà xứ thị”.

– Quan Phó bảng thân sanh của cháu nói vậy là cháu còn tin ở trên đời còn có công bằng, nhưng đến đó đường quá xa không biết nơi nào mà tìm.

– Cháu cũng nghĩ thế. Dù có xa mấy, chúng ta cũng phải tìm, phải xây dựng nên một xã hội công bằng, chú Út ạ.

– Hì hì… – ông già cười và phát lên vai anh Ba âu yếm. – Những đầu óc nhiều chữ thường tưởng tượng ra các thứ thiên đàng mê hoặc lòng người, cháu ạ. Chú cứ gẫm cái điều càn cạn đã thấy là : Nước lớn nuốt nước bé. Kẻ mạnh ức hiếp người yếu. Giống như bầy cá dưới sông dưới biển, như bầy thú trên rừng trên núi ấy…

Anh Ba định trao đổi thêm với ông già Đờn, nhưng không khí đường phố ngày Tết đã choán lấy anh. Những chậu cảnh với hàng trăm loại cây có dáng điệu dị kỳ và các thứ hoa Tết hút tầm mắt anh không rời nổi chúng…

Ông già Đờn chưa rõ anh Ba thích chơi hoa gì trong dịp Tết. Ông ướm hỏi :

– Cháu có ưa cắm cành mai ở bàn thờ Tết không?

– Tết năm nào nhà cháu cũng có một cành đào phớt cắm lọ để trên bàn thờ và một cành mai để ở án thư, nơi cha cháu khai bút đầu năm, chú ạ.

– Trong nầy hổng có cành đào. Chú cháu mình rước một cành mai về cho vui nhà ngày Tết, nghe cháu.

– Cháu cũng đang cố tìm một cành mai mà đâu thấy, chú?

– Trời… đất… ơi ! – ông già kéo dài giọng nói, chỉ tay về phía hàng hoa ngay trước mặt anh Ba. – Bông mai đây nè, kia kìa, vàng ngợp mắt mà cháu biểu hổng có.

– Cháu muốn tìm thứ mai khác, loại hoa mai vàng này cháu đâu còn lạ, thưa chú?

– Chứ từ nãy giờ cháu nói về loại bông mai nào?

– Dạ.. mai trắng. Ngoài quê cháu, hoa mai trắng chứ thứ mai vàng này thì ở Huế rất nhiều, chú ạ.

– Hóa ra chú cháu mình có lúc trò chuyện với nhau mà cứ như Tây nói với Tàu ấy hề. Hì… hì…

Cả hai người cùng cười. Ông già Đờn mua một cành mai chi chít những nụ chúm chím sắc vàng. Anh Ba đón cành mai từ trên tay ông già và nâng niu đưa về xóm thợ lúc thời gian chao đưa gấp gáp của ngày cuối năm…

Ba ngày Tết, những nỗi buồn về cuộc sống xóm thợ cứ đọng mãi trong tâm trí anh Ba : quanh năm họ ăn đói mặc rách, làm đầu tắt mặt tối dành dụm được đồng tiền, bát gạo thì dồn cả vào mâm cỗ ngày Tết. Làm mâm cỗ cốt để thi thố, còn ăn thì ít mà thiu thối đổ đi không thương tiếc. Thậm chí họ đi vay nợ, nhận khoán việc lĩnh tiền trước để có nhiều tiền chuốc rượu uống như uống nước. Và suốt ngày đêm họ đắm đuối vào canh bạc đỏ đen.

Sáu Đen, Chín Mập chỉ ăn cỗ tối ba mươi ở nhà ông già Đờn, còn suốt mấy ngày Tết, cả hai người vùi đầu trong sòng bạc. Anh Tư Lê thì ăn ít miếng, cùng anh Ba giúp Út Huệ dọn dẹp rồi ra cảng làm bốn tiếng, tiền công được gấp ba lần ngày thường, món tiền anh Tư Lê sẽ gửi thêm về Huế giúp mẹ chống đói giêng hai. Ông già Đờn ghét cái tệ cờ bạc, ông vùi đầu vào ngón đàn để quên mọi đắng cay. Ông chỉ kiêng đàn đêm giao thừa và sáng mồng một. Ông đi mừng tuổi, chúc Tết những người thân buổi chiều mồng một, còn nữa là vừa uống rượu vừa đàn. Ngón đàn say bao nhiêu, ông uống rượu vào nhiều bấy nhiêu và nước mắt lại đổ dài thấm ướt ngực ông.

Cô Út Huệ suốt mấy ngày trong bếp. Mặc dầu cha và các anh thợ “không gia đình” nương náu trong nhà mình ăn chẳng là bao, cô vẫn phải làm cỗ ngày hai lượt cúng mẹ và gia tiên. Những lúc ông già vừa đàn vừa uống rượu vừa khóc, Út Huệ nước mắt hoen trên má, giọng khẩn khoản:

– Năm mới xin ba đừng đờn những buồn, ba đừng khóc mà xui cả năm, ba ơi !

– Cuộc đời này có gì vui mà con ngăn ba đờn bài buồn, đừng khóc, hả con gái cưng của ba?

– Thưa ba, đời đã nhiều khổ đau thì nên “bán buồn mua vui” như lời anh Ba nói hôm mới tới nhà mình ấy ba.

– Ừ ừ Con muốn vậy thì cha đờn và ca cho con nghe câu ví von của anh Ba mầy nói.

Ông vặn lại dây đàn. Lời ca và tiếng đàn dìu nhau theo gió sớm trong ngõ hẻm :Măng…. dang… nấu… cá… ngạnh… nguồn… Đến… đây ta… phải… bán… buồn… mua… vui…

Lời ca, táy đan dứt, ông già nâng ly rượu nhắp từng hớp nhỏ, mắt đẫm lệ nhìn ra ngõ hẻm tối thui. Út Huệ tay nhào bột làm bánh, mắt đăm chiêu, má lúm đồng tiền như dấu chấm phẩy ẩn hiện, gợi dậy trên làn môi hồng một nụ bâng khuâng về câu ca dao của anh Ba mà cha mình đã thuộc làu và ca theo điệu hò Đồng Tháp.

Anh Ba ngồi bên cành mai sắc vàng rục rỡ. Anh xốn xang lòng về ngón đàn của ông già Đờn. Tay anh vẫn lục tìm trong chồng báo cũ, báo mới của Diệp Văn Kỳ đưa anh đọc dịp Tết. Anh hớn hở, mắt lấp lánh niềm vui đọc đi đọc lại mục quảng cáo trong báo : “Hãng tàu Nhà Rồng không chạy đường Sài Gòn – Ma-ni nữa mà chạy đường Sài Gòn – Tua-ran – Hải Phòng – Xanh-ga- po – Cô-lông-bô – Gi-bu-ti – Po Xa-ít – Mác-xây – Boóc- đô – Lơ Ha-vơ-rơ – Đoong-kéc”. Anh cuộn trang báo, cầm trong tay, mắt nhìn xa xăm. Ông già lại lên dây đàn ca tiếp :

Rồng chầu ngoài Huế… Ngựa tế Đồng Nai… Nước sông trong sao lại chảy hoài… Thương người nho sĩ. . . lạc loài… đến đây…

Anh Ba sững sờ về câu ca của ông già Đờn. Anh chạnh lòng bỗng nhớ về cố hương, nhớ ông già Xẩm mù hai mắt đã ca bài vè Đức ông trước mặt Phan Bội Châu, Vương Thúc Quý lúc tiễn cha của anh vào Huế học thi đại khoa. Lời bài vè ấy lúc này cứ văng vẳng trong tâm trí anh cùng với lời ca của ông già Đờn.

3.2

Tiết xuân mà nắng như dội lửa khắp mặt đất. Bến cảng Nhà Rồng bụi bay la đà như làn khói mỏng. Hơi nóng bốc hầm hập. Người, hàng, xe cộ tấp nập trên bến, dưới tàu. Nhiều dòng người khuân vác hàng từ kho xuống tàu, dài như đàn kiến dời tổ chạy lụt.

Sáu Đen và Chín Mập tiếp tục vác món hàng bốc dở của ngày hôm trước ở sân kho Hai. Ở sân kho Bốn, ông già Đờn lưng trần, đầu quấn khăn rằn, đứng thế chân chèo, một tay nắm đai, một tay đỡ giữa thân bao bì, ông nhún người về trước, lấy đà nâng gọn cả khối hàng nặng lên ngang tầm vai mình. Anh Tư Lê ghé vai đón lấy bao hàng nặng trĩu trên tay ông già, cõng đi xếp lên xe bò. Út Huệ ghé lưng tiếp vào đón lấy bao hàng ở tay cha. Anh Ba như bị tối mặt lại trước cái bao hàng quá lớn đè lên lưng Út Huệ mảnh mai! Anh rất mến phục Út Huệ; từ một cô bé con nhà giàu được cha mẹ nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa, vì gia đình sa sút, thân phận Út Huệ đã trượt theo với số phận của mẹ cha, nhưng Út Huệ đã cùng cha đứng vững dáng Con Người giữa cuộc đời khổ ải.

Đến lượt anh Ba, khoác ngoài tấm bao bì cũ, anh ghé lưng dưới tầm tay của ông già Đờn. Tư Lê mỉm cười khích lệ nhưng không giấu hết vẻ ái ngại cho anh Ba. Ông già Đờn vác bao bì lên vai mình lại đặt xuống đất vỗ vỗ bàn tay lên lưng anh Ba :

– Thiệt tình chú… chú cám cảnh cho cái lưng học trò của cháu?

– Dẫu sao – anh Ba nói – cháu vẫn là con trai, sức dài vai rộng mà chú. Cháu làm tới tới rồi cũng quen “ăn no vác nặng” như anh Tư Lê, anh Sáu Đen, anh Chín Mập, chú Út ạ.

Ông già Đờn lại vác bao tải đầy đặt lên lưng anh Ba, nói :

– Thầy cháu tự làm khổ mình. Thà như cánh nầy, đứa bị cướp ruộng, đứa bị thất cơ lỡ bước phải bỏ quê nhà ra đây chịu cảnh đầu lem đít lọ nầy.

Anh Ba đi hơi liêu xiêu những bước ban đầu. Út Huệ toan chạy lại đỡ giúp anh một tay. Nhưng anh Ba đã giữ được thăng bằng và bước đi vững chãi. Ông già nhìn theo anh Ba, mỉm cười tin tưởng. Tư Lê thở phào nhẹ nhõm. Út Huệ lưng na một khối hàng to hơn sức vóc của mình, đi bên cạnh anh Ba. Mắt cô ánh lên niềm xao xuyến, nhìn thấy những vệt mồ hôi đẫm ướt trán, tràn qua mặt, qua cổ và thấm ra lưng áo anh Ba. Cô càng xót xa thấy từng giọt mồ hôi trên trán nhỏ xuống mu bàn chân anh đang bị rộp lên vì đôi dép “cu-li”.

Trời về chiều, mặt sông Sài Gòn loang loáng vàng. Bụi khói quánh quện nắng chiều màu tro. Đám người như bầy cá quẫy trong dòng nước đục lờ. Cha con ông già Đờn và Tư Lê nhoai người đun chiếc xe bò chất ngất hàng do anh Ba đang tập cầm càng lê lết trước cửa sông hướng ra đại dương mù mịt…

Đêm cuối xuân trôi nhanh qua cảng Nhà Rồng.

Nắng lại xối nóng xuống khắp mọi nơi. Con sông Sài Gòn khác nào giống quái vật đang trườn dưới nắng, mà cửa cảng là mồm của nó đang há hốc đợi nuốt mồi đưa tới.

Một nhóm thợ lực lưỡng, có cả Sáu Đen, Chín Mập đang ken tay vào quay tời trước bến. Mặt họ đanh lạnh và những bắp thịt cánh tay nổi lên như sóng cuộn.

Anh Ba người ướt mồ hôi, lưng cõng kiện hàng cao. Mỗi bước anh đi, bàn chân chòe các ngón ra ngoài đế dép cao su. Đằng sau anh là ông già Đờn, Tư Lê. Đi trước anh là Út Huệ. Nhưng mắt anh vẫn hướng về những con tàu sắp rời bến ra đại dương… Chẳng may cái quai dép móc vào ngón chân trỏ bị tuột, mũi dép gập trái xuống đường, anh bị ngã. Hú vía! Cái thùng hàng trên lưng anh văng ra một bên. Anh nằm sóng soài trên mặt đất. Ông già Đờn hốt hoảng :

– Trời đất ! Ba… Ba… !

Tư Lê, út Huệ đặt vội kiện hàng xuống, chạy đến anh Ba. Tư Lê lại vấp ngã… Tóc Út Huệ sổ xuống, bay loả xoả ra đằng sau. Hai mắt như hai chiếc lá đào non sương đậu long lanh. Cô gọi líu cả lưỡi :

– Anh B… a sao vậy…. Anh Ba!

Ông già giọng bình tĩnh :

– Đừng rối lên Út.

Ông già bế anh Ba vào chỗ bóng mát. Mắt anh hoa đom đóm. Ông già và Tư Lê vội mở khuy áo anh, rồi xoa ngực, nắn bóp tay chân anh. Út Huệ dốc cả chai nước nguội vào tấm khăn rằn đắp lên trán anh Ba. Mái tóc dài từ đầu Út Huệ như dòng suối đổ xuống mặt anh Ba. Ông già cau mày rầy con gái :

– Mày vô ý quá vậy Út. Con gái phải gọn cái tóc cái khăn chớ.

Út Huệ bối rối, phân trần :

– Dà, con đâu còn khăn cột tóc nữa ba?

Anh Ba mở choàng mắt. Bất chợt anh có cảm giác gương mặt Út Huệ như một búp sen từ đầm sen quê nhà hiện đến.

Ông già bảo Huệ :

– Anh Ba mày đỡ đỡ rồi đó, con về trước lo cơm nước, còn mươi thùng hàng tụi tao ở lại hót gọn rồi về sau…

Sương chiều buông xuống từ bên Thủ Thiêm trắng đục mái rừng. Tiếng còi tàu rung rinh sông nước. Đứng lên, chưa hết choáng váng, anh Ba đi còn phải vịn vai Tư Lê trên đường về xóm thợ. Mắt anh vẫn ngoái nhìn đăm đăm về phía những con tàu viễn dương với bao hy vọng xa xăm…

Đêm xóm thợ ngột ngạt. Anh Ba đau người ê ẩm và nóng bức không ngủ được, trằn trọc…Tiếng trẻ con khóc thét khóc như khóc mớ… Tiếng người già ho khù khụ kéo dài từng hơi. Tiếng quạt muỗi phành phạch và giọng chửi đổng về cái nóng bức trời không gió phố không điện : “Nóng thấy mồ mà trời giữ gió để rồi làm bão tố hại người. Còn cái thằng chủ sở điện nó giữ điện để cung phụng cho bọn quan to, cho bọn đầu hói bụng bự rực mỡ ở trên các phố lớn chứ nó đâu có động lòng về cái cảnh sống của đám người ở cái xồm như ổ chuột này!…”.

Anh Ba cảm nhận lời chửi độc ấy không quá đáng. Cái bọn ở biệt thự có vườn cây râm mát, có sân cỏ rộng, không bụi bặm, không tiếng ồn lại còn quạt trần, quạt bàn… Còn đám dân nghèo thì chui rúc, nhận đủ các thứ bẩn thỉu tối tăm…

Anh Ba dậy sớm. Anh uống với ông già Đờn hết ấm trà. Anh Tư Lê, Sáu Đen và Chín Mập không thích uống trà – cả ngày làm ngoài cảng, tối về họ uống một chầu rượu say li bì, ngủ sớm. Những hôm lĩnh lương thì Sáu Đen, Chín Mập lại rủ nhau lăn vào sòng bạc.

Sáng nay, ông già Đờn, Tư Lê, Sáu Đen, Chín Mập tiếp tục ra cảng. Út Huệ nhận tiền của anh em thợ vừa lĩnh lương, cô ở nhà đong gạo và mua sắm một bữa ngon hơn thường ngày.

Anh Ba tranh thủ lúc trong người còn mệt, đi vào phố, tìm đến các ki-ốt (91) báo để đọc những quảng cáo, mục rao vặt và đến những ngã ba, ngã tư, thường gọi là bùng binh, cũng để xem các quảng cáo… Anh sốt ruột, tìm cách đi ra nước ngoài càng sớm càng tốt.

Anh đi phố mà lòng rưng rưng về câu nói với cha của Út Huệ “Con đâu còn khăn cột tóc nữa ba?”. Anh nhẩm lại món tiền dành dụm để lúc đi xa sẽ phải cần đến. Anh ghé vào cửa hiệu tạp hóa, mua một khăn rằn, một cặp khăn mùi soa. Anh thấy lòng mình hé lên một niềm vui nho nhỏ : Út Huệ sẽ có hai vuông khăn để thay đổi buộc tóc và tấm khăn rằn trùm đầu che nắng.

Anh còn mua thêm một bộ dây nhị và cái vĩ. Anh thương ông già Đờn mỗi lần lên dây nhị phải lừa lựa đoạn dây tơ không có nút nối và cái cần rung đã nứt dọc, ông phải lấy sợi đồng thau mảnh bó nén lại. Anh tự nhủ : Mình có quà cho cha con chú già Đờn mà chẳng có chút gì cho số anh em thợ ăn cùng mâm, ngủ cùng giường không đành lòng chút nào. Anh bước khoan thai đến quầy bán rượu mua hai chai Cô-nhắc. Anh cười thầm : Nói như chú Út Đờn cũng có lý : “Cả tháng, cả năm đã làm cu li, vậy thì chúng mình cũng có lúc xài sang như ông chủ, được lắm chứ”.

Trên đường về, anh Ba đi qua nhà sở cảng. Nhiều công nhân đến lĩnh lương đứng rải rác dọc vỉa hè, trong các quán nước. Cha con ông già kéo xe bị rơi bao gạo mà anh gặp hôm mới đến đây cũng đang đứng thẫn thờ ở một góc đường. Người con gái hỏi cha, vẻ thất vọng :

– Họ cúp lương, ta sống bằng gì, hả cha?

Ông già lắc đầu :

– Mẹ chúng nó. Chúng nó cúp lương chứ chẳng cúp được cái đầu này đâu mà sợ. Ta còn đầu, còn tay thì ta không thể chết đói ở trên mảnh đất này đâu, con ạ.

Anh Ba bước đến bên ông già, đặt vào bàn tay ông món tiền :

– Bác cầm tiêu tạm trong lúc gặp khốn khó. Gọi là của ít lòng nhiều, bác ạ.

Ông già cầm lấy tay anh Ba. Người con gái của ông mắt rưng rưng lệ nhìn anh. Ông già bị xúc động mạnh, giọng hơi lạc đi :

– Cậu là ai? Tên gọi…? Ở miền nào đến đây mà tốt bụng vậy?

– Dạ, thưa bác, là dân thợ với nhau thì phải biết thương nhau…

– Ồ! – ông già gật đầu – Là… là dân thợ với nhau… Ồ! Cảm ơn cháu. Cháu đúng là người trẻ mặt mà không non dạ.

Anh cúi chào hai cha con ông già, bước đi vội vã. Cha con ông già đứng tần ngần nhìn theo anh.

Anh Ba đi vào đầu ngõ thì Sáu Đen đi làm về chạy tới ôm choàng lấy anh :

– Trời đất ơi! Anh Ba sắm lễ để tết ai mà sang quá ta?

– Đâu có chuyện đó. Mình mua chút quà biếu cha con chú Út gọi là cái tình bấy lâu nay mình ăn ở trong nhà. Còn đây, – anh giơ hai chai Cô-nhắc lên – chúng mình sẽ nhậu với nhau tối nay, được chứ?

Sáu Đen nét mặt trở nên nghiêm trang, giọng chân thành :

– Anh Ba nè… (anh Ba hơi nghiêng đầu, đón nghe) Thiệt tình từ từ cái ngày anh đến ở với cánh này, kể cả cha con chú Út Đờn đến tên đầu bò là tui đều… đều nể anh như nể ông nội vậy đó.

Anh Ba khoát tay :

– Ấy chết! Đâu có gì mà đẹp lời cho nhau quá. Chúng mình sống với nhau chưa được là bao, nhưng anh em đã giúp đỡ tôi rất nhiều trong buổi đầu vào đời thợ…

Hai người đi khuất dần vào xóm.

Đêm yên tĩnh. Con đường ngõ hẻm mờ mờ ánh sáng từ ngoài cảng hắt vào. Bóng một vài người đi chậm rãi cất lên mấy tiếng rao rời rạc, nghe xa vắng: Lục… lục… tào… xaá… đêê.

Tẩm…tẩm… quất… tờ… rần… tẩm… quất… tờ rần…

Trong nhà, ông già Đờn đang vừa uống rượu, vừa thay dây đàn. Ngồi quây quần bên ông già là đám thợ trẻ, mỗi người có một kiểu ngồi không ai giống ai. Nhưng mặt người nào cũng có một nét vui giống nhau. Họ uống rượu của anh Ba mua về và nhắm với món thịt bò khô, cá lóc (cá quả) nướng trui quấn rau sống do bàn tay khéo léo của Út Huệ chăm chút.

Ông già Đờn thấm hương men ngà ngà say, ông sửa lại tư thế ngồi, cầm đàn so dây… Giọng ông ấm, trầm :

– Được. Thầy cháu đã lựa được bộ dây và bộ vĩ đàn vừa ý chú lắm. Được. Thầy cháu được đủ điều. – ông nâng ly rượu lên, mái tóc rung rung : – Nào, các bạn thợ trẻ, tụi mình cùng cạn ly rượu “lộc” của một người thợ mà ai cũng coi là bậc “hiền nhân ẩn sĩ”.

– Xin chú Út và anh em đừng bao giờ coi tôi là người ngoài giới thợ thuyền.

– Chúc mừng anh Ba. – Đám thợ trẻ và ông già Đờn cầm ly rượu cùng nói rộn ràng. – Chúc anh Ba của chúng ta vai vác nổi cả sơn hà, chân đi vững giữa đời không vấp ngã… Hề… Hề…

Không khí vui như ngày Tết.

Út Huệ ở trong buồng, ngồi trước ánh đèn, lật qua lật lại những vuông khăn, ngắm từng đường sọc, mép viền. Cô cột gọn tóc sau gáy, trùm tấm khăn rằn lên đầu ngắm vào gương, cười. Cô như bẽn lẽn với người trong gương, gí ngón tay trỏ vào lúm đồng tiền trên má mình nheo mắt tự “chê” mình. Phút chốc cô ấp cả tấm khăn lên ngực, mắt thẫn thờ lắng nghe tiếng tim mình hòa cùng tiếng đàn của cha : … Kéo neo… kéo… neo… tàu chạy… Gạt… nước… mắt… tiễn… đưa…Thương người… người… đi muôn… trùng… sóng… vỗ…

Tối hôm sau. Cơn mưa đầu mùa dữ dội mà mau tạnh. Con đường hẻm nước lênh láng. Bầu trời trong như gương lau bóng loáng khảm đầy ngọc, kim cương.

Ông già Đờn ngậm cái tẩu thuốc, khói ri rĩ nhả ra từng sợi trắng mỏng mảnh. Ông đang vót đũa bằng những thanh tre già.

Anh Ba ngồi đọc sách giọng đều đều cho Tư Lê nghe. Út Huệ ở trong bếp, dọn dẹp luôn tay, tai vẫn lắng đọng từng tiếng mới lạ từ anh Ba truyền đến. Thỉnh thoảng Út Huệ chau mày, khó chịu về cái âm thanh những đồng tiền va vào nhau trong bộ bát đĩa của nhóm đánh bạc ở góc nhà. Sáu Đen và Chín Mập ngồi chen chúc vào đám con bạc. Họ ngồi xổm như cò đậu lúc bị mưa. Mặt người nào cũng chằm chằm hướng vào cái bát úp lên cái đĩa, trong đó có bốn đồng tiền được sơn một mặt trắng bằng vôi. Cứ mỗi lần người “cầm cái” của sòng bạc bưng đĩa bát xóc một chặp, đặt xuống chiếu thì mắt mọi người đều ánh lên sự tính toán, ăn thua, tay không yên : bứt tóc, sờ tai, gãi gáy. Họ móc tiền trong túi ra đặt xuống chiếu. Rồi những tiếng “chẵn”, “lẻ” được xướng lên ỏm tỏi.

Anh Ba ngừng đọc, đang giảng cho Tư Lê nghe một câu trong sách. Bỗng một tiếng “choàng”, bát đĩa bị ném xuống nền nhà vỡ tan làm nhiều mảnh, cả bốn đồng tiền văng đi đâu mất. Lão “cầm cái” văng tục : “Đù… mẹ vào chơi nữa. Đồ con heo! Đồ con heo ráo…”.

Ông già Đờn ngừng tay vót, đảo mắt về phía chiếu bạc. Út Huệ dưới bếp chạy lên, vẻ mặt ngao ngán, quay trở vào. Đám con bạc nắm tay trợn mắt, sừng sộ đứng lên chực ẩu đả. Anh Tư Lê chạy đến giữ lấy tay Chín Mập. Sáu Đen chửi tục :

– Đồ chó ! Đồ ăn gian ! Đồ mặt nạc đóm dày !…

Ông già Đờn nặng giọng :

– Tụi bây hổng còn ra trò lối chi nữa. Đứng là cờ gian bạc lận, táng tận lương tâm…

Nghe tiếng ông già nói, đám con bạc đã khựng lại nhưng mắt họ còn như bốc lửa. Anh Ba đến ngồi vào giữa đám thợ, nói từ tốn :

– Chúng mình cùng cảnh người đói khát với nhau. – Bàn tay anh Ba vỗ vỗ trên vai áo vá Chín Mập. Mặt mọi người dịu xuống, có người gục đầu xuống vòng tay bó gối. Anh Ba vẫn giọng buồn buồn : – Còn có kiếp người nào khổ hơn kiếp đời thợ chúng mình? Ông chủ người Tây, ông chủ người Nam và các thầy đốc, thầy cai đè nén, hành hạ chúng mình. Chúng mình làm việc gò xương sống, vẹo xương sườn, mà còn bị đòn roi, đá đít bạt tai chẳng khác gì thân trâu ngựa. Vậy mà miếng ăn, cái mặc, nơi ở của chúng mình thử hỏi có hơn kiếp con vật là bao nhiêu!

– Hơn con vật được đôi đũa lúc ăn. – Sáu Đen nói chen vào.

Anh Ba nhấn giọng rõ từng tiếng :

– Chúng mình khổ cực vậy đó. Sao lại không thương nhau, đùm bọc lấy nhau mà còn làm khổ lẫn nhau, lao vào nạn cờ bạc, cướp giật nốt của nhau đồng lương khốn nạn?

Một anh thợ đã đứng tuổi, mặt lầm lì:

– Không đánh bạc thì làm cóc gì cho hết những cái buổi tối nầy?

Mọi người quắc mắt giận dữ nhìn anh chàng văng tục. Sáu Đen đứng phắt dậy, giơ nắm đấm, nhưng anh Ba đã kéo tay anh ta ngồi xuống. Sáu Đen chưa hết nóng :

– Tống cổ cái đồ con heo ra khỏi nhà này.

– Sao các cậu cứ ưa nói cục súc với nhau như vậy. – Tư Lê gắt.

Út Huệ từ dưới bếp nhìn lên phía anh Ba, vẻ ngượng ngập. Ông già Đờn giọng khoan thai :

– Từ nãy tao hổng buồn nói với tụi bây vì tao nể anh Ba Nghệ đang ngồi ở đây. Mà tao có nói cũng bằng thừa. Một lời nói của anh Ba là một gói vàng mà tụi bây hổng hiểu chi trọi. Thiệt là “Cầm đờn mà gảy tai trâu. Gảy bao nhiêu lại thêm đau tiếng đờn”.

Anh Ba ôn tồn :

– Tôi nghe anh em nói : không có việc gì làm cho hết những buổi tối, ngày chủ nhật rảnh rỗi, do đó sinh ra đánh bạc, vùi đầu vào nhậu nhẹt. – Anh nhìn từng gương mặt nặng trĩu, lầm lì, nói : – Nếu anh em muốn những cái giờ vô vị ấy trở thành có ý nghĩa, tôi vui lòng dạy chữ cho anh em học.

– Thiệt vậy, anh Ba? .- Sáu Đen vui sướng đứng bật dậy.

Mọi người nhìn anh Ba với những cặp mắt lấp lánh niềm hy vọng, giọng xuýt xoa :

– Chà chà! Được anh Ba chia chữ cho bọn này thì còn gì quý hơn!…

Ông già Đờn cười :

– Phải vậy mới có ý nghĩa là được ở gần với người hiền sĩ chớ! “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng” mà.

Út Huệ ngấp ngó trước cửa bếp, hai mắt ánh lên niềm vui thầm kín và hai lúm đồng tiền hiện rõ làm rạng rỡ thêm gương mặt búp sen…

————

Chú thích:

(89) Phố Nguyễn Huệ bây giờ
(90) Đường trước nhà thờ Đức Bà
(91) Quán (bán sách báo)

Hoàng Nhật Minh

Búp sen xanh – Chương III: Phần 2

TUỔI HAI MƯƠI

2.1

Từ những ngày đầu đến Sài Gòn, anh Ba luôn luôn tìm hướng đi ra một phương trời xa khác để thực hiện ước mơ lớn, nhưng anh vẫn canh cánh bên lòng việc đi tìm gặp cha. Anh đinh ninh cha mình đã rời huyện đường Bình Khê vào Sài Gòn từ ngày anh còn dạy học ở Phan Thiết.

Một ngày chủ nhật, anh tìm đến nhà Diệp Văn Kỳ, người bạn chí thân từ tuổi tóc trái đào ở Huế. Diệp Văn Kỳ bàng hoàng khi gặp lại Nguyễn Tất Thành và thốt lên :

– Ô! Ai như… anh Thành? Anh Nguyễn Tất Thành!

– Thành đây. Kỳ đã không nhận được ra mình kia à?

– Trời… đất! – Diệp Văn Kỳ dài giọng. – Nếu hổng có hai con mắt sáng như sao thì đã lầm anh là một cha cu li rồi! Chứ ai đày đọa anh mà dữ vầy?

– Mình. Mình tự nguyện đến với cuộc sống này.

– Không hiểu nổi! Thầy, một bậc đại khoa, bỏ quan trường làm ông lang đi lang thang ở các hiệu thuốc bắc. Anh, một cậu ấm con quan, một học trò của “Thiên đường trường học” Huế, một thầy giáo trường Dục Thanh, tự nguyện làm “cu li” để rồi đi đến đâu?

– Đi đến chân trời mơ ước. – Anh Ba vừa cười vừa nói.

Diệp Văn Kỳ cũng bật cười theo, nhưng vẫn chưa hết ngạc nhiên :

– Cái chân trời mơ ước! Mơ ước của anh để rồi làm một đức Chúa hay đức Phật của thời đại mới hay sao mà anh phải đổi giá tu luyện đắt dữ vậy?

– Làm người trung chính ở giữa cái thế gian này còn chưa ăn nhằm gì huống hồ mơ làm một thứ siêu nhân nào đó vô nghĩa anh ạ.

Qua cái phút bất ngờ, Diệp Văn Kỳ bình tâm lại:

– Anh Tất Thành à. Với tình bạn thiêng liêng, Kỳ hỏi thiệt, thâm tâm anh đã dứt việc học, quyết đi làm nghề thì tôi sẽ lo liệu được nơi làm đáng để anh đua tài chứ không thể chịu cái bề anh đi làm “cu li” vầy được. Nhất là thầy thầy mà biết anh tự đày đọa mình kiểu này, lòng thầy buồn phiền biết chừng nào…

– Không sao đâu, anh Kỳ ạ. Cha tôi đã từng dạy anh em tôi: “Ở đời nghề nào cũng tốt, không có nghề xấu mà có người xấu, có người tốt. Ông quan tham nhũng của dân là kẻ bất nhân. Người lặt phân bón ruộng, người đốt than trên ngàn kiếm sống đều là những người lương thiện”. Tôi muốn được gặp cha, thăm sức khỏe và chuyện trò với cha ít phút, anh ạ.

– Được rồi. Ở đây dùng cơm trưa xong tôi đưa anh đến chỗ thầy ở. Giờ này thầy còn khá bận với đám khách đến xin thầy bắt mạch, cho toa (đơn thuốc).

– Tôi vừa ăn cơm xong. Hôm khác tụi mình sẽ vui “tẩy trần” một bữa với nhau mà.

Kỳ phủi phủi bụi trên vai áo cho anh Ba, giọng trìu mến :

– Hiện thời anh ở đâu vậy, anh Thành?

– Tôi ở xóm thợ, gần Bến Nhà Rồng. Ờ mà… vô đây tôi không còn gọi tên Thành nữa. Gọi là Ba, nghe thuận hơn.

– Phải rồi. Người trong này ưa gọi bằng thứ hơn là gọi tên lót ổ, anh Ba ạ. – Kỳ như chợt nhớ ra : – Ờ nầy, anh là con thứ ba của thầy thì phải gọi là Tư chứ?

– Tôi nhận kết nghĩa anh em với một anh thợ ở Bến Nhà Rồng. Anh là Tư, tôn tôi lên là Ba, anh Hai ạ. – Anh Ba gọi thân mật Diệp Văn Kỳ.

– Hì hì… – Kỳ cười giòn : – Ai đã gặp anh là dính như thép gần đá nam châm vậy. Ngay cái ngày còn chơi trong sân cỏ thành nội Huế, hễ vắng anh là cả buổi chơi ấy tẻ ngắt. Anh còn nhớ có dạo Công tôn nữ Huệ Minh đã ghen tị với tôi vì được anh kết thân hơn không?

Anh Ba cười :

– Cái thời trẻ con ấy sao nhiều thú vị và trôi qua mau ghê. Ngày chúng mình gặp nhau lần đầu, mới đó mà đã mười bốn, mười lăm năm rồi!

– Gần đây – Kỳ hỏi – anh Ba có gặp Công tôn nữ Huệ Minh không?

– Lúc còn nô đùa trên sân, cùng đuổi bắt chuồn chuồn, bắt bướm ngoài vườn nó khác với khi đã là cô gái có bao nhiêu bức tường ngăn cách! Hơn thế, Huệ Minh là hàng công tôn, chúng mình phải biết dừng bước trước những bậc thềm chênh lệch, anh Hai ạ.

Hai người im lặng, cùng hồi tưởng về một thời thơ ấu trong thành nội. Kỳ tâm sự.

– Ba má tôi đã muốn cột tôi vô cái “xiềng” gia thất, anh Ba ơi!

– Chắc hai bác… “nhắm” Hạnh cho anh, phải không?

– Trời đất! Anh Ba tài quá ta!

– Có gì là tài Ngày còn ở kinh đô Huế, mỗi lần tụi này đến chơi đằng nhà anh, hai bác khen Hạnh hết lời. Còn anh thì ba má của Hạnh cưng quá trời mà!

– Anh Ba nè, – Kỳ dè dặt – hoàn cảnh của tôi, việc lập gia đình sớm hay muộn cũng chỉ là theo lẽ thông thường. Còn anh… tôi rất xót xa mỗi bận trông thấy thầy sống vất vưởng một mình. Cha tôi đã nhiều lần mời thầy về dạy học, nhiều người đã nghe danh tiếng của thầy. Nhưng thầy chối từ. Thầy thích đi lang thang đến các hiệu thuốc Phúc Sinh Đường, Tam Thiên Đường, Thiện Phúc Đường… để coi mạch cho các con bệnh. Ai đưa cho thầy bao nhiêu tuỳ lòng. Mà thầy cũng chỉ lấy đủ tiền ăn của ngày hôm đó, còn ai đến sau thầy chỉ coi mạch giùm. Người ta đồn : “Quan Phó bảng Huy sống như chim, nay ăn trái cây ở rừng này, mai ăn ở rừng khác, không để dành của cải cho ngày sau…”. Cảnh tình của thầy như vậy, thiết tưởng anh phải lập gia đình sớm để thầy…

– Chết chửa! Không ngờ, – anh Ba vẻ ngạc nhiên – không ngờ anh Hai mà cũng nghĩ rằng cha tôi đợi con cái lập gia đình để có nơi nương tựa?

-Nè anh Ba! – Kỳ siết chặt tay anh Ba. – Tôi hiểu nhơn cách của thầy, của anh lắm chớ. Địa vị, tiền tài, thầy coi các thứ đó là đồ bỏ đi. Thầy đã từng dạy :

Nhân sinh nhược đại mộng
Thế sự như phù vân
Uy thế bất túc thị
Xảo hiểm đồ tự hại
Giới chi! Giới chi!
(86)

– Sao anh còn khuyên tôi lập gia đình sớm?

– Tôi biết không có một thứ sức mạnh nào ngăn nổi chí hải hồ của anh. Cho nên tôi bàn với anh cái kế lấy vợ để có người thay anh săn sóc cha già thì anh mới yên cái bụng mà lo việc lớn được.

– Thiệt không ngờ… thiệt không ngờ – anh Ba ôm lấy vai Kỳ vừa cười nói, vừa lắc lay – anh xui dại tôi đi làm cái việc dã man ấy.

– Trời… đất… quỷ thần ơi ! Sao lại coi việc lập gia đình là “làm cái việc dã man”, anh Ba?

– Lấy vợ thì phải làm tròn cái nghĩa, cái tình chồng vợ chứ lại bắt người ta thay mình gánh vác mọi việc để mình rảnh chân bay nhảy! Làm như vậy là cột một người con gái vào cái cửa buồng nhà mình. Dã man quá chứ, anh Hai!

– Thì ông già bà già tôi cứ biểu tôi : “Muốn học lên các lớp trên hay đi du học đều được hết. Nhưng phải cưới vợ cho có đôi có lứa đã”. Bà già tôi còn nói : “Con trai có vợ như con thuyền có bến”. Tỉ như :

…Anh lấy em về lo liệu trăm đường
Để anh buôn bán trẩy trương tung hoành.
Cha mẹ già em săn sóc thay anh…

Anh Ba giọng nghiêm, buồn buồn :

– Quan nhiệm về đường hôn nhân của các cụ, ta coi trọng nó thuộc về thời đại của các cụ. Nhưng, chúng mình phải biết chọn lựa cái gì hay thì học, chứ không thể nào lại làm theo cái cũ kỹ của ngàn xưa ấy được.

– Anh Ba đã nói đến vậy, tôi càng chịu cái sự nhìn xa, trông rộng của anh. Vậy ra anh… – Kỳ chùng giọng – anh đi tìm gặp thầy là chỉ cốt để thăm sức khỏe của thầy…

– Cha tôi mong tôi đi xa, làm nên việc ích nước lợi nhà. Người không ưa con cái bằng lòng với cuộc sống nhỏ hẹp, Người càng ghét sự bịn rịn, sự yếu đuối trong tình cảm. Dù vậy, tôi còn ở đây ngày nào là còn tìm đến thăm cha, anh Hai ạ.

– Thầy không ở một chỗ nhất định. Nơi thầy thường lui tới nghỉ ngơi, là chùa và lữ quán (87) Nam Đồng Hương ở đường A-mi-ran Cuốc-bê. Anh đợi lúc chiều tối đến những nơi đó, đừng đến tiệm thuốc bắc gặp thầy, không tiện lắm.

– Tôi cũng nghĩ thế…

2.2

Thành phố lên đèn. Những người không gia đình đủ hạng tuổi, nằm, ngồi trên hè phố ngổn ngang, nhếch nhác. Một vài người giành chỗ tốt đang cãi nhau om sòm. Có người nằm gối đầu lên một khúc gỗ thường kê hàng, chân gác vắt vẻo lên thùng hàng, ca một giọng ca buồn nẫu ruột…

Anh Ba rẽ vào con đường Cuốc-bê. Hai ba cô gái từ trong bóng tối, dưới mái hiên đi ra đón mời : “Em mời thầy Hai… mời thầy Hai vô chỗ em… Xài tốt mà hổng mắc tiền… Đi với em nghe thầy Hai…” Anh Ba ớn xương sống, suýt co chân chạy khỏi đám gái giang hồ. Nhưng thấy có nhiều người đi qua đi lại, anh trấn tĩnh được và lẳng lặng bước đến lữ quán Nam Đồng Hương.

Một ông lão ngồi coi hàng ngay trước cửa thấy anh Ba ăn mặc quần áo đặc sệt dân “cu-li”, liền xua tay :

– Quan Phó bảng tối nay không về đây nghỉ. Chắc chú mày đến mời quan đi coi mạch cho người bệnh hả?

– Dạ, không ạ. Cháu đến thăm sức khỏe của ông Phó bảng Huy thôi ạ.

– Chú mày quen quan Phó bảng à?

– Vâng ạ.

– Tối mai hãy đến nghe. Tao sẽ thưa trước với quan Phó bảng cho. A! Mà tên chú mày là gì?

– Tên cháu là Thành ạ.

– Làm thợ ở hãng nào đó?

– Dạ… cháu làm ở Bến Nhà Rồng ạ.

– Khá heng. Trông người như học trò mà chịu chơi cái nghề phu bốc vác là có chí anh hùng đó chớ.

– Cháu cảm ơn ông, cháu xin đi ạ.

– Rồi… Rồi. Tối mới đến đây gặp quan Phó bảng Huy, heng.

Cả đêm nhớ cha, anh Ba trằn trọc cho tới sáng hôm sau. Anh không đợi tối mới đến lữ quán Nam Đồng Hương tìm cha. Anh nghỉ việc buổi sáng, đi thẳng đến hiệu thuốc bắc Tam Thiên Đường, tại đường Đét-xpa- nhơ (d’Espagne). Anh đi đã khá sớm mà lúc tới nơi, người bệnh đợi xin đơn thuốc trước cửa hiệu thuốc đã đông rồi. Anh Ba đứng khuất trong đám người bệnh, ông Phó bảng Huy mải xem mạch, không thấy được người con trai thứ hiện đã có mặt ở bên ông. Hai mắt anh cứ muốn trào lệ khi nhìn thấy hình hài cha tiều tụy, chiếc áo năm thân sờn vai, vá hai miếng ở cùi chỏ, quần tai tượng (88) chỉ dài quá gối, chiếc khăn rằn cũ vắt qua vai. Ông ngồi ở cái ghế đẩu, bên cạnh là chiếc bàn độc nhỏ để nghiên mực, giấy bút. Ông xem mạch xong quay sang phía bàn viết đơn thuốc; bệnh nhân tự đưa đơn vào quầy hàng cân thuốc, thanh toán tiền với chủ hiệu Tam Thiên Đường.

Anh Ba đợi một lúc lâu lâu, nhân khi người đến khám bệnh đã vãn, anh bước đến bên cha. Ông Phó bảng Huy nhìn lên. Anh Ba xúc động :

– Cha! Cha!

– Thành… Thành đó à! – ông đứng dậy. – Con vô đây từ bao giờ?

-Thưa cha, con mới vô ạ.

Ông chỉ tay về chiếc ghế mà bệnh nhân thường ngồi để ông xem mạch :

– Con ngồi xuống đó !

Anh Ba nhấc ghế chếch sang bên cạnh cha và ngồi xuống. Anh vẫn còn chưa hết xúc động, giọng còn hơi run :

– Bấy lâu sức khỏe của cha… có được…

– Con đừng bận tâm về cha. Cha mong đợi ở con những điều khác chứ không phải mong đợi sự săn sóc của con. – ông hỏi đột ngột : – Hôm nay con đi đâu mà ghé lại đây?

Mắt anh Ba rơm rớm lệ :

– Con đi tìm cha ạ.

– Nước mất, con lo tìm đường cứu nước. Con tìm cha lúc này chẳng có nghĩa lý gì.

Anh Ba hai mắt lấp lánh nỗi đau nhìn mái đầu cha đã ngả màu tiêu muối :

– Thưa cha, con không bao giờ dám sao lãng lời cha dạy, cha ạ.

Anh Ba định nói thêm với cha về dự định những công việc của mình thì một ông già mặc bộ đồ lụa tơ tằm màu mỡ gà rộng thùng thình, chống gậy trúc bước đến, lễ độ thưa :

– Bẩm quan lớn!

Ông Phó bảng ngạc nhiên nói :

– Tôi còn đợi quan tài chứ có còn đâu cái quan lớn, quan bé nữa mà quý ông thưa với bẩm.

Anh Ba đứng lên nhường ghế cho ông khách. Ông Phó bảng chìa tay mời :

– Xin quý ông ngồi tạm. Ông già vẫn giữ lễ phép :

– Bẩm quan! Đã là quan thanh liêm thì dù chỉ ngồi ở ghế quan trường một ngày cũng để lại tiếng thơm trong lòng dân mãi mãi không hề phai. Kẻ tham nhũng thì dù dang ngồi trên nóc nhà quan, dân đã hạ xuống gót giày đi giữa thế gian. Với lòng kính mộ quan Phó bảng cho nên kẻ lẩn thẩn này mới dám nói những lời sỗ sàng ấy.

– Thưa quý ông, – quan Phó bảng Huy sửa lại cổ áo, nói – xin hẹn ông sáng hôm sau tới đây tôi sẽ xem lại mạch và trở đơn, giờ thì tôi đang có chút việc bàn với con trai tôi.

Ông già nhìn anh Ba :

– Ồ! Chào cậu ấm.

– Cháu không dám. Cháu đã chào cụ ban nãy ạ. – Anh Ba đáp lại.

Ông già nói khoan thai :

– Thưa quan Phó bảng, tôi đến yết kiến quan xin được biết nhà để đưa chút lễ bạc lòng thành đến tạ ơn quan đã chữa cho tôi, con gái tôi khỏi bệnh.

– Cảm ơn ông đã có tấm lòng nghĩ đến tôi. Nhưng, xin ông miễn cho kẻ hàn sĩ này cái việc lễ lạt ấy. Nước mất, tôi đâu còn nhà nữa! Cha con tôi sống nay đây mai đó, ông ạ.

Nghe cha nói với ông già, anh Ba hơi cúi đầu, bàn chân anh gí mũi dép xuống đất, hai mắt anh nhiễu lên những tia đom đóm muôn màu.

Ánh nắng xẻ dài đường phố. Bóng cây in xuống bên đường nơi anh Ba đứng.

———–

Chú thích:

(86)Đời người như giấc mộng lớn
Việc đời tựa mây trôi
Uy thế không đủ để cậy
Gian trá là tự hại mình
Răn đấy! Răn đấy!
(87) Quán trọ
(88) Kiểu quần cạp rộng, có hai má như tai voi để thắt thay dây

Hoàng Nhật Minh

Búp sen xanh – Chương III: Phần 1

TUỔI HAI MƯƠI

1.1

Thuyền chở hàng của Tư Lê từ Phan Thiết trở về Sài Gòn lúc đêm khuya. Mặt sông loang loáng bóng đêm, thành phố đèn điện sáng như sao sa. Anh Ba ngỡ ngàng hỏi :

– Đèn để sáng suốt đêm khắp các phố phường hả anh Tư?

– Dà… đèn đường thắp từ chạng vạng đến sáng ngày hôm sau đó, anh Ba.

– Thảo nào mà trên các báo họ không ngớt khoe : “Xứ Nam Kỳ trực trị” của nước Đại Pháp và “Sài Gòn là thành phố văn minh chẳng kém thành phố của các nước trên thế giới”.

– Tôi chưa được ra Hà Nội nên không rõ ở ngoài mở mang cỡ nào, chứ Huế vô đây thì Sài Gòn là thành phố Tây hóa số một, anh Ba ạ. Sớm mai về nhà chú già Đờn, sau đó tôi đưa anh đi coi phố. Giờ anh chợp ngủ lấy một lúc kẻo mệt, nghe anh Ba.

Đêm mùa khô, nằm trên sông nước Sài Gòn, anh Ba cảm thấy mát dịu như nằm trước cửa bể Phan Thiết đêm hè. Anh không có cảm giác một chút nào cái khí hậu mùa đông. Sang tháng mười, ở ngoài xứ Nghệ dịp này đã rét, gió Đông Bắc tràn về. Anh ngẫm về những lời Tư Lê nói : Sài Gòn không có thời tiết bốn mùa xuân, hạ, thu, đông, mà chỉ có mùa mưa và mùa khô…

Một đêm khô qua đi nhanh chóng. Một Sài Gòn trần trụi, ồn ào bày ra và choán hết tầm mắt anh Ba. Trên lối về nhà ông già Đờn, Tư Lê đưa anh Ba qua bến cảng Nhà Rồng. Một sự xôn xao mới dấy lên trong tâm trí lúc anh Ba nhìn thấy những con tàu viễn dương sừng sững đậu trước cửa sông, nhả khói trắng lên bầu trời. Anh Ba níu lấy bàn tay Tư Lê, dừng lại ngắm những con tàu mà anh cảm thấy như từng dãy phố nổi nối nhau dằng dặc dài. Đằng mũi, sau lái con tàu hai cột buồm cao ngất nghểu, những dây chằng như bộ rễ cây đa cổ thụ cắm xuống đất sâu. Giữa tàu đột khởi lên một hình khối giống như một tòa nhà nhiều tầng mà nóc của nó là cái tháp chuông.

Anh Ba giọng bâng khuâng :

– Loại tàu cá mập này tuồn vào bụng nó vô số là người, là của, anh Tư nhỉ.

Tư Lê chỉ tay khắp cảng :

– Anh Ba coi, mọi sản vật ở xứ mình đều được đưa về đây để tuôn vô cái bao tử (dạ dày) loài cá mập ấy đó.

Anh Ba nhíu cặp lông mày, trước mắt anh hình ảnh những người thợ già thợ trẻ phụ nữ, trẻ em đông như kiến cỏ, quần áo bê bết đất cát, mồ hôi tràn qua mặt, đầm đìa xuống cổ cháy đen, và trên lưng họ những kiện hàng cao chất ngất.

Anh cảm thấy xót xa lúc một ông lão quấn chiếc khăn rằn, bộ râu sém nắng dài xuống ngực, cả đến cặp lông mày cũng bị nắng táp vàng hươm, mắt ông như muốn lồi ra mỗi lần ông gò lưng kéo chiếc xe bò chất đầy những bao bì căng như bụng bò chửa. Một thiếu phụ khoảng ngoài ba mươi tuổi đẩy sau xe ông lão. Vấp phải một đoạn dây xích, bánh xe bị kênh nghiêng, một bao bì trên nóc xe lăn bịch xuống đất, đứt dây khâu, gạo đổ vung ra. Người thiếu phụ la : “Bể bao rồi, ba ơi!” Hai cha con ông lão hót vội gạo vào ban. Anh Ba và Tư Lê cũng chạy đến giúp một tay. Người thiếu phụ má ửng đỏ mắt e thẹn không dám nhìn thẳng hai người lạ giúp đỡ cha con mình. Ông lão vừa chạm bàn tay hót gạo, vừa nói :

– Ơn hai thầy quá. Thầy Hai coi nì… – ông vừa nói vừa chỉ tay về phía con tàu. – Mẹ chúng nó! Gạo xứ mình, chúng nó hết về nước chúng nó.

Một gã cao lớn, cầm gậy song uốn cong cổ hạc, mặt hằm hằm sấn đến, nói giọng Bắc :

– Đồ chó đẻ! Đồ chó đẻ! Chúng mày làm ăn thế này, ông sẽ cúp lương đừng có kêu oan.

Người thiếu phụ phân trần :

– Lỡ ra chớ ai muốn vầy mà thầy Hai la lối dữ vậy.

Tên cai giơ gậy dọa :

– Lỡ lỡ cái tổ cha chúng mày.

Người thiếu phụ lùi lùi, lưng tựa vào xe, đầu đụng phải đống bao, búi tóc bị sổ xuống, dải khăn rằn rơi lòa xoà quanh vai. Ông lão mím chặt môi, tay nắm; nhìn chằm chằm vào mặt tên cai. Anh Ba, Tư Lê cũng phẫn uất đứng sát bên ông lão. Tên cai hạ tay roi xuống, vẻ gờm mặt ông lão. Ông giơ hai cánh tay lực lưỡng ra trước mặt, bắp thịt cuộn lên như sóng lượn, ông gằn từng tiếng:

– Tụi qua (84) có phải chết thì cũng hết nhục, hết cái kiếp làm thân con bò. Các người ức hiếp quá lắm. Con giun xéo lắm phải quằn chớ.

Tên cai nhìn ông lão và liếc mắt qua anh Ba, Tư Lê, vẻ tẽn mặt. Có một tốp thợ khuân vác đang tới. Hắn sợ im lặng bỏ đi.

Anh Ba, Tư Lê giúp cha con ông già cột kín bao gạo chất lên xe rồi mới đi. Hai cha con ông lão vừa nói : “Đa tạ hai thầy” vừa nhìn anh Ba với vẻ ngờ ngợ vì một thanh niên tuấn tú, quần áo sang trọng mà lại “lạc bước” vào bến cảng này.

Anh Ba đi bên cạnh Tư Lê, nói :

– Anh Tư thấy chưa? Phải cứng đầu như ông già thì bọn cậy quyền cậy thế mới chùn tay ăn hiếp, anh Tư ạ.

– Cả đến bọn chủ Tây cũng nể mặt anh em phu cảng Nhà Rồng nầy chứ không dám hống hách như ở những nơi khác, anh Ba ạ.

Ra khỏi bến cảng, đi trên đoạn đường hành lang hình cánh cung, anh Ba băn khoăn hỏi :

– Sao không gọi là cảng Sài Gòn mà lại đặt tên là Bến Nhà Rồng, hả anh Tư?

Tư Lê vỗ vai anh Ba, chi lên nóc ngôi nhà lợp ngói vảy rồng. Trên nóc nhà có hai con rồng chầu mặt trời đắp bằng xi măng. Tư Lê giải thích :

– Đi trên bộ hoặc đi đường thủy, lúc gần vào bến, người ta nhìn thấy ngay ngôi nhà trên nóc có hình hai con rồng. Do vậy mà có tên là Bến Nhà Rồng, anh Ba ạ.

Anh Ba mỉm cười nhìn về Nhà Rồng : một đôi cu gáy từ trên ngọn cây dừa vừa chớp cánh lao xuống đậu lên đầu rồng giữa nóc nhà ám màu thời gian…

Qua những bãi rác sình lầy, con đường vào xóm càng vào sâu càng quanh co, gấp khúc, có nhiều nhánh rẽ hai bên như cái xương cá. Ở đầu một ngã tư, có mấy hàng xén, hàng quà… Đằng sau các cửa tiệm nho nhỏ ấy là những túp lều gối nhau như bát úp. Anh Ba hơi ngỡ ngàng với cái “thế giới hang chuột” này. Anh Tư Lê vui vẻ :

– Cây mận (cây doi) kia rồi. Nhà chú út có cây mận bự làm cột tiêu cho cánh thợ đi về không thể lạc được.

Anh Ba nghiêng nghiêng nhìn vào ngôi nhà nép gọn dưới bóng cây doi. Anh lần nhớ lại lời giới thiệu của Tư Lê về cuộc sống “gà trống nuôi con” của cha con ông già Đờn.

Chẳng mấy ai rõ tên ông già là gì mà chỉ quen gọi bằng tên người con gái út là Huệ. Nghe nói, ông là một người giàu có ở miền châu thổ sông Tiền, vì thua kiện bị phá sản. Vợ chết, hai người con trai cũng bị chết bệnh liên tiếp trong mấy năm. Ông buồn phiền bỏ quê nhà đưa con gái út lên sinh sống ở Bến Nhà Rồng. Vì ông đờn hay, anh em thợ gọi luôn là ông già Đờn. Ông làm phu khuân vác. Cô Út Huệ lo việc cơm nước cho ông và nấu cơm giúp cho một số công nhân không có gia đình. Thỉnh thoảng cô Út Huệ cũng ra cảng nhận việc làm công nhật với cha.

Anh Ba theo Tư Lê bước qua rãnh, rẽ vào cái ngõ hun hút như ống áo. Anh đứng khựng lại lắng nghe tiếng đàn nhị từ trong mái nhà tranh bay ra réo rắt. Tư Lê nói khẽ :

– Ông già Đờn đờn đó anh Ba. Lúc ông già đờn là lúc ruột gan ông bồi hồi, nước mắt thường đọng ngập bờ mi. Gặp lúc đó, đừng chào hỏi chi vì ông đang nhập thần vô cây đờn. Tôi đã thưa chuyện anh với ông và Út Huệ rồi.

Hai người bước vào nhà. Ông già Đờn ngồi xếp bằng trên cái sập gỗ, tay đang nắn nót cung đàn, mắt lờ đờ đảo nhìn và gật đầu đáp lễ anh Ba. Dưới nền nhà trải chiếc chiếu mộc, mấy anh thợ trẻ đang nằm gối đầu lên nhau, lưng trần đen như da chum. Họ đang ngậm trên môi điếu thuốc tổ sâu. Thấy Tư Lê đưa khách về, mặc dầu đã được báo trước, họ vẫn nhìn anh Ba với con mắt lạ lùng. Hai anh thợ ngồi dậy, tựa lưng vào vách, mắt vẫn nhìn anh Ba. Họ ngạc nhiên về một anh da, tóc, mặt mày, chân tay và áo quần thuộc lớp người “ăn trắng mặc trơn” mà lại lạc loài vào xóm thợ này! Nhưng có đôi mắt sáng, nhìn hiền và ấm áp làm cho lòng họ cảm thấy dễ mến và dễ gần. Út Huệ đang thổi cơm dưới bếp lấp ló nhìn lên nhà. Tư Lê đến cửa bếp, nói nhỏ:

– Cô Út cho anh Ba và tôi ăn cơm nghe.

– Thầy Ba, – Út Huệ thì thầm – thầy Ba học thức, kiểng trai quá trời mà… mà vô đây chịu nổi sao, anh Tư?

– Vậy mới là một người hiếm thấy chớ, cô Út.

Anh Ba vừa bắt chuyện với ba anh thợ vừa lắng vào trái tim mình tiếng đàn và lời ca của ông già Đờn : Kéo neo… kéo neo tàu chạy… Gạt nước mắt… nước mắt tiễn đưa… Thương người đi… người đi muôn trùng sóng vỗ….

Ông già buông lời ca, tay đàn, ngồi thừ và nhìn đau đáu ra ngõ hẻm. Ông treo cây đàn lên và ngồi xuống bên anh Ba. Ông đặt bàn tay rám nắng vào vai anh Ba, nói tiếng chắc nịch :

– Ủa! Thầy Ba Nghệ (85) đã về thấu đây ta!

– Dạ, cháu về với anh Tư từ ban nãy mà chú. Vì chú đang say đàn. – Anh Ba nói.

– Anh Ba muốn thưa chuyện với chú – Tư Lê nói – nhưng chú còn dở tay đờn, ảnh chưa dám trò chuyện…

– Ờ, phải rồi. Thầy Ba là người tai mắt nên biết trọng thú vui của người khác. Bấy nhiêu đó đủ để qua đấy tôn kính rồi đó!

– Thưa chú, – anh Ba nói – cháu đã được anh Tư Lê cho biết về tấm lòng chú và cô Út cũng như tình của anh chị em xóm thợ, do đó cháu tìm đường từ ngoài miền Trung vô đây.

Ông già đỡ lời ngay :

– Khỏi… khỏi dài dòng nghe thầy Ba. Thầy Ba đã từng là ơn nhơn (ân nhân) của Tư Lê thì thầy Ba sẽ dám xả thân cứu những người khổ đau khác. Thầy Ba là hạng người “Lục Vân Tiên” rồi.

Ông già Đờn ca luôn một đoạn thơ Lục Vân Tiên :

Vân Tiên ghé lại bên đàng.
Bẻ cây làm gậy nhắm làng xông vô.
Kêu rằng : Bớ đảng hung đồ!
Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân…

Dứt khúc ca, ông già Đờn ôm choàng anh Ba vào vòng tay,. mắt ông ánh lên niềm xúc động :

– Khỏi phải bày tỏ gì mà bấy nhiêu câu Lục Vân Tiên đã nói đủ cái lòng của người già này đối với thầy Ba. Thầy Ba về đây với tụi tui. Chật nhà, rộng bụng mà…

– Chú Út ơi! – Anh Ba xúc động – Chú đừng gọi cháu là thầy. Chú hãy coi cháu như anh Tư, như các anh đã ở trong nhà chú.

– Rồi… rồi…, được rồi. Đã nghĩ về nhau như vậy thì già này gọi thầy là anh Ba hoặc gọi là anh Ba Nghệ, đều một nghĩa trọng cả mà. Út… à! – ông già gọi con gái.

Từ dưới bếp, út Huệ thưa dịu dàng :

– Dà… ạ! Ba gọi con có việc chi, thưa ba?

– Con làm cơm lâu vậy?

– Xong rồi thưa ba. Nhưng con đợi ba đờn hết bài đã mà.

– Trời đất! Con nhỏ này hổng sáng ý chi trọi hà. Bữa nầy có anh Ba về, cần ăn cơm sớm để ảnh nghỉ ngơi chút rồi còn đi coi phong kiểng Sài Gòn chớ…

Tiếng ông già chìm đi giữa tiếng nói ồn ồn của anh em thợ.

1.2

Anh Ba đội cái mũ nan to vành và đi đôi dép bằng lốp xe kéo của ông già Đờn. Út Huệ ở trong bếp ngó ra, mỉm cười vì vóc người học trò của anh Ba chẳng ăn nhập với cái thứ dép, mũ “cu li” của ba mình. Ông già và đám thợ trẻ thì khoái chá cười :

– Coi bộ ngon héng!

Anh Ba cười hơi ngượng ngập :

– Ở Sài Gòn có nhiều xưởng máy không hả anh Tư?

– Sài Gòn là đất “Nam Kỳ trực trị”, coi như một tỉnh của nước Pháp, cho nên được tự do nhiều thứ. Vì vậy mà ngành công nghệ ở Sài Gòn đã dựng lên nhiều xưởng máy, nhưng là của người Tây, chứ của người Việt mình chưa có.

– Là những xưởng gì đó anh Tư?

– Tui hổng rành hết Sài Gòn, chỉ quanh quanh miệt sông này, nên biết có xưởng Ba Son, xưởng Xi-mắc, xưởng Pha-xi, xưởng Xít…

– Các xưởng ấy chế tạo những máy móc gì. Anh Tư có biết không?

– Tất cả các xưởng chỉ làm cái việc sửa chữa, chứ đâu chế tạo ra nổi máy móc. Như Ba Son thì sửa chữa tàu nhà binh, xưởng Xi-mắc ở bên kia sông, sửa chữa các tàu loại bự, vượt đại dương. Còn xưởng Pha-xi sửa chữa các tàu loại nhỏ. Riêng cái xưởng Xít chuyên sửa xe hơi.

– Chúng mình xin vào làm thợ ở xưởng Ba Son, có khó lắm không anh Tư?

– Đâu có được, anh Ba. Muốn vô đó phải là lính thợ, hoặc đã học ở trường Bá nghệ được kén chọn làm lính thủy chứ đâu có dễ, anh Ba.

Anh Ba nhìn vào quân cảng, lắc đầu. Hai người thủng thỉnh đi qua các phố trung tâm Sài Gòn. Tư Lê nói nhỏ :

– Vô tiệm giải khát, ăn kem cho mát rồi hẵng đi, anh Ba.

Anh Ba hơi ngỡ ngàng, hỏi :

– Kem là món ăn có đắt lắm không mà chúng mình vào tiệm, hả anh Tư?

– Một thứ giải khát bình dân nhất, anh Ba ạ. Chỉ cần một cắc (hào) thì hai anh em mình ăn đến phát rét lên.

Anh Ba vẫn chưa rõ món kem là loại thức ăn gì mà rẻ vậy, lại ăn nhiều thì “phát rét lên”.

Bước vào cửa hàng giải khát, anh Ba hơi choáng ngợp trước cảnh đông đúc, nhiều người mặc đồ sang trọng xen lẫn với vô số người lao động mình trần, quần đùi chân đất, khăn rằn vắt vai, ngồi cò đậu trên mặt ghế ăn những cốc kem, que kem hơi bốc trắng. Anh đinh ninh món ăn còn bốc hơi này hẳn là nóng sốt. Trong lúc đợi cô hầu bàn đem kem đến, anh Ba hơi ngạc nhiên nhìn lên trần nhà, nói nhỏ :

– Cái máy gió quay tít quá anh Tư nhỉ?

Tư Lê cười :

– Quạt máy đó anh Ba. Còn gọi là quạt trần nữa.

– Ờ! Phải rồi. Tôi đọc sách Pháp thấy tả về những cái quạt trần, quạt bàn, nhưng bây giờ mới nhìn thấy nó. – Anh lại ngước nhìn quạt trần, nói : -Thế này thì văn minh hơn các thứ quạt hầu ở chốn cung đình và ở các nhà quan.

Cô hầu bàn bưng khay kem cốc đến. Anh Ba cũng cảm thấy lạ mắt về bộ áo choàng trắng, mũ trắng, tất tay trắng của người con gái hầu bàn. Anh đưa mắt nhìn cách ăn của Tư Lê. Anh cầm thìa con xúc một miếng, hơi kem bốc lên thơm phức. Anh thụt lưỡi đặt thìa kem xuống, mắt chớp lia lịa.

– Chà! Lạnh cóng cả miệng, anh Tư ơi!

Tư Lê che miệng và cố nén cơn cười bất ngờ.

– Anh cứ ăn đi, chỉ lạnh một miếng đầu. – Tư Lê nói. ăn miếng đầu thì cảm thấy lạnh, còn sau nữa là cái mát thấu khắp người mà, anh Ba.

Anh Ba ăn nhón nhén. Anh gật gật đầu : “Á! Thì ra đây là cờ-rem (crème), một món ăn rất thông thường của người Pháp mà tôi đã gặp trong sách”.

Thưởng thức xong món kem, ra khỏi cửa hàng giải khát anh Ba nói với Tư Lê:

– Đúng là trăm nghe không bằng một thấy, anh Tư ạ. Học và đọc sách mà không được nhìn tận mắt, bắt tận tay thì chỉ mới là biết có một nửa thôi. Cho nên, một số ông quan đại thần đi sang Pháp về nói có thứ đèn chúc ngược xuống mà dầu không đổ ra, người ngồi trên xe hai bánh đạp, lái đi bon bon mà không ngã, vua Tự Đức cho là đi xa về nói láo, khép tội “khi quân” (dối vua) cũng là điều không đáng trách, phải không anh Tư?

– Đời là cái bể. – Tư Lê đáp. – Ai biết hết được mọi việc trên đời đâu, anh Ba.

Hai người lại im lặng đi và quan sát. Bàn chân chưa quen cọ xát với thứ dép lốp xe cao su, anh Ba thỉnh thoảng phải cúi xuống sửa lại dép. Tư Lê đưa anh Ba đến xem những công trình của người Pháp xây dựng. Anh Ba trầm ngâm nhìn tòa nhà thờ Đức Bà và đi qua đi lại khá lâu quanh khu tòa án đồ sộ. Anh Ba và Tư Lê rảo bước đến dinh thống đốc, qua tòa đô chính… Anh hỏi Tư Lê :

– Anh Tư ở Sài Gòn đã lâu, thường đi qua những tòa nhà đồ sộ này, có khi nào anh để bụng coi việc người Pháp họ xây dựng lên những thứ đó với mục đích gì không?

Tư Lê hơi bối rối. Anh ngước nhìn tòa nhà cao như tìm kiếm cái điều anh Ba hỏi nằm đâu trên đó. Anh nói như than vãn :

– Trời… đất… quỷ thần ơi ! Anh Ba hỏi thằng em nầy cái điều tối hệ trọng ấy thì chết chớ trả lời sao nổi – Tư Lê chùng giọng : – Hồi tui mới vô Sài Gòn, cũng đi. xem kiểng phố với chú Út và thằng Sáu Đen. Sáu Đen là cái cha chưởi thề giữa bữa ăn đã bị chú Út rầy hắn một chập hồi mai đó anh Ba.

– Mình nhớ rồi. – Anh Ba nói.

– Anh biết không, – Tư Lê nói – lần đầu tiên Sáu Đen trông thấy tòa thống đốc, ngợp mắt đã thốt lên: “Cha trời! Người Tây họ cất nhà nguy nga vầy, Sài Gòn mình đẹp tuyệt trần rồi”. Chú Út ục luôn một quả đấm vào vai Sáu Đen và mắng liền : “Mầy nói gì mà ngu quá vậy Sáu, họ cất nhà, xây dinh thự là để họ ở mà cai trị, mà đè đầu cỡi cổ dân mình chứ đâu phải để làm đẹp cho thành phố mình”.

Anh Ba nắm chặt tay Tư Lê :

– Anh Tư ơi! Anh nói bấy nhiêu… mà cũng chỉ bấy nhiêu đã đủ. Nói như cụ Nguyễn Du: “Một lời cũng đã tiếng rằng tương tri”. Chứng ta xem từng ấy công trình mở đầu của người Pháp tại Sài Gòn, ta thấy : Năm 1877 họ xây dựng nhà thờ Đức Bà. Năm 1881 họ xây dựng tòa án. Năm 1885 họ xây dựng dinh thống đốc. Năm 1900 họ xây dựng tòa đô chính. Rõ rằng, người Pháp đến xứ mình, việc xây dựng đầu tiên không phải là những công trình phúc lợi cho dân mà là nhà thờ, nơi gom phần linh hồn, thứ đến là xây tòa án để trừng phạt thể xác dân mình, và xây nơi đầu não của bộ máy cai trị.

– Ờ ờ… – Tư Lê đắc ý – Anh Ba chữ nhiều có khác. Với con mắt còn bỡ ngỡ, anh chỉ nhìn qua một lượt các công trình mà đã đọc thấu tận mưu đồ cửa chánh phủ đối với “xứ Nam Kỳ trực trị” nầy. Thực tình, biết bao người hằng ngày đi qua đi lại nhà thờ, tòa án… nhưng dễ mấy ai đã nhìn nhận ra được cái bề trong của nó, anh Ba?

Trời về chiều. Đường phố càng đông đúc. Các tiệm ăn hội tụ đủ những hạng người. Anh Ba vẫn chưa hết ngỡ ngàng với Sài Gòn : Người Hoa nhiều nhan nhản! Tiệm ăn, tiệm giải khát, hiệu thuốc bắc, hàng tấm, hàng xén, hàng vàng bạc, nhà thầu, khách sạn, nhà trọ và cả những thứ hàng rong đủ các tiếng rao nghe chẳng hiểu nổi. Anh Tư Lê cứ phải làm cái công việc “thông ngôn” lại cho anh Ba trên dọc lối đi qua.

Trên đường về qua đồn Tây, mà người Sài Gòn gọi là bót Ca-ti-na, anh Ba và Tư Lê bàng hoàng nhìn thấy những tên cảnh sát Tây, cảnh sát ta lôi về đồn hai người bị trói cánh khuỷu, máu bê bết từ đầu xuống chân, không còn đi nổi nữa. Anh Ba nghe những người qua đường hỏi nhau :

– Hai người có tội gì mà họ hành hạ ghê gớm vậy?

– Về tội ăn cắp, bị bắt ở chợ Bến Thành.

– Hổng biết có thiệt là ăn cắp không, chỉ nghe hô lên : “Kẻ cắp! Kẻ cắp…” là cả trăm người xúm lại đánh kẻ đó. Rồi mã tà ập tới lập công vậy đó.

Không dám nhìn hai nạn nhân, anh Ba kéo tay Tư Lê quay về xóm thợ. Anh nói nhỏ với Tư Lê, giọng nghẹn ngào: “Kẻ ăn cướp cả giang sơn mình, cướp cả nòi giống mình thì chẳng thấy ai hô hào đứng lên đánh đuổi?”

————

Chú thích:

(84) Đại từ nhân xưng của người lớn tuổi hơn
(85) Cách gọi thân mật : Anh Ba người Nghệ An

Hoàng Nhật Minh

Búp sen xanh – Chương II: Phần 11

THỜI NIÊN THIẾU

Thị xã Phan Thiết tắm nắng hoàng hôn. Cửa biển phơn phớt hồng. Chân trời Tây như đám cháy lớn. Những đám mây ngũ sắc trải đều khắp bầu trời. Từng đàn dang sải cánh bay ngang trời như những mũi tên khổng lồ xỉa về hướng Tây. Những đám trẻ con nô đùa dưới sân, nhìn lên trời bắt chước đàn chim dang, nắm tay nhau nhảy lò cò, hát líu lo :

Dang dang díu díu
Cánh níu níu nhau
Bay thiệt là mau
Qua trời qua bể.

Thầy giáo Thành đi dạo phố một mình, mắt lắng sâu những điều đang thầm nghĩ… Nhìn đám trẻ nhỏ nhảy nhót hát ca, thầy Thành thấy niềm vui của các em lan vào lòng mình dìu dịu. Thầy cố lưu lại niềm vui nho nhỏ ấy trên dọc đường đi dạo ban chiều.

Bên bến sông. Thuyền đậu san sát, gối mũi lên bờ. Có những con thuyền vừa cập bến, hoàng hôn nhuộm thắm cánh buồm. Thầy Thành đưa mắt quan sát từng con thuyền từ các phương xa tới ăn nước mắm Phan Thiết Thuyền từ Sài Gòn, Gia Định, Sa Đéc, An Giang, Huế, Hà Nội… cập bến. Thầy Thành dừng bước trước mũi những con thuyền từ Sài Gòn, Gia Định, Sa Đéc, An Giang, Huế, Hà Nội… cập bến.

Thầy Thành dừng bước trước mũi những con thuyền từ Sài Gòn ra. Trên thuyền vắng vẻ, mọi người đã đi chơi phố, chỉ còn lại một người gác thuyền. Thầy Thành dạo bước dọc theo bờ sông, nhưng mắt vẫn đoái trông về những con thuyền đã trải qua muôn trùng sóng nước vừa ghé bến nghỉ ngơi.

Người gác thuyền nhìn lên bờ thấy thầy giáo Thành thì ngờ ngợ như đã được gặp ở đâu rồi. Anh ta nháy lên bờ, chạy theo thầy Thành:

– Thưa… thưa thầy thầy ký !

Thầy Thành ngoái về sau, dừng bước :

– Anh gọi ai?

– Thưa thầy ký… tôi trông thầy quen lắm, hình như đã được gặp thầy ở một chỗ mô rồi.

– Tôi dạy học ở đây. Tôi không phải là thầy ký, thầy thông.

– Dạ… dạ, thưa thầy giáo, thầy dạy trường Dục Thanh ạ? Ồ! Quý hóa quá. Thầy dạy học ở trường của các nhà hằng tâm hằng sản.

– Anh gọi tôi có chuyện gì không?

– Dạ… bẩm thầy…

– Ấy chết! – Thầy Thành đỡ lời. – Anh đừng thưa bẩm, tôi với anh đâu có khác gì nhau.

– Thưa thầy giáo, tui là phu khuân vác bến cảng Nhà Rồng. Thỉnh thoảng mới đi một chuyến ra đây ăn nước mắm. Tôi nhìn thầy rất quen mà chưa nhớ ra được.

Hai người bước dọc bờ sông. Trăng rằm ửng lên màu hoa mướp. Dòng sông loang loáng ánh bạc. Người phu thuyền thỉnh thoảng nhìn thầy Thành như để tìm kiếm nhớ lại một kỷ niệm xa xôi. Anh dè dặt hỏi :

– Thầy có ra Huế lần mô không?

– Tôi đã học ở Huế.

– Rứa thì – người phu thuyền xoa xoa hai bàn tay – thầy học ở Huế năm mô hề?

– Tôi ở Huế khá lâu. Tôi mới xa Huế cuối 1908 vô đây.

Người phu thuyền dừng bước, hai tay ôm chầm lấy cánh tay thầy giáo Thành :

– Thầy giáo ơi! Đúng là đây rồi. Tui đã không lầm. Thầy là người đã cứu tui lúc bị bọn lính Tây đánh dập đầu. – Anh vén tóc: – Đây nì, vết sẹo ở góc trán ni, tôi quên răng được người học trò đã xé áo của mình băng bó cứu tui… Đúng thầy là ân nhân của tui.

Thầy Thành đã nhớ ra người bị khủng bố trong cuộc xuống đường đấu tranh ở Huế hiện đang đi bên cạnh, nhưng thầy vẫn giữ thái độ bình thản.

Thầy nói :

– Gặp cảnh ấy, với bất cứ ai còn nhớ nghĩa đồng bào thì đều xắn tay vào cùng chia sẻ. Cho nên, anh đừng coi người đã làm việc đó là ân nhân của mình…

– Thầy là người quân tử “thi ân bất cầu báo”. Phần tui người được cứu giúp thì phải biết nhớ ơn, nhớ cả đời mình. – Anh chân thành và khẩn khoản: – May mắn cho tôi được gặp lại thầy tại chỗ ni. Xin mời thầy quá bộ xuống thuyền tui để được hầu chuyện với thầy cho thỏa cái bụng của tui. Hiện thời dưới thuyền không có ai cả.

Thầy Thành bấy lâu ở Phan Thiết mà lòng đang ấp ủ một dịp đi thẳng vào Sài Gòn. Đây là cơ hội hiếm có. Thầy vui vẻ xuống thuyền và thân mật dặn :

– Tôi đã dự định đi vô Sài Gòn, rất muốn biết hiện tình trong đó ra sao. Nhưng anh đừng vội nói với ai việc tôi sẽ đi vô trỏng nhá.

– Thầy giáo cứ vững tin ở cái bụng tui. – Anh chỉ tay vào ngực mình. – Tư Lê ni đã một lần đổ máu bên cầu Tràng Tiền, thầy là đấng cứu khổ cứu nạn của tui từ lúc đó…

Hai người ngồi trên sạp ở khoang lái. Mũi thuyền vẫn gối lên bờ sông. Bóng cây in xuống dòng sông vàng ngời ngợi. Tư Lê lấy ra một chai rượu và hai chiếc chén con, cầm trên tay chén rượu sóng sánh ánh trăng, giọng xúc động :

– Thầy giáo ạ Cái phận tui khổ nhục từ tấm bé. Mệ cha nghèo, có được ít sào ruộng, lệnh quan trên xuống trưng mua để xây công sở chi đó, họ cho được một ít tiền. Cha tui đưa vợ con ra kinh thành kiếm sống. Chưa tìm được việc làm, cha tui ngộ bệnh chết. Mệ tui với hai bàn tay trắng, lại một nách hai con, sống vất vưởng ở giữa nơi kẻ chợ… Tui phải đi mần mướn từ lúc mới mười bốn tuổi. Hôm tui theo những người đi đòi bỏ xâu bỏ thuế ở Huế là vừa tròn mười tám tuổi thôi. Và sau lần bị khủng bố ấy, tui phải trốn vô tận Sài Gòn để kiếm ăn và tránh bọn cò tầm nã. Mệ và em gái tui ở lại Huế, thầy ạ…

Thầy Thành đặt bàn tay trên miệng chén rượu, đầu hơi cúi, tiếng nói buồn bã:

– Dưới cái gầm trời nước Nam mình sao toàn là cảnh đau khổ…

– Thầy giáo ơi ! Ông trời cũng run rủi cho tui được gặp thầy. “Một lời thành bạn tương tri, một ngày nên nghĩa xướng tùy trăm năm”. Vậy xin thầy uống với tui một ly rượu lạt mừng cho cái phận tui còn có phước.

Thầy Thành nâng chén rượu, nói :

– Tôi không biết uống rượu. Gặp anh, quý mến tình anh, tôi uống với anh chén rượu dưới trăng đêm nay. – Thầy Thành đặt chén rượu xuống, tựa tay lên be thuyền, nói chậm rãi : – Anh Tư đã nói đến tình bạn tương tri, vậy tôi xin nói thật điều tôi đang ấp ủ.

– Trời đất! – Tư Lê thốt lên. – Thầy giáo hãy tin Tư Lê ni mà!

– Tôi tin nên mới ngỏ ý với anh là : buổi gặp nhau này tôi muốn kết bạn với anh và sẽ cùng anh vô cảng Nhà Rồng làm thợ.

– Trời trời! – Tư Lê nhổm người như muốn nhảy lên. Nhưng anh lại sững sờ : – Thầy là người có học thức rộng, làm nghề sang trọng, nhàn hạ, được mọi người trọng vọng, tội chi mà dấn thân vô đám cu li bầy tui?

– Tôi nghĩ là mình không thể nào tìm riêng cho mình một đời sống vương giả, trong lúc người dân xứ mình đang sống lam lũ, tối như đêm dày như đất, roi quan người ta trút xuống đầu, gậy quan người Tây nện xuống lưng và còn hàng trăm thứ áp bức, đè nén khác chồng chất lên thân họ.

– Trời… ! – Tư Lê ôm chầm lấy thầy giáo Thành. – Tui xin rước thầy về với cánh thợ thuyền này! Cánh thợ xóm tui chơi được, thầy giáo ạ. – Anh nâng chén rượu vàng trăng : – Thầy ít uống thì cạn với tui ly này nữa, ta mừng cho tình đời thợ của ta bắt đầu…

– Từ giờ khắc này anh đừng gọi tôi là thầy giáo mà gọi tôi bằng tên thôi. Tên tôi là Thành, Nguyễn Tất Thành.

– Thầy đã cho phép vậy, tui sướng cái bụng quá. Nhưng thầy vốn là bậc đàn anh của tui.

Thầy Thành lắc đầu :

– Là bạn.

Tư Lê vẫn sôi nổi :

– Tui là thứ tư, muốn được gọi thầy là anh Ba. Anh Ba của tui , anh Ba của xóm thợ nay mai…

– Tôi nhận cái tên mà anh đã đặt cho. Nhưng tôi vẫn là bạn ngang hàng với anh chứ đừng xếp sắp ngôi thứ kẻ trên người dưới nó kỳ lắm.

Tư Lê giọng xúc động :

– “Một khi lòng đến với lòng, dù chênh dù lệch vẫn không nề hà”, anh Ba ạ…

Trăng đã ghé về Tây. Những người đi chơi phố đã lác đác trở về thuyền. Tư Lê tiễn anh Ba lên bờ. Trăng in bóng anh Ba thấp thoáng xa dần.

*****

Tiếng trống trường Dục Thanh ngân trong sương sớm. Chim hải âu sải cánh trên cửa bể mù xa.

Học trò hăm hở vào các lớp. Từ trong phòng “từ hàn”, thầy Hiệu trưởng Nguyễn Quý Anh ngạc nhiên hỏi :

– Thầy Thành bữa nay đến muộn? Lạ quá! Chắc thầy mệt.

Một thầy giáo đỡ lời :

– Chắc là thầy có việc chi đó chứ chiều qua thầy vừa đến chơi, thăm hỏi gia đình các ông trong hội đồng quản trị công ty kia mà?

– Phải rồi. – Nguyễn Quý Anh nói. – Bữa qua, thầy Thành cũng chơi khá lâu ở bên nhà tôi lúc chập chiều. Thầy còn bàn với tôi việc lập thư viện của trường để học trò có nhiều sách đọc. Sau đó thầy sang bác Lội vừa đi công cán ở Mũi Né về.

Các thầy giáo đều đến đông đủ trong phòng thầy Hiệu trưởng, ai cũng ngỡ ngàng trước việc vắng thầy Thành.

Học trò ở các lớp cũng bắt đầu xôn xao :

– Thầy Thành đi đâu từ đêm qua?

– Thầy Thành bị ốm chắc?

– Thầy Thành gặp chuyện chi không lành?

Vừa lúc đó, ông Hồ Tá Bang đến, vẻ mặt buồn buồn. Ông đi thẳng vào phòng thầy Nguyễn Quý Anh. Các thầy giáo đứng xúm xít quanh ông, dọc hành lang; ngoài sân cỏ, học trò tụm năm tụm ba nhìn nhau, vẻ mặt em nào cũng ngơ ngẩn.

Ông Hồ Tá Bang nói thong thả :

– Mới tức thời tôi được tin người nhà cho hay, sáng nay thầy Thành không đến phòng trà dùng trà và ăn điểm tâm. Tôi đinh ninh thầy Hiệu trưởng và.các thầy đã biết được thầy Thành có việc phải đi?

Thầy Của băn khoăn nói :

– Gần đây tôi thấy thầy Thành tư lự nhiều, thầy thường đàm đạo hiện tình đất nước với các ông Nguyễn Hiệt Chi, Trần Lệ Chất. Tôi thỉnh thoảng cũng dự nghe.

– Tôi cũng ngờ ngợ cái điều mà thầy Của nhận xét : thầy Thành gần đây có một tâm sự khác với lúc thầy mới đến trường. Lúc nào thầy có chút thì giờ là bàn đến chuyện : có con đường nào cứu được, nước nhà thoát khỏi vòng nô lệ?

Ông Hồ Tá Bang định nói thêm điều gì thì ông già Tám, người chăm lo cơm nước cho thầy Thành, cầm hai phong thư chạy đến, vẻ mặt ngơ ngác :

– Các thầy ơi! Thầy Thành để thư lại trong phòng đây ạ. Mọi người dồn cả về phía ông già Tám.

– Thầy Thành để thư ở chỗ nào? – Thầy Hiệu trưởng hỏi.

– Thưa… tui lật gối lên thấy hai phong thư, tui không biết chữ, nhưng dám chắc là thư thầy Thành để lại tui cầm chạy vội tôi đây…

Thầy Hiệu trưởng đọc to lá thư của thầy Thành gửi lại Ban bảo trợ trường và các thầy giáo của trường. Mọi người ngồi lặng nghe. Thầy Hiệu trưởng Nguyễn Quý Anh nói :

– Việc thầy Nguyễn Tất Thành rời trường Dục Thanh ra đi theo tiếng gọi của,lý tưởng, đó là điều vui lớn chứ chẳng có gì để chúng ta phải băn khoăn.

Ông Hồ Tá Bang nói :

– Cái chậu thủy tinh nuôi được con cá vàng, không thể nuôi được giống cá côn. Chiếc lồng son nuôi chim họa mi, chim hoàng yến, không thể nuôi được chim đại bàng. Trường Dục Thanh của chúng ta không thể là nơi luyện chí anh hùng của thầy Nguyễn Tất Thành. Tôi đã cầm chắc cái điều ấy ngay từ những ngày đầu cậu ấm Thành bước chân tới đây…

– Để các trò khỏi phải chờ sốt ruột, tôi muốn mời Hồ tiên sinh công bố phong thư thầy Thành để lại cho học trò.

Tiếp lời thầy Hiệu trưởng, mọi người dồn mắt về ông Hồ Tá Bang.

– Phải rồi. Mời tiên sinh, mời tiên sinh tuyên độc (đọc) cho các trò nghe…

Học sinh từ các lớp dã xếp hàng tề chỉnh trên sân trường. Ông Hồ Tá Bang đứng trên thềm cao, phía sau ông là các thầy giáo. Ông nói :

– Các trò nhớ bình tâm, tĩnh trí để nghe cho rõ rành những lời thầy Nguyễn Tất Thành để lại cho các trò trước lúc ra đi.

Mắt các em mở to chớp chớp, đợi chờ. Giọng ông Hồ Tá Bang sáng và ấm :

Các trò thân yêu! Thầy biết là các trò rất yêu mến thầy. Nhưng thầy không thể ở lại trường Dục Thanh dài hơn nữa, dạy thêm cho các trò những bài học, kể thêm những câu chuyện cổ tích, chuyện đời xưa cho các trò nghe. Thầy phải đi, đi rất xa. Ước mơ một ngày mai nước nhà độc lập tự do kêu gọi thầy dấn bước ra đi. Cho nên thầy để lại lời từ giã mà không tiện gặp đầy đủ các em trước lúc lên đường (Trong hàng ngũ các em có nhiều tiếng thút thít. Ông Hồ Tá Bang giọng đọc cũng nghẹn ngào). Thầy ra đi nhưng lòng vẫn hằng mong các em là những trò giỏi của trường, con ngoan của gia đình, ra đường biết kính người già, nhường em nhỏ, yêu quý mọi người…

Các trò thương mến, thầy đi xa, lòng vẫn nhớ, vẫn gần các trò. Thầy đã không kịp mua sách, thầy để lại hai đồng bạc góp vào quỹ thư viện trường Dục Thanh của chúng ta.

Chúc các trò tấn tới!

Hồn nước gọi chúng ta lên phía trước!

Ngày… tháng 10 năm 1910
Nguyễn Tất Thành

Ông Hồ Tá Bang và các thầy giáo bồi hồi nhìn học trò. Học trò mắt ướt nhìn ngẩn ngơ bốn phía kiếm tìm…

Những áng mây nhuộm nắng ban mai bay ra biển xa xăm.

Hoàng Nhật Minh

Búp sen xanh – Chương II: Phần 10

THỜI NIÊN THIẾU

10.1

Dấu chân Nguyễn Tất Thành in xuống đất cực Nam Trung Bộ. Dưới ánh nắng thiêu, bóng anh nghiêng nghiêng bên bóng những tháp Chàm trần trụi.

Trên đường đi vào, tình cờ Thành gặp người bạn cũ, Phạm Gia Cần từ Bình Thuận trở về Nghệ An. Thành viết vội thư gửi về quê cho chị Thanh và anh cả Khiêm. Anh kể khá tỉ mỉ những chuyện xảy ra trên dọc đường vào của mình. Anh miêu tả về cuộc sống cô đơn và sự chán chường việc quan của cha. Và Thành tâm sự trong thư “…Em đã nhận một chân dạy học tại trường Dục Thanh ở Phan Thiết. Trường này có các lớp tư, lớp ba, lớp nhì và lớp nhất. Học trò được học ba thứ chữ quốc ngữ, chữ Tây, chữ nho. Các môn sử ký, địa dư, cách trí, toán pháp, toán đố… đều được soạn dạy theo mục đích của trường mở mang tri thức cho học trò, đào luyện họ thành người ích nước, lợi nhà… Em nhận dạy chữ Tây cho lớp nhì, dạy sử ký, địa dư cho lớp nhất. Em được nhận vô dạy trường này là có sự giúp đỡ của ông Hồ Tá Bang, bạn thân của cha. Ông là tổng lý công ty Liên Thành thương quán chuyên sản xuất nước mắm. Công ty này là do các ông Trần Quý Cáp, Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Đặng Nguyên Cẩn… kêu gọi các nhà hằng tâm hằng sản góp vốn kinh doanh để xây đắp cho công cuộc mở mang dân trí, dân sinh. Các cụ Nguyễn Trọng Lội, Nguyễn Quý Anh, Hồ Tá Bang, Nguyễn Hiệt Chi, Trần Lệ Chất, Ngô Văn Nhượng là sáng lập viên Liên Thành. Trường Dục Thanh do công ty Liên Thành thương quán bảo trợ…”. Cuối thư, Thành dặn chị gái và anh trai : ” Trường Dục Thanh là một cung trên con đường em đi… Em sẽ ở lại đây một thời gian để rồi đi tiếp vô Sài Gòn…”.

*****

Cửa biển Phan Thiết hình cánh cung. Ban mai vắng lặng. Những con dã tràng kiên nhẫn xe cát. Sương mù bay lang thang từ xa khơi vào các xóm dân chài. Một vài con thuyền, bè mảng già nua nằm trơ trên bãi cát. Nhìn biển cả, thầy Thành bồi hồi nhớ về kỷ niệm cùng anh Khiêm theo cha mẹ vào kinh đô Huế, lúc lên đỉnh đèo Ngang, lần đầu thấy biển mà tưởng là cái ao. Giờ đây anh đã lớn khôn lại thấy biển mênh mông quá, muốn đi xa, đi tìm chân lý, tìm lẽ sống công bằng, nhưng vượt biển cách nào đây?

Anh bâng khuâng trước cảnh biển trời hùng vĩ. Bỗng tiếng trống trường từ trong phố âm vang, ngân dài theo tiếng sóng. Anh dời gót, bước về phía tiếng trống gọi. Từng dấu chân anh in mịn màng trên cát trắng phau.

Giữa khu vườn rộng có một dãy nhà dài, chia nhiều ngăn, lớp ngói “vảy rồng”. Bốn phía nhà không thưng che. Trước khi dùng làm trường học, đây thường gọi là nhà “thảo bạt”. Trước lối vào “thảo bạt”, một cái cổng cao, vững chãi, trên đó đặt tấm biển dày và dài suốt trên hai trụ đứng, khắc chữ quốc ngữ : Trường Dục Thanh. Hai bên khắc tên trường bằng hai thứ chữ : chữ Hán và chữ Pháp.

Ngay trước trường có một cái ao khá rộng. Cây dừa cổ thụ, cành vươn dài ra giữa ao. Từng chùm rễ trên cành rủ xuống ao như bộ râu dài phủ phê… Gốc cây dừa sù sì ngay cạnh bến đá xây nhiều bậc. Học trò thường xuống ao rửa chân trước lúc vào cổng trường.

Thầy giáo Nguyễn Tất Thành bận bộ dài trắng, cổ đứng, đi guốc gỗ mộc, ôm cặp da bò màu vàng cam, bước khoan thai vào lớp. Cả lớp hóc đón thầy với một không khí ấm cúng, trật tự và lễ phép. Thầy Thành nở một nụ cười tươi, nhìn các em âu yếm, nói :

– Thầy chúc các trò ngoan, học giỏi.

Cả lớp đáp lại :

– Chúng con vâng lời thầy…

Cả lớp hướng mắt về thầy và thầy Thành giọng ấm áp điểm danh. Sau đó thầy viết lên góc bảng đen: Sĩ số : 38. Hiện diện : 38. Khiếm diện : 0. Thầy từ trên bục đi xuống. Đến cạnh em Lê Trung Liệt, thầy ân cần hỏi :

– Bữa nay ở nhà chắc có chuyện chi… Thầy thấy trò không được vui?

– Dạ, thưa thầy, má con bệnh nặng. Đêm qua má con trở bệnh. Con lo má con không qua khỏi ! Mà… ba con lại đang đi trẩy nước mắm, đi xa lắm.

Thầy Thành chớp chớp mắt nhớ về một thời thơ ấu của mình ở thành nội Huế. Giọng thầy buồn buồn :

– Nhà có đủ tiền thuốc thang cho má không?

– Thưa thầy má con bệnh nặng, kéo dài, con nghe mấy anh chị của con biểu : “Hết kiệt vốn liếng trong nhà rồi”. Sáng nay anh trai của con đang đi cầm đồ để có tiền chạy chữa cho má con, thưa thầy…

– Tan học, trò đưa thầy về thăm má của trò. Thầy vừa được lĩnh tiền giảng phí. (Em Liệt xúc động bật lên tiếng khóc). Trò đừng buồn phiền – Thầy Thành an ủi – Thầy đã từng nhận được tình thương của nhiều người chia sẻ. Thầy được chia sẻ với em chút tình ngày hôm nay là sự nhớ ơn của thầy đối với những người đã. chia sẻ với thầy lúc tối lửa tắt đèn.

Thầy Thành đưa mắt nhìn khắp lớp :

– Sau buổi học, có trò nào muốn đến thăm mẹ của trò Liệt không?

Cả lớp đồng thanh :

– Thưa thầy, có ạ.

Thầy Thành lên bục, vẻ mặt vẫn còn phảng phất buồn. Thầy nói :

– Hôm nay chúng ta học bài sử ký : Hùng Vương dựng nước, đời Hồng Bàng. – Thầy cầm viên phấn viết lên bảng đen đầu đề bài lịch sử. Nét chữ của thầy thanh như dáng người thầy. – Hồng Bàng là thời kỳ mở đầu của mười tám đời vua Hùng. Công lớn nhất của các vua Hùng là dựng nước.

Các em lắng cả tâm trí theo dòng ánh sáng của thầy giáo Thành đang truyền bá. Giọng thầy giảng bài ấm và âm vang : “truyện tích “Con Rồng cháu Tiên” là sự thể hiện niềm tự hào về giống nòi người Việt Nam của tổ tiên ta”.

Trong khi giảng bài, thầy thường hỏi :

– Thầy nói tiếng Nghệ, chưa sửa hết được thổ âm, thổ ngữ, các trò nghe có được rõ không?

– Thưa thầy rõ ạ.

– Các trò có hiểu được những điều thầy giảng không?

– Chúng con hiểu được ạ.

Một em học sinh lớn tuổi nhất lớp đứng lên xin phép :

– Thưa thầy con xin thầy được phép hỏi ạ.

– Trò mạnh dạn hỏi vậy là tốt.

– Thưa thầy, tích Lạc Long Quân lấy nàng Âu Cơ đẻ một bọc trứng, nở ra trăm con, một nửa theo cha xuống bể, một nửa theo mẹ lên ngàn, chuyện hoang đường ấy có nghĩa chi, thưa thầy?

Thầy Thành xuống bực, đi qua đi lại trước lớp, mắt mơ màng, giọng tha thiết :

– Các truyền thuyết thường tưởng tượng hoang đường vì nó bắt nguồn từ trong đời sống xã hội con người thời còn hoang sơ, những truyện nào cũng đều có ý nghĩa giáo dục. Cái bọc ấy chỉnh là lòng mẹ. Chung một lòng mẹ, nghĩa là cùng một nòi giống. Vì vậy mà dân ta có hai tiếng nghe rất thiêng liêng, đó là – thầy Thành viết chữ hoa – Đồng Bào. Có nghĩa là cùng bọc, cùng một dòng máu.

Thầy Thành lại hỏi :

– Các trò rõ chưa?

– Dạ, rõ rồi ạ.

– Còn sự tích một nửa số người đi lên ngàn, một nửa số người đi xuống bể, nó nói lên người Việt mình đã trải bao mưa nắng, người đi phương này, kẻ đi nơi kia để khai phá, mở mang bờ cõi, dựng xây đất nước. Nước Việt Nam ta được như ngày nay ta đừng quên công !ao của bao đời đã đổ mồ hôi và máu. Người ta thường nói : “Tình Tổ quốc, nghĩa đồng bào” là từ gốc tích ấy. – Giọng thầy đọc trầm bổng thiết tha :

Sông sâu nước chảy nặng dòng.
Lòng ta có khác chi lòng mình đâu.
Dầu Nam, dầu Bắc mặc dầu,
Cùng chung Tổ quốc, cùng sầu Nước Non.

Cả lớp nhất không một em nào động tay, động chân, lắng hồn đón nhận từng lời thầy như đêm dày được ánh sáng soi vào.

Cuối bài, thầy dặn :

-Các trò ạ! Chữ là mắt. Người không có chữ coi như bị mù vậy. Hồi còn nhỏ, thầy thường được nghe cha, mẹ, ông bà ngoại của thầy nói về cái chữ tối hệ trọng đến vậy. Mà nó hệ trọng thật. Không có chữ, con người ta bé nhỏ trước tất cả dưới gầm trời này, và người không có chữ sẽ mãi mãi là vật sai khiến, vật hy sinh của bọn thống trị. Cho nên, các trò được ngồi học là phải tự hỏi mình : Học chữ để nên người, giúp dân cứu nước hay để được vinh thân phì gia?

Trống ra chơi điểm từng tiếng. Bóng nắng xao động theo chân của đám học trò chạy nhảy tung tăng trên sân trường.

Nắng trưa trải dài trên con đường xanh xa.

Thầy giáo Nguyễn Tất Thành từ nhà em Lê Trung Liệt đi ra phố. Đám học trò theo thầy tới thăm mẹ bạn Liệt đã tản về các ngả đường. Thầy Thành đi về phía bờ sông Cà Ty gần gần chợ. Một tiếng đàn bầu của người hát rong cất lên ai oán. Thầy Thành khựng lại. Không định dừng lại nghe đàn nhưng thấy cái thau đựng tiền của người hát rong chưa có một đồng nào, thầy Thành lần trong túi lấy ít tiền còn lại biếu người hát rong. Thấy ông giáo trẻ cho tiền người hát rong, mấy người luống tuổi đang đứng nghe và cả người đi ngang qua lần lượt bỏ vào thau những đồng tiền kẽm, đồng hào trắng… Nhìn vào thau đã có cái ăn cầm hơi cho người mù hát rong, thầy Thành cảm thấy lòng mình âm ấm và bước đi nhẹ gót chân hơn. Nhưng dòng suy nghĩ của thầy trĩu nặng về hình ảnh ông Xẩm ở quê nhà. Và những năm tháng lớn lên, thầy nghiệm thấy điều ông Xẩm nói càng có lý : “Mắt mù không đáng sợ bằng mắt sáng mà tim mù”. Bởi lẽ, người ta bị mù mắt thì khổ trăm đường, ai cũng có thể ăn hiếp được. Nhưng kẻ mắt sáng mà tim mù thì sẽ đem lại những tai họa ghê gớm cho bao người và ở trên đời này, cái bọn mắt sáng mà tim mù đâu có ít?

10.2

Lại một mùa hè nữa đến với thầy giáo Nguyễn Tất Thành Nước da của thầy đã nhuốm nắng miền cực Nam Trung Bộ.

Một buổi trưa. Thầy giáo Thành ngồi đọc sách. Tiếng chim ngoài vườn xanh um tùm vọng vào. Lòng bồn chồn, ngồi không yên, thầy cầm trên tay cuốn sách, dạo bước quanh “Ngoạ du sào” (83). Nhìn qua bên kia vườn cụ Nguyễn Thông, thầy thấy một em bé đang trèo khế hái trộm quả, một em đứng dưới “canh gác”. Thầy chau mày, mỉm cười : Trò Tây và trò Phùng rồi. Hai trò to đầu này chẳng chịu ngủ trưa, lẻn đi hái trộm khế. Bà ấm Lội biết được thì rầy to!

Thầy Thành gập cuốn sách lại, khoan thai đi sang vườn khế. Từ Trường Phùng thấy thầy giáo Thành vội vàng đưa ngón tay lên miệng định “báo động” cho Nguyễn Thành Tây đang ở trên cây, nhưng thầy Thành đã khoát tay ngăn lại. Phùng đứng khép nép vào gốc cây, sợ hãi. Thầy Thành đến gần, nói nhỏ nhẹ :

– Bạn Thành Tây của trò đang ở trên cao, trò đừng làm vậy mà bạn ấy hốt hoảng nhảy đại xuống lỡ gãy chân gãy tay, rõ chứ trò?

– Dà… ạ. Từ Trường Phùng đã hết sợ hãi vì thầy Thành không mắng một lời nào. Thầy còn dặn : “Ráng đợi cho trò Tây xuống đất rồi hãy đến”.

Nguyễn Thành Tây từ trên cành cao bước xuống với hai túi áo đựng khế đầy căng. Vừa đặt chân xuống đất, trò Tây đã thấy thầy giáo Thành đi tới, chân em đứng không vững, mặt tái mét, mắt nhắm chờ mấy cái bợp tai của thầy. Song, một tiếng nói ấm áp :

– Trò ngồi xuống chỗ có bóng mát kẻo mỏi chân.

Nguyễn Thành Tây thở phào nhẹ nhõm, hai mắt em mở to, nhìn thầy giáo Thành e ấp một niềm cảm kích, biết ơn.

Thầy Thành ngồi giữa hai người học trò bên gốc cây khế. Thầy ôn tồn hỏi :

– Trò Phùng hay trò Tây bày ra chuyện đi lấy trộm khế?

-Dạ thưa thầy, con ạ.

– Dạ, thưa thầy cả con nữa ạ.

– Thầy biết việc này là cả hai trò rồi, nhưng thầy muốn hỏi rõ trò nào đã nêu ra trước?

– Thưa thầy con ạ. Chính con đã rủ bạn Phùng ạ.

Thầy Thành đặt tay lên vai Nguyễn Thành Tây, nét cười thoáng trên môi, thầy nhìn tập sách cuộn tròn cặp trong nách Tây hỏi thân mật :

– Trò có cuốn sách chi đó mà lại cuộn tổ sâu vô nách vậy?

Tây lấy cuốn sách từ nách ra, hơi luống cuống.

Phùng nhìn Tây nháy mắt, cười. Tây nói :

– Thưa thầy sách thơ Lục Vân Tiên ạ.

– Trò đã đọc được tới đâu rồi?

– Thưa thầy con vừa mới đọc được ít thôi ạ.

– Đọc đến dòng nào chỉ thầy coi.

– Đây ạ. “Trai thì trung hiếu làm đầu”.

– Trò có hiểu nội dung câu thơ này không?

– Con hiểu được phần nào ạ.

– Trò nói cho thầy và bạn Phùng nghe điều trò hiểu đi nào.

– Dạ. “Trung hiếu làm đầu” có nghĩa là trung thành với vua, hiếu thảo với cha mẹ.

Thầy Thành quay hỏi Phùng :

– Trò thấy bạn Tây giải thích vậy đã đúng chưa?

– Thưa thầy, con cũng hiểu như bạn Tây ạ.

– Các trò hiểu chữ trung, chữ hiếu như vậy là đúng, nhưng còn cạn, còn hẹp. Ta phải hiểu rộng hơn. Ấy là lòng trung thành với Tổ quốc, lòng hiếu thảo với cha mẹ, với đồng bào… Bởi vì mỗi người chứng ta sống trong một rường mối liên quan từ trong gia đình ra tới họ hàng, làng nước. Các trò phải ôn lại bài học “vua Hùng dựng nước” mà thầy đã giảng ở lớp. – Thầy Thành nhìn vào hai túi áo Nguyễn Thành Tây đựng đầy khế.

– Hai trò rủ nhau đi lấy trộm khế là phạm lỗi gì?

Cả hai em mặt đỏ bừng, đáp :

– Chúng con lấy trộm của người khác là không hiếu thảo với đồng bào ạ.

– Biết việc làm sai, phạm lỗi thì nên xử trí thế nào?

-Thưa thầy từ nay chúng con không bao giờ làm như vậy nữa ạ.

– Phạm lỗi, dám nhận lỗi và sửa chữa lỗi lầm là một nhân cách, là biết đạo làm người. Giờ thì thầy đưa hai trò đến nhận lỗi gia đình thầy ấm Lội. Mặc dầu không một ai trong nhà thầy ấm Lội biết việc này, nhưng ta có lỗi lương tâm ta thúc giục ta sửa lỗi.

Nguyễn Thành Tây bưng một mũ khế, cả ba thầy trò đi dưới vườn cây mát rượi tiếng ve sầu. Thấy hai cậu học trò mặt buồn xỉu, thầy Thành động viên :

– Các trò có thích chơi ve sầu không?

– Chúng con thích ve sầu lắm, thầy ạ.

– Các trò thấy ở ve sầu có tính gì đặc biệt nào?

Nguyễn Thành Tây giọng nghịch ngợm :

– Thưa thầy giống ve sầu chống đối việc bắt nó bằng cách đái một bãi vào tay ạ.

Cả ba thầy trò cười thoải mái. Từ Trường Phùng nhận xét :

– Thưa thầy, ve sầu có đặc tính kêu dai suốt cả mùa hè ạ.

Thầy Thành tươi cười :

– Các trò có con mắt quan sát, tốt lắm. Riêng thầy thấy giống ve sầu còn có một tính riêng biệt, rất là thú vị đó là tính hay “xấu hổ”, cứ úp mặt vào thân cây mà than vãn cả mùa hè .

Tiếng cười khúc khích của ba thầy trò Nguyễn Tất Thành hòa vào âm thanh ve sầu bồng bềnh theo gió xanh sắc biển xa…

10.3

Cơn mưa đầu mùa đến miền cực Nam bất chợt, ngắn ngủi. Đất khát. Nước mưa ít như nước đái ve sầu, chẳng thấm tháp gì.

Các thầy giáo và học trò trường Dục Thanh phải gò lưng khiêng nước ao tưới cho hàng cây trồng quanh sân, vườn trường. Các ông Nguyễn Trọng Lội, Nguyễn Quý Anh, Hồ Tá Bang, Nguyễn Hiệt Chi, Trần Lệ Chất, Ngô Văn Nhượng, sáu vị sáng lập công ty Liên Thành và “Hội đồng bảo trợ” trường Dục Thanh đến thăm một buổi “lao động chấn hưng trường ốc”. Cả sáu ông đều ngạc nhiên : thầy giáo Nguyễn Tất Thành, con trai quan Phó bảng Nguyễn Sinh Huy, mà gánh nước đi dẻo như người gánh cá tươi chạy chợ trưa vậy. Những cô gái con các nhà có chân trong công ty Liên Thành cùng “nhìn trộm” thầy giáo Thành gánh nước tưới cây. Bà Hồ Tá Bang với con mắt người mẹ hằng kén rể thì nhìn thầy Thành “người mảnh khảnh, da trắng, môi đỏ như gái cấm cung, ăn không gắp nặng đũa mà gánh gồng chất nặng đầy vai! Lại còn trí khôn trước tuổi”…

Từ ngoài vườn trường về, thầy giáo Thành ngồi nghỉ bên thềm, hai mắt mơ màng dõi theo đàn bồ câu đang bịn rịn trên sân, bóng cây in xuống sân như mảnh gấm hoa đen. Thầy lại bồi hồi nhớ về một buổi sáng tiễn cha từ Huế đi Bình Khê, đàn bồ câu và những bóng cây trên sân lưu luyến theo người… Ông già đầu bếp rón rén đến bên thầy :

– Mời thầy vô nhà xơi cơm ạ.

– Cảm ơn chú Tám.

Thầy Thành ngồi vào bàn ăn. Ông già đầu bếp nhấc chiếc lồng bàn đưa xuống nhà dưới. Trước mặt thầy, chiếc mâm thau bóng loáng, đôi đũa son, cái bát kiểu đặt bên những món ăn thanh đạm : đĩa cá kho, tôm rim mặn với thịt và bát canh rau. Thầy Thành vừa xới cơm vào bát, ông già đầu bếp bước vào :

– Thưa, có người lạ đến tìm thầy ạ.

Hai mắt thầy Thành ánh lên vẻ ngạc nhiên:

– Nhờ chú Tám mời ông vô giùm cho, được chứ chú Tám?

– Hay là thầy… – ông già Tám ngập ngừng nói – thầy cứ việc cơm nước đàng hoàng, tôi sẽ mời ông ta vô nhà dưới ngồi đợi ạ.

– Chắc ông ta từ xa đến… để người ta đợi mình lâu, không nỡ, chú Tám ạ.

Một người quần áo vá chằm, làm cái nón che đằng trước đầu gối, rón ra rón rén đi theo ông già Tám. Thầy Thành từ trong nhà bước ra, đon đả hỏi :

– Mời ông vô. Ghế đây, mời ông ngồi tự nhiên.

Ông khách thở phào nhẹ nhõm khi thấy người thầy giáo trẻ măng, con quan mà cư xử với ông niềm nở, quý mến chứ không coi khinh ông rách rưới thất thểu đi kiếm ăn. ông ngồi xuống mép ghế. Thầy Thành hỏi :

– Ông từ đâu đến và có việc chi cần gặp tôi ạ?

– Bẩm cậu ấm…

– Xin ông đừng bẩm, – thầy Thành nói – ông cứ nói bình thường. Tôi chỉ bằng tuổi em út của ông thôi.

– Thưa cậu ấm, con từ ngoài huyện Bình Khê vô đây. Có thư của quan huyện gửi đến cậu ấm đây ạ.

Thầy giáo Thành đỡ phong thư, nhác thấy hai bàn tay ông khách quặt quẹo, nhưng không tiện hỏi, môi hơi mím lại kìm sự xúc động. Thầy nói :

– Ông từ xa đến đây, gặp bữa, xin mời ông cùng xơi cơm với tôi.

– Dạ, bẩm cậu ấm, cậu nhân đức quá!

Thầy Thành đi xuống nhà dưới, lúc trở lên có cả ông già Tám mang lên theo đũa bát, mấy món ăn thêm. Ông khách vẫn còn sợ sệt, con mắt đói khát nhưng không dám gắp mạnh dạn. Thầy Thành vừa gắp lên bát cho khách vừa phân trần :

– Ông cứ ăn tự nhiên. Ăn nhiều thức ăn. Ở Phan Thiết đây chẳng thiếu cá tôm đâu. Tôi vốn ăn ít đã thành thói quen rồi. Ông đừng vì tôi ăn ít mà e ngại…

Sau bữa cơm, ông khách ngồi uống nước ở bàn trà. Thầy Thành tựa tràng kỷ xem thư của cha gửi đến. Dáng thầy ngồi đọc thư cha rất kính cẩn, hai nét mày luôn chuyển động và lá thư trăn trở trên.bàn tay. Thầy lại cầm phong thư của cha gửi ông Hồ Tá Bang :”Hàn sĩ Nguyễn Sinh Huy kính thư Hồ Tá Bang tiên sinh”.

Thầy Thành bước đến bàn trà, giọng chân thành :

– Tôi sẽ trao thư của cha tôi tận tay ông Hồ Tá Bang. Tôi cũng sẽ thưa chuyện giúp ông với ông Hồ để ông được vào làm công trong công ty Liên Thành như cha tôi dặn trong thư.

– Bẩm cậu! – Người khách cảm động nói líu cả lưỡi. – Phúc phận cho nhà con rồi! – ông chìa hai bàn tay tật nguyền : – Cậu ấm coi, kiếp làm người của con vầy đây!

– Bàn tay ông sao vậy?

– Bẩm cậu ấm, – ông vẫn quen thưa bẩm – vì con không có tiền nộp thuế. Đám hào lý ở xã con tịch thu bò cày của con. Con chống cự, bị họ bắt giam và họ lấy giẻ tẩm dầu lạc quấn vào hai bàn tay con rồi châm lửa đốt mới nên nông nỗi này.

Thầy giáo Thành hai tay ôm lấy đầu, mắt như có màng mây che tối lại, bàn chân thầy xê dịch trên nền nhà. Tiếng ông khách kể như những giọt nước mắt nhỏ xuống đều đều :

– Bọn hào lý áp giải con lên huyện và vu cho con “tội đào ngạch, khoét vách ăn trộm của nhà giàu, bị người ta bắt và chịu hình phạt tẩm dầu đất đôi bàn tay đạo tặc”. Nhưng, quan tri huyện Nguyễn Sinh Huy đã như một ngọn đèn trời soi tỏ được nỗi oan khốc của con. Quan đã cấp cho con một tờ phóng thích : “vô tội bất can miễn chấp”. Con về nhà được ít lâu thì vợ và hai đứa con đều chết trọi! Con định đi sang làng khác kiếm sống nhưng hào lý không cấp thẻ thuế thân cho con. Con lại đánh đàng lên quan huyện xin được quan che chở. Thiệt là phước bảy đời để lại cho con. Quan lớn không một tí ngần ngại chi, quan viết thư đưa cho con, cho con tiền ăn đường và dặn : “Anh cầm thư này đi vô Phan Thiết. Con trai tôi đang dạy học ở trường Dục Thanh. Anh phải đi thật xa như vậy mới có thể yên thân được. Vì tôi sẽ không còn ngồi ghế tri huyện này nữa mô”. Quan còn nói : “Làm quan theo thời thì mất phúc đức to. Tôi sẽ đi cắt thuốc chữa bệnh giúp dân là phải hơn cả… “

Thầy giáo Thành vuốt lại mái tóc, đứng dậy, nói :

– Mời ông, ta sang văn phòng của công ty Liên Thành. Ông Hồ Tá Bang giờ này thường ở bên đó.

Hai người bước ra sân. Sương chiều ngoài cửa bể như những tấm lụa trắng và phơn phót hồng bay vào thành phố hoàng hôn…

10.4

Một ngày chủ nhật.

Nước thủy triều ròng kiệt. Cửa bể Phan Thiết trải một màu nâu bầm. Bãi biển lùi rộng ra xa. Từng đàn chim biển lên phơi nắng, xòe những đôi cánh trắng phau giữa thềm cát mịn màng. Những con còng, dã tràng lên dày như mắt sàng.

Thầy giáo Nguyễn Tất Thành đưa học trò đi chơi biển, học tập ngoài trời. Thầy mặc áo sơ-mi cộc tay, quần soóc đều màu trắng, đội mũ cốt bần lợp vải quét phấn trắng, chân đi giày băng-túp. Đám học trò con trai cùng mặc đồng phục như thầy giáo. Hai cô nữ sinh mặc áo dài màu trắng…

Ra khỏi phố, thầy trò leo lên những động cát. Trèo lên được hai ba bước lại tuột xuống một bước. Nhiều em lên được ngọn động, níu tay nhau ngồi bệt xuống, cát chuồi tuột xuống chân dốc, các em cười khoái chá. Hai cô nữ sinh thì mải mê tìm các vỏ sò vỏ ốc có hình thù và màu sắc vân dạng kỳ thú…

Thầy Thành bâng khuâng nhìn. biển nước ròng, bờ xa nắng trải những cồn cát, nương dâu liền một dải chân trời. Thầy cảm nhận những cánh buồm mọc thẳng trên nền biển xanh có sức kêu gọi con người đứng dậy mà đi tới. Thầy gọi học trò đến ngồi xưng quanh trên động cát có bóng cây cổ thụ. Thầy hỏi :

– Các trò có biết tại sao người dân chài lại trồng các loại cây cao to, có rễ sâu, tán rộng trên bờ biển không?

– Thưa thầy, để có bóng mát họ ngồi chơi như thầy trò ta đang ngồi ạ. Một em khác nói :

– Họ trồng cây to trước cửa bể để lấy gỗ đóng thuyền, làm chèo, làm lái ạ…

Thầy Thành cười. Các em nhìn nhau cười khúc khích. Thầy ôn tồn nói :

– Các trò nói có phần đúng. Nhưng các trò phải hiểu là loại gỗ dùng đóng thuyền, làm chèo, làm lái phải là loại gỗ ít ngấm nước, nhẹ mà dẻo mới được. Còn những cây người ta trồng trước cửa bể là cốt để làm “cột tiêu” cho thuyền bè lúc trở về bến.

Thầy chỉ tay ra phía xa khơi :

– Các trò có thích những cánh buồm đi khơi kia không?

Trò Nguyễn Thành Tây vẻ nghịch ngợm :

– Thưa thầy, nhường hai bạn “quần thoa” vốn có nhiều cao kiến nói về cảm tưởng cánh buồm trên biển ạ.

Hai cô nữ sinh mặt đỏ dừ, tay cầm con ốc chông vẽ vẽ trên cát. Đám con trai cười, nháy nháy mắt nhau. Thầy Thành gõ gõ lên đầu em Tây :

– Lại trêu chọc bạn, thầy sẽ phạt ngồi nhà như lần đi chơi núi mới rồi đó nghe.

Nguyễn Thành Tây cười tủm tỉm. Cả đám học trò đua nhau nói những cảm nghĩ của mình về cánh buồm trên biển cả. Có em đã tưởng tượng :

– Thưa thầy con thấy biển là một trang vở lớn mà buồm là chữ “A”.

Một em khác nói tranh :

– Cánh buồm là dấu than (!) trên trang vở biển nữa, thưa thầy…

Thầy Thành cười :

– Các trò ạ, người ta ví :

Chí làm trai tựa cánh buồm biển cả,
Tấm lòng già như cây lớn quê hương

Nghe thầy Thành đọc hai câu thơ, các em hết nhìn ra biển lại ngước trông lên ngọn cây. Thầy nói, vẻ đầy tin tưởng :

– Thầy vừa qua tuổi thiếu niên, thầy đọc cho các trò nghe một bài thơ mà thầy đã thuộc cách đây vài năm.
Có em hỏi :
– Chúng em chép vào các-nê (sổ tay) có được không, thưa thầy?

– Được. – Thầy đọc chầm chậm :

Hú hồn thiếu niên
Ngồi ngẫm chuyện năm châu trên trái đất,
Sóng văn minh dồn dập nổi phong trào.
Kìa như ai người thì khôn, sức thì mạnh, đất thì rộng, của thì nhiều,
Trời há lẽ riêng chi một cõi!
Sao ta cứ dã man quen thói,
Khom thân nô mà luồn cúi dưới cường quyền?
Hú ba hồn các chú thiếu niên!…

Một ông lão vai vắt tấm lưới từ trong xóm chài đi ra, theo sau ông là đám trẻ con không áo, không quần, lấm lem đất cát.

Thầy Thành nói nhỏ với các em :

– Lúc khác thầy sẽ đọc tiếp cho các trò nghe những bài thơ, bài ca mới mà thầy đã thuộc. Giờ thầy trò mình đến bắt chuyện với ngư dân, họ sẽ kể cho nghe vô số chuyện lạ trên bể…

Nhìn thấy thầy Thành, ông lão giơ tay quá đầu, nói oang oang :

– Ồ! ồ! Thầy giáo ở trong phố. Chào thầy.

– Cháu chào cụ. Hôm nay biển lặng mà cụ nghỉ nhà, hả cụ?

– Ờ… Ờ… Đáng lẽ đã ở ngoài khơi, biển bữa nầy lặng như ao. Nhưng vàng lưới bọn tui bị mập và cá nóc nó cắn, nhiều tấm rách quá trời, phải nghỉ đến mấy ngày vá víu đã thầy giáo ạ.

Mấy đứa trẻ đứng đằng xa nhìn đám học trò áo quần trắng đẹp, vẻ thèm khát, không dám đến gần.

Thầy Thành hỏi ông lão :

– Cháu định đưa học trò vô xóm để các cụ, các ông nói cho nghe những chuyến đi khơi, về lộng, tháo động vượt bão ạ.

– Trong xóm bữa nầy hổng có ai ở nhà đâu. Những ông cùng thuyền với tui cũng đang đi mỗi người một việc. Chỉ còn tui vừa vá lưới, vừa ra coi thuyền, chờ nước ròng đưa thuyền xuống theo. – ông nhìn ra phía xa, nói : – Để hôm biển động, mời thầy đến xóm chài bầy tui, muốn nghe mấy cũng được. Chuyện đi biển kể mấy ngày, mấy tháng cũng chẳng hết, thầy ạ.

Ông già đi thủng thỉnh xuống thuyền. Thầy Thành dẫn đám học trò đi lại chỗ mấy đứa bé trần trùng trục ngồi bệt dưới cát. Thấy người lạ, mấy đứa nhỏ sợ, vùng ra khỏi cát, chạy lùi từng bước, có hai em nhỏ tuổi nhất đứng im nhìn… Thầy Thành cười, nói:

– Chẳng ai làm gì các em đâu mà các em sợ. Các em đến đây, thầy và các anh, các chị cho kẹo.

Mấy em lớn máy máy bàn tay mềm mại, đám trẻ trở lại gần bên thầy Thành và các anh chị học sinh… Thầy Thành đưa gói kẹo cho hai nữ sinh phát cho các em. Thầy đứng nhìn mấy em gầy ốm bé nhỏ nhất trong đám trẻ. Thầy hỏi :

– Em bé này chắc nhà đói lắm, phải không?

– Thưa nhà nó đói, đói dữ, má nó vừa mới chết ạ.

Thầy Thành sập mi mắt xuống, lông mày rung rung. Thầy ngồi thụp xuống, bế xốc em bé lên vai. Nó hơi hốt, hai chân chuồi chuồi, lấm cả vạt áo trắng trước ngực áo thầy. Thầy dỗ dành :

– Về nhà em… thầy sẽ cho em nhiều kẹo mà.

Thầy Thành bế em bé mồ côi cùng với các em học trò đi theo đám trẻ về xóm chài.

Khi qua giếng thơi, thầy đặt em bé mồ côi xuống. Mượn được một số gàu, thầy và trò múc nước tắm cho đám trẻ. Hai nữ sinh cuốn gọn tà áo dài quanh người, múc nước giội cho em bé nhất. Thầy Thành vừa kỳ cọ cho các em, vừa dặn :

– Ngày ngày các em phải tắm cho sạch. Ăn uống đã khổ, người lại bẩn thỉu thì không lớn, không khỏe mạnh được. Ba má bận đi làm chài, đánh lưới thì em lớn tắm cho em nhỏ. Ở cùng xóm phải giúp đỡ nhau…

Một số bà con trong xóm thấy chuyện lạ chạy ra, nói bô lô ba la một chập : “Trời đất! Trời đất!… Mấy thầy, mấy cậu, mấy cô tốt bụng… tốt bụng quá lận. Có đời thuở mô người trên tỉnh sang trọng lại xuống cái xóm mường nước mặn này… Cho con nít kẹo,tắm gội cho chúng nữa nhớ! Hiếm thấy! Hiếm thấy trên trần gian đó nghe…”

Bà cụ già móm mém nhìn những vết lấm lem trên áo thầy Thành cụ cười một nụ cười héo hắt chỉ còn lợi. Cụ cầm một miếng trầu, đặt vào thành giếng, trở sống dao dần dần. Thầy Thành đỡ lấy tay cụ :

– Để cháu nhai giùm cụ, giã kiểu này đã không mềm mà ăn lại lạt lẽo.

Bà cụ ngạc nhiên, hai mắt nhìn thầy Thành chằm chằm :

– Răng thầy trắng ngọc, trắng ngà mà thầy rành cả việc nhai trầu?

– Cháu thường nhai trầu cho bà ngoại của cháu, cụ ạ.

– Thầy thương trẻ quý già. Lạ lùng lắm! Ước chi ông quan đầu triều, đức vua đầu nước có lòng thương người như thầy thì cánh dân đen bầy tui được mát mặt đôi ba phần!

Thầy Thành chắp tay xá xá bà cụ và những người xóm chài. Trên đường về, thầy Thành nói với học trò :

– Các trò thấy đó, bà cụ sống trên cửa bể nầy đã rụng hết răng mà cũng không sắm nổi chiếc cối giã trầu. Cảnh dân mình khổ vậy đó. Thầy đi từ ngoài xứ Nghệ vô đây, nơi nào thầy cũng thấy người dân sống lầm than, tối tăm, nhục nhằn! Thầy nghĩ là chúng ta học cái chữ để biết được điều hay lẽ phải trên đời và theo thầy, trước hết là học để biết và làm được những việc ích nước lợi dân…

Từ trong xóm chài cất lên tiếng võng đưa và tiếng ru con:

Sớm Nam rồi đến chiều nồm,
Anh đi để lại biển buồn cho em…

————
Chú thích:

(83) Ngôi nhà của nhà thơ yêu nước Nguyễn Thông. Nhà thơ ví cái nhà của mình như tổ chim yến là nơi nằm chơi, ngâm thơ bình văm với các bạn đồng chí đồng tâm.

Hoàng Nhật Minh

Búp sen xanh – Chương II: Phần 9

THỜI NIÊN THIẾU

9.1

Nắng. Một thứ nắng như từ biển dâng lên, tràn đầy.

Gió. Một loại gió nóng từ bên kia Trường Sơn tràn xuống, dữ dội.

Nóng. Cái nóng như lửa bốc vây hãm cả bốn phía kinh đô. Mặt trời như một cái vung lửa úp xuống Huế. Huế ngột ngạt!

Nguyễn Tất Thành sải bước trên đường phố nóng ran. Những chiếc lá rơi, gió cuốn trên đường thăm thẳm. Anh thấy bầu trời Huế… mặt đất Huế… thành quách… cung điện… đền đài Huế quay tít trong đám lá bụi mịt mù. Anh cũng cảm thấy mình đang như một chiếc lá rời khỏi cành cây bay trong gió cuốn.

Thành rời khỏi Huế, anh đi theo một nhóm người Quảng Ngãi ra bán kẹo mạch nha và mua kẹo mè xửng đưa về Quảng Ngãi bán. Nhóm lái kẹo này có chiếc xe ngựa. Thùng xe rộng, có ngăn chở hàng, ngăn để đồ nấu ăn, đựng lương thực dự trữ đi đường dài, và có bốn, năm chỗ nằm. Họ đi buôn đường xa, qua nhiều núi đèo hiểm trở nên có cả khí giới chống cướp đường, chống hổ báo. Thành bắt quen được nhóm lái kẹo từ năm trước, họ chở kẹo mạch nha ra Huế bị đồn thuế Đông Ba ức hiếp, tịch thu kẹo của họ. Họ nhờ nhà trọ Đông Ba tìm giúp người làm đơn kiện bọn đồn thuế. Thường ngày Thành đi chợ mua gạo, mua thức ăn. Bà chủ nhà trọ Đông Ba thấy một cậu con trai khôi ngô mà phải đi chợ, làm bếp, bà để ý tìm hiểu, đã biết được Thành là con trai quan thừa biện Bộ Lễ Nguyễn Sinh Huy, sống cảnh “gà trống nuôi con”. Do vậy bà chủ nhà trọ Đông Ba đã nhờ anh làm đơn giúp cho nhóm lái kẹo mạch nha. Hôm công việc xong xuôi, nhóm lái kẹo đã biện một cái lễ nhờ bà chủ trọ đưa đến nhà Thành để tạ. Thành đã từ chối. Họ nài nỉ mãi, anh đành lấy một bát kẹo mạch nha và một ít đường phèn. Đức tính cao thượng ấy của anh đã in sâu trong tình cảm nhóm lái kẹo mạch nha. Lúc anh ngỏ lời xin được đi nhờ vào miền trong, họ đón mời anh với một niềm vui “được dịp trả nghĩa cũ”.

Con đường từ Huế vào xứ Quảng như một sợi dây vắt vẻo qua những núi non khuất khúc, điệp điệp trùng trùng. Con ngựa ô bờm đen mượt, đuôi dài phu phê, dáng thon thon kéo cỗ xe chạy xăm xăm theo theo tay cương của người xà ích. Thành được nhường một chỗ ngồi thoải mái nhất. Anh có thể nhìn xa lên phía trước, nhìn sang bên đường qua ô cửa sổ nhỏ. Lúc nào mỏi, anh có thể nằm duỗi thoải mái ngang lòng thùng xe. Anh không dám ngồi ở vị trí tốt này. Nhưng cả ba ông lái mạch nha đều nhường :

– Cậu ấm đi vô xứ Quảng lần đầu, cần ngồi chỗ nớ mới dễ nhìn được phong cảnh sơn thủy hữu tình.

Ông xà ích vui vẻ giới thiệu :

– Từ đây vô Quảng Nghĩa (77) có nhiều cảnh đẹp. Chỉ tính đến Cửa Hàn cũng đã có cảnh đẹp Lăng Cô đèo Hải Vân, bến Nam Ô… Cậu ấm đã có chữ trong mắt thì nhìn cái đẹp một hóa đẹp hai, đẹp ba, bốn lần.

Thành tránh lời đề cao về mình, anh khiêm tốn :

– Mỗi một cuộc đi xa là một dịp học hỏi được những điều bổ ích, các bác ạ.

– Đúng. Đúng. – ông xà ích vẻ ăn ý nói – Cậu ấm nói đúng.

Đi một đoạn đàng, học một sàng khôn mà! Cuộc hành trình ngày đầu tiên qua được Lăng Cô. Người xà ích lái ngựa rẽ vào một làng nhỏ dưới chân đèo. Mọi người xúm vào việc cơm nước trước khi trời tối. Ông xà ích cho ngựa ăn thóc, uống nước. Thành lấy liềm, sọt đi cắt cỏ cho ngựa Cả nhóm lái kẹo ngạc nhiên :

– Ơ! Cậu ấm… sao cậu ấm lại đi làm cái việc…

Ông xà ích giằng lấy cái liềm trên tay Thành. Thành phải nói rõ ràng :

– Tuy là học trò, con nhà quan, nhưng từ lúc còn bé, ở nhà với bà ngoại, tôi đã quen những việc như thế này.

– Quý hóa quá! Quý hóa quá trời! – Những người lái kẹo xuýt xoa tấm tắc. – Nhà quan nào cũng như nhà cậu thì cánh dân đen hẳn là đỡ khổ đôi ba phần!

Qua một đêm ngủ bên đèo Mây, Tất Thành thấy sảng khoái như ở quê nhà. Ngồi trên xe ngựa lắc lư gập ghềnh mà đầu óc anh vẫn chưa hết bâng khuâng về giấc mơ về quê nhà đêm qua. Hình ảnh những người thân ở quê nhà bịn rịn trong tâm hồn anh…

Con ngựa ô kéo cỗ xe lên đèo Hải Vân, chân choãi về sau, toàn thân rướn lên phía trước, cái đầu lắc lư, bộ bờm đen mượt phập phồng, cổ dâm dấp mồ hôi. Thành thương con ngựa kéo nặng :

– Có lẽ ta xuống bớt, đẩy xe đỡ cho ngựa một chút.

– Khỏi – ông xà ích nói. – Sức ngựa ô khỏe, dai lắm. Kéo chừng này chả thấm tháp gì với sức của nó. Vì lên dốc, nó phải ráng sức chút xíu ạ.

Gặp phải buổi trời mù, đèo Hải Vân chìm trong mây trắng. Đi trên đèo, chỉ nghe tiếng sóng biển hòa với tiếng gió hú. Mấy bác Mấy bác lái kẹo băn khoăn :

– Tiếc quá, gặp phải hôm trời xấu, cậu ấm không được nhìn thấy mặt biển như lụa, ngọn đèo như tháp đồng đen, mây gấm, nắng tơ… Hùng vĩ và thơ mộng lắm, cậu ấm ạ.

Thành đưa mắt ra xa, toàn một màu trắng bồng bềnh. Đầu con ngựa như một mũi thuyền rẽ màn mây trắng đi vào cõi thần tiên. Anh bắt đầu cảm thấy lý thú như một chàng hiệp sĩ “chẳng quản gì da ngựa bọc thân”.

Bỗng ngựa hí, nhảy chồm lên, chân đá vào càng xe! Cỗ xe bị đổ về phía sau. Người, đồ đạc trên xe lăn cù cù, ngựa hí vài tiếng yếu đuối, vùng vẫy… Tiếng hổ gầm. Mọi người đã hết bàng hoàng, choàng dậy. Ông xà ích kêu thất thanh :

– Ôi! Trời đất ơi! Hổ vồ ngựa! Ngựa bị hổ móc cổ rồi.

Mọi người xúm đến quanh con ngựa. Con ngựa đã quỵ xuống, máu đang chảy lênh láng nóng hôi hổi, vết thương ở cổ toang hoác, cuống họng bị đứt lùa thùa, bộ bờm đen mượt phủ kín mắt như đang ngủ.

Ông xà ích khóc :

– Khổ thân con ngựa quý của tôi, vì vướng càng xe mà bị cọp vồ trộm mới nên cơ sự này! Nếu nó rộng chân thì một cọp chứ mười cọp cũng khó nhổ được một cái lông đuôi của nó. Ôi! Nó kết bạn với tôi đã gần mười năm rồi. Nó về nhà tôi lúc chưa mọc răng kia mà.

Ông cầm con mác cán dài đi theo vết máu mảng cổ ngựa bị hổ tha. Ai cũng ứa nước mắt, vỗ vỗ bàn tay lên mình ngựa còn đẫm mồ hôi. Tất Thành ngồi bên đầu ngựa vuốt mắt cho nó và vuốt bộ bờm mát rượi bàn tay.

Ông xà ích quay về, cắm phập cái mác xuống bên mình ngựa, tay chống nạnh.

– Tôi mà gặp được thì thằng cọp chết tươi hoặc tôi chết chứ chẳng chịu vầy đâu! Hu… hu…hu… – ông ôm mặt khóc to.

Anh em lái kẹo an ủi :

– Gặp xui (rủi) vầy rồi thì ta liệu việc để còn đi thấu Cửa Hàn kẻo tối trên đèo mất.

Ông xà ích tìm được một trảng cỏ bên thung lũng. Chỉ có một cái cuốc và mấy cái lưỡi mác, họ chuyền tay nhau đào bới. Thành cởi áo ngoài, xắn quần quá gối khuân đá, hót đất lên. Đào được một cái hố dài, sâu để lọt vừa thi hài ngựa, ông xà ích lồng sợi dây thừng ngang mình ngựa, mọi người xúm vào cùng kéo. Ông xà ích nước mắt ngắn nước mắt dài, nhờ Thành :

– Cậu ấm vần những hòn đá ra xa và chặn bằng các gốc cây để ông Mã đỡ xây xát, đỡ đau.

Ông xà ích e cậu ấm Thành chưa thông cảm về cách gọi tôn kính của ông, ông phân trần :

– Cậu ấm ơi, cái giống ngựa lúc còn sống thì làm thân tôi tớ cho người, khi chết hóa thành thần Mã, chầu nơi đền đài thờ vương, thờ đế.

– Cháu có hiểu phần nào cái điều ấy, chú ạ.

Ngôi mộ con ngựa được vun cao và xếp đá xung quanh. Ông xà ích quỳ trước mộ, khấn :

– Thưa ông Mã! Người xưa dạy : “Con trâu là đầu cơ nghiệp. Con ngựa là vựa tiền”. Lúc ông còn sống, ông đã gò lưng làm lụng nuôi cả nhà tôi. Chẳng may ông bị lâm nạn giữa truông, giữa đèo nên chứng tôi mai táng ông quá sơ sài xin vong linh ông mở lượng hải hà cho chúng tôi được phần nhờ. Xin hứa với ông chuyến đi kinh đô tối chứng tôi sẽ có lễ bạc lòng thành tạ trước mộ ông.

Nguyễn Tất Thành cùng đứng với các ông lái kẹo một hàng ngang trước mộ “ông Mã”, vái năm vái. Anh nao nao như lúc đứng trước ngôi mộ người thân. Mọi người xếp sắp lại đồ đoàn vào xe. Trời đã trưa. Sương tan. Mây trắng trôi trên đỉnh núi. Biển trải xanh xa dưới chân đèo thăm thẳm. Thành cảm thấy ngơ ngác trước biển cả núi cao này.

Ông xà ích giọng cứng rắn :

– Từ đây đến Liên Chiểu không còn xa nữa. Từ Liên Chiểu đến Nam Ô độ một dặm và về Cửa Hàn còn hơn hai dặm nữa. Về thấu tỉnh lỵ Quảng Nghĩa còn những ba mươi tám dặm kia.

– Chúng ta xếp đặt cách đi sao cho tiện bây giờ? – Một ông lái kẹo hỏi.

Ông xà ích nói :

-Một người cầm càng, hai người đẩy xe, hai người nữa ngồi trên xe, rồi lại thay nhau người đẩy, người nghỉ. Riêng cậu ấm Thành cứ nghỉ ở trên xe. Vô tới Cửa Hàn ta tìm xe quen để gởi cậu đi nhờ về Quảng Nghĩa.

– Các chú ơi! – Thành nói – Các chú đã nhận ghép cháu vào cùng một chuyến đi đường dài ngày. Mọi việc may, rủi xảy ra dọc đường, cháu cũng được chia phần, cùng gánh chịu như mấy chú vậy.

– Cậu ấm có cái bụng tốt ấy, bầy tui biết – ông xà ích nói. – Bầy tui thương chú học trò, tay yếu chân mềm mà làm cái việc đào đất cất gỗ, tội nghiệp quá ta!

– Cháu đã chịu đựng những nỗi khổ quen rồi, các chú ạ…

– Vậy thì – mấy mấy ông lái hồ hởi nói – ta đi nào ! Đi !…

Thành hai chân choãi ra sau, người vươn lên trước, tay đun xe bước đi giữa âm vang biển cả và gió hú đèo Mây.

9.2

Vào thấu thị xã Quảng Ngãi, Tất Thành ở lại đây mấy ngày vì thấm mệt qua chuyến đi đường dài. Những người lái kẹo mạch nha rất kính nể vốn học và mến tính siêng năng, đức hiền từ của Tất Thành, đã tha thiết mời anh ở lại dạy cho các con, cháu của họ học. Anh từ chối : “Cháu còn ít tuổi, cần phải đi đây đi đó để lượm lặt những điều hay lẽ phải thành cái vốn, lúc đó có đi dạy học hay làm việc gì mới thật sự có ích, các chú ạ”.

Những ngày lưu lại thị xã Quảng Ngãi cũng như đi qua Quảng Nam, Nguyễn Tất Thành nghe được nhiều tiếng dân kêu than. Lời nguyền rủa thực dân Pháp, oán thán bọn tay sai buôn dân bán nước, chẳng những Thành nghe được khá nhiều mà anh còn nghe được những tiếng dân ngợi ca, thương tiếc các ông nghè, ông cử ông tú ông đồ đã bị chém giết, tù đày vì nghĩa lớn. Tại Quảng Ngãi người ta bàn tán nhiều nhất là vụ dân nổi dậy đốt nhà tên đại việt gian Nguyễn Thân. Khắp các ngả đường, nơi chợ búa, trong quán trọ, cửa hàng nước… họ kể về lòng thương dân, tinh thần tiết tháo của quan Trần Văn Phổ (cha Trần Phú) làm tri huyện Đức Phổ. Ông không chịu hợp tác với tên công sứ Đô-đê đàn áp nhân dân nổi dậy chống sưu cao thuế nặng. Nó hứa sẽ thăng chức tri phủ cho ông. Nhưng ông đã mắng vào mặt tên Đô-đê. Nó dọa sẽ cách chức ông nếu ông không mộ phu, đưa lính đi theo nó về các làng trong huyện “làm nhiệm vụ”. Ông đã chống lại và đã thắt cổ tự tử tại công đường. Vợ ông là bà Hoàng Thị Cát đã bồng bế các con đến cửa Tây thị xã Quảng Ngãi, dựng quán bán nước chè kiếm sống…

Rời Quảng Ngãi, Thành đi vào Bình Định. Anh đi với phường tuồng Vinh Thanh huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định, quê của quan thượng thư Đào Tấn. Phường được mời ra diễn tại thị xã Quảng Ngãi và giúp cho phường tuồng ở đây dựng vở “Hoàng Phi Hổ quá quan” của Đào Tấn.

Thành đến xem đoàn tuồng ở quê quan Đào Tấn diễn vở của Đào Tấn với một tình cảm sâu nặng, thầm kín. Anh ngồi xem tuồng, nhưng trong đầu anh thỉnh thoảng lại xuất hiện những hình ảnh quan Đào Tấn
cùng đàm đạo với cha mình trong căn nhà nho nhỏ ở thành nội, kinh đô Huế.

Đêm hát đã tan, Nguyễn Tất Thành dùng dằng không dứt ra về được. Người di xem hát về đã vãn, phường tuồng đã thay áo xong, anh ngẫm nghĩ một lúc rồi mạnh dạn đến gặp ông trùm phường :

– Thưa ông, cháu xin gặp người vừa sắm vai Hoàng Phi Hổ ạ.

Ông trùm phường nhìn Thành ngờ vực :

– Cậu gặp có việc gì?

– Thưa ông, cháu từ ngoài xứ Nghệ vô đây. Cháu thường được nghe các bậc cha chú ca tụng tuồng Bình Định. Nay cháu được xem phường tuồng của quê hương quan Đào Tấn, quả là “danh bất hư truyền”. (78)

Ông trùm phường vẻ cảm động :

– Đa tạ về những lời phẩm bình của cậu.

– Riêng có một chỗ trong vai Hoàng Phi Hổ, cháu muốn nói ra điều trộm nghĩ của cháu mà e có sự thất thố khác nào “đánh trống qua nhà sấm”.

– Cậu đã từ xứ Nghệ vô đây, lại có lòng hạ cố tới coi phường chúng tôi hát mà còn cho lời châu ngọc nữa thì đó là ơn tri ngộ, chứng tôi ghi nhớ mãi.

– Được như vậy thưa ông, cháu mạnh dạn xin tỏ bày : Người đóng vai Hoàng Phi Hổ cũng như tất cả các vai trong vở tuồng đều giỏi bộ, hát hay. Cháu được nghe cha cháu thường đàm đạo với bạn : Diễn tuồng mà chỉ có hát hay, điệu bộ kém và ngược lại, thì chẳng khác chi người bán thân bất toại (79). Bởi vì diễn tuồng là công việc chạm trổ hình ảnh người đời ở trên sân khấu, làm rõ từng cử chỉ, phong độ, tánh cách, lời ăn tiếng nói của nhân vật. Lại còn phải trạm trổ cái hồn văn của người viết vở diễn trong từng câu, từng lời với bao nhiêu thần sắc : hỉ, nộ, lạc, ai, ái, ố, dục (80), tức là bảy cái tính ở trong con người ta. Cháu thấy phường hát của ông đã thành đạt được những điều ấy. Người đóng đạt nhất là vai Hoàng Phi Hổ. Nhưng, vai Hoàng Phi Hổ còn gượng một chỗ khá quan hệ, đó là điệu cười chưa thật đúng tâm trạng nhân vật. (Ông trùm phường tuồng ngước nhìn Tất Thành, mắt lấp lánh niềm vui thán phục). Cháu cho là – Tất Thành nói – việc chạm trổ tính cách nhân vật Hoàng Phi Hổ là điều không dễ, mà khó nhất là lúc ông ta cười, một cái cười đẫm nước mắt. Vì Hoàng Phi Hổ là người đã nhiều phen vào sinh ra tử, dốc hết tâm sức thờ vua, nguyện suất đời trọn đạo trung quân. Nào ngờ vua Trụ lại làm nhục vợ mình. Cái khó xử cho Hoàng Phi Hổ là có dám chống lại vua để bảo vệ danh dự vợ chồng mình không? Mà chống lại vua là chống một niềm tin, một cơ đồ mình đã đổ máu hy sinh vì nó, và như vậy liệu có mang tiếng với thiên hạ, mình là kẻ phán phúc không? Hoàng Phi Hổ với tâm trạng ấy cho nên hát lên hai tiếng “phản Trụ” rồi cười, Hoàng Phi Hổ cười ai? Phải thấy Hoàng Phi Hổ cười cả cái chế độ nhà Trụ, một chế độ đã dày công xây đắp vững bền từ mấy đời nay sụp đổ chỉ vì một sắc đẹp, vì một người đàn bà. Hoàng Phi Hổ còn cười mình đã mù quáng, hy sinh cả đời mình một cách vô nghĩa! Theo cháu, người sắm vai Hoàng Phi Hổ phải tạo nên một tiếng cười lột tả được cái tâm trạng này.

Ông trùm phường tuồng ôm choàng lấy vai Nguyễn Tất Thành lắc lắc :

– Đúng cậu là… Cậu là thầy tuồng rồi!

– Không dám. – Tất Thành đáp. – Thưa ông, cháu chỉ là người khán giả nhỏ thôi ạ.

Ông trùm phường tuồng lại vỗ vai thân mật :

– Xin cậu cho biết quý danh?

– Dạ, cháu là Nguyễn Tất Thành ạ.

– Cậu còn trẻ mà đã tinh tường nghệ thuật tuồng khiến tôi phải sửng sốt. – Giọng ông bồi hồi : – Lúc sinh thời thầy tuồng của chúng tôi, quan Đào Tấn thường nói với chúng tôi : “Người xứ Nghệ rất mê tuồng và thưởng thức rất tinh tường”. Thầy còn nhắc tên những người bạn của thầy như quan đốc học Đặng Nguyên Cẩn, quan Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, ông giải nguyên Phan Bội Châu…

– Thưa ông cha cháu là Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc ạ.

– Ồ! Trời đất! Cậu… là con quan Phó bảng Sắc! Hèn chi! Hiện thời quan Phó bảng đang ngồi ghế tri huyện tại Bình Khê, trong tỉnh chúng tôi.

– Dạ. Cháu vô thăm cha cháu đây ạ.

– Ô chà chà, còn chi bằng. Chúng tôi mời cậu ấm cùng đi vô với phường chúng tôi. Được vậy thì vinh hạnh cho chúng tôi lắm lắm.

*****

Thành bước vào cửa huyện đường Bình Khê lúc chiều tà. Quan huyện Nguyễn Sinh Huy và vài người lính lệ đang làm vườn. Người lính nhìn thấy khách lạ nói :

– Bẩm quan, có thư sinh nào… trông lạ kia ạ?

Quan huyện Huy nhìn lên, ngạc nhiên :

– À! – Ông nghiêm nét mặt, nói với anh trong lúc đi về phía Thành – Người con thứ của ta.

Thành chắp tay :

– Con chào cha. Cha có được khỏe không, thưa cha?

– Ừ, rất khỏe.

Mấy người lính chạy đến :

– Kính chào cậu ấm!

– Xin chào cậu ấm đến thăm quan lớn!

Tất Thành đáp lại rất lễ phép với những người lính hầu của cha mình.

Đám lính xuống nhà bếp lo cơm nước. Quan huyện Huy dẫn con về phòng riêng của mình. Ông ngồi đối diện với con ở ghế tràng kỷ. Ông hỏi lạnh lùng :

– Con đi đâu mà qua đây?

– Dạ, con đến với cha ạ.

– Anh đến với tôi để làm gì?

– Con đến thăm cha để rồi… con đi…

Nét mặt ông đã ấm lại và thoáng cười tươi :

– Được. Cha tưởng con đi theo cha thì đáng buồn. Con phải tự tìm ra cho mình một hướng đi, một con đường. Đời cha không có con đường, chỉ có một ngõ cụt. Cha đã không làm được điều mình hằng ước nguyện : vì Tổ quốc mà ngã giữa trận tiền, vì công bằng mà rơi đầu trước đám cường quyền bạo ngược. Cha đành chịu phận : chí đoản, hận trường(81).

– Nhớ lời cha dặn con hồi năm ngoái, nay con định đến Phan Thiết, trao phong thư của cha tới ông Hồ Tá Bang. Con sẽ xin được dạy học ở trường Dục Thanh một thời gian, cha ạ.

– Phải. Con cứ mạnh dạn làm, một khi lòng đã quyết. Con đã đến tuổi tráng niên rồi. Nhớ là : “Kỳ ấu giả duy phụ mẫu sở hữu chi thân, kỳ tráng giả duy quốc gia sở hữu chi thân, kỳ lão giả duy hậu thế sở quan trọng chi thân” (82).

Hai cha con cùng sưởi ấm cho nhau trong đêm trên đất Tây Sơn, quê hương người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ.

Sáng hôm sau, ông Sắc ra huyện đường xử một vụ kiện đã kéo dài cả ngày hôm qua vẫn chưa xong. Anh Thành nhờ một anh lính huyện, người ấp Tây Sơn đưa đi thăm miền đất tụ nghĩa “áo vải cờ đào”. Lúc trở về mặt trời đã tròn bóng. Thành thấy gương mặt cha đanh như thép lạnh. Anh chưa rõ nguyên do mà lòng cứ thổn thức với nỗi cô đơn của cha.

Anh lính lệ bưng cơm lên và lễ phép mời hai cha con quan huyện :

– Bẩm quan lớn và cậu ấm mời cơm ạ!

Thành để cha ngồi vào bàn ăn trước. Anh ngạc nhiên thấy cha tự tay mở lồng bàn và nghiêm giọng như hỏi cung phạm nhân :

– Món tôm he bữa qua còn khá nhiều sao không…

Anh lính lúng túng thưa :

– Bẩm quan lớn! Con sơ ý đậy không kỹ để mèo ăn hết cả rồi ạ.

Ông huyện Sắc đặt mạnh tay gần như ném cái lồng bàn xuống phản ngồi, hỏi :

– Mèo ăn vụng thì hết một con hai con, sao lại hết nhẵn từng ấy con tôm he to gần bằng cổ tay?

Mắt Thành tối sầm lại! Anh thầm nghĩ : Từ ngày còn sống dưới nách cha chưa bao giờ thấy cha để ý đến miếng ăn, sao bây giờ…? Chẳng lẽ cái “quan tham ô lại” cũng nhiễm vào cha mình?

Anh lính hầu mặt xanh như lá, nói líu cả lưỡi :

– Bẩm quan lớn! Có đèn trời soi xét cho con. Chỉ có mèo ăn thôi ạ!

Ông huyện Sắc đập mạnh tay xuống bàn, quát :

– Ta sẽ tra cứu đến nơi. Anh ăn tôm mà đổ cho mèo thì trục hồi bản quán ngay.

Người lính hầu quỳ xuống đất khấu đầu, tay vái :

– Bẩm quan lớn! Con ăn tôm ạ. Xin quan lớn rộng lượng hải hà cho con!

Thành hai tay ôm mặt quay đi. Nhưng ông Sắc đã cúi xuống nâng anh lính hầu đứng dậy, giọng ông thấm nước mắt :

– Tôi xin lỗi. Tôi xin lỗi anh. Mèo không ăn mất tôm, anh cũng không ăn mất tôm đâu. Đĩa tôm he vẫn còn nguyên vẹn tôi đang giấu ở tủ hồ sơ. Tôi thử anh để mà nghiệm ra việc xử vụ án suốt hai ngày mà bị can vẫn chưa chịu nhận “tội”. Lúc tôi phải dùng bàn tay đập bàn hăm dọa, truy bức thì bị can liền “thú tội”! Tôi e rằng họ bị oan!

Ông quay lại nói với Thành, giọng xúc động :

– Làm quan dẫu có giữ mình trong sạch cũng không tránh được hết lỗi lầm. Chỉ một lần gieo oan thì cũng phải ba đời mình chịu oán. Sẽ thất đức con ạ. Thôi… đi đi… con! Nước mất con đi tìm nước… Sớm muộn rồi cha cũng sẽ là nạn nhân chứ không thể là kẻ sát nhân trên cái ghế quan trường này!…

————

Chú thích:

(77) Quảng Ngãi
(78) Tiếng đồn không sai
(79) Bại liệt mất một nửa người không hoạt động được
(80) Mừng, giận, vui, buồn, yêu, ghét, ham muốn
(81) Chí nhỏ hận dài
(82) Đại ý : Lúc ta còn thơ ấu thì thuộc quyền cha mẹ, lúc ta lớn lên thuộc về đất nước, lúc về già lại phải dành cho lớp người sau là quan trọng nhất.

Hoàng Nhật Minh

Búp sen xanh – Chương II: Phần 8

THỜI NIÊN THIẾU

Cuộc nổi dậy của người Thừa Thiên – Huế kéo dài đến ngày thứ tư thì bị dập tắt.

Nguyễn Tất Thành bị cảnh sát săn đuổi. Anh phải sống ẩn náu trong nhà một vài bạn học mà cảnh sát và nhà trường không để ý tới. Thành được anh Đạt và một số bạn hằng ngày đem cho những tin tức mới ở trường, Tòa khâm sứ cho người sang trường Quốc học khiển trách về vụ học sinh đã tham gia biểu tình chống “nhà nước bảo hộ”. Tòa khâm còn ban bố lệnh : “Những trò nào chỉ là a tòng, vì bị rủ rê mà nhập đoàn nhập ngũ đi reo thì phải làm giấy tự thú với Hiệu trưởng mới được học tiếp. Những trò nào đứng ra hô hào dân chúng và học trò tham gia bạo loạn thì phải đuổi khỏi trường ngay”.

Thầy Lê Văn Miến và một số thầy người Việt phản đối việc đuổi và bắt học trò làm giấy đầu thú. Viên khâm sứ nguyên có biết thầy Miến tại Pa-ri, đã nhiều lần mời thầy sang tòa khâm chơi, nhưng thầy từ chối. Thậm chí mỗi lần y đến trường Quốc học, cố ý để gặp thầy Lê Văn Miến, ông đều tránh mặt y. Lần này, đề lấy lòng thầy Miến, y đã “miễn tội” cho những học sinh tham gia vụ biểu tình chống bắt phu giảm sưu thuế của bà con nông dân Thừa Thiên – Huế. Nhưng, Nguyễn Tất Thành vẫn phải làm “tờ thư” nộp cho Hiệu trưởng và đi theo Hiệu trưởng đến tòa khâm để cam đoan từ nay về sau không được làm việc gì gây tổn hại đến “sự nghiệp của nhà nước bảo hộ”.

Đạt đưa thầy Lê Văn Miến đến gặp Thành. Thầy Miến chân thành nói :

– Trước ngày đi Bình Khê nhận chức, quan Phó bảng có dặn thầy : “… hãy vì tình bằng hữu giúp tôi trong việc chăm sóc các cháu Đạt, cháu Thành, đặc biệt là cháu Thành học tới thành chung”. Nếu quan Phó bảng không gửi gắm thì thầy vẫn làm phận sự ấy với hai trò. Thầy rất quý cái tâm, cái chí sáng của trò. Thầy muốn trò. chịu nhẫn nhục để học cho tới bằng thành chung rồi trò sẽ tự quyết con đường sống của mình…

– Thưa thầy, – Thành nói từ tốn – con không lỗi đạo thầy trò. Vừa qua, con hành động đúng. Con đã có năm ba chữ, biết suy nghĩ, con sang tuổi mười tám rồi, con không thể thờ ơ trước việc đồng bào mình bị chà đạp, phải đứng dậy đòi được quyền sống. Con biết ơn thầy muốn giúp con được tiếp tục học đến đầu đến đũa ở cái trường này. Nhưng, thưa thầy, con cam chịu bị đuổi ra khỏi trường chứ không thể tự trói mình nộp mạng cho tòa khâm!

– Thưa thầy – Đạt nói – vừa rồi Công tôn nữ Huệ Minh gặp con cho biết : mệ đã gặp vợ ông khâm sứ, nhờ xin cho Thành được trở lại tiếp tục học, do vậy mà tòa khâm mới có cái “đặc ân” gửi sang trường…

– À! – Thầy giáo Miến hơi cúi xuống, vẻ ngạc nhiên. – Thì ra đằng sau cái việc tòa khâm cho trò Nguyễn Tất Thành được trở lại trường học còn có…

– Thưa thầy – giọng Thành đanh lại – lão khâm sứ đã dám chìa bản “đầu thú” viết sẵn ra trước mặt đức vua Thành Thái giữa lúc vua bước ra khỏi hoàng cưng lên đường đi đày. Đức vua đã ném cái tờ giấy nhục nhã ấy xuống đất ngẩng cao đầu : “Muôn dân nô lệ từng đàn, vui chi bệ ngọc ngai vàng riêng ta?…”. Thưa thầy, vua ung dung đi đày, không quay trở lại ngồi trên ngai vàng nô lệ. Cái ghế học trò! Con yêu nó như yêu cái thềm nhà in dấu vết con tập bò, tập đi. Nhưng con không thể chịu nhục ôm cái ghế để có mảnh bằng thành chung. Thầy hiểu cho lòng con…

– Tất Thành! Con đừng nói thêm một lời nào nữa! – Thầy Lê Văn Miến hai bàn tay bưng lấy mặt nói. – Con hãy đi… đi theo tiếng gọi của lòng con…Thầy và vị thân sinh của con…

Thầy giáo Lê Văn Miến nghẹn ngào nuốt trở vào những lời ông chưa kịp nói ra. Ông từ biệt Nguyễn Tất Thành, người học trò đã để lại trong tâm trí ông cái ấn tượng như con số 1 đứng ở đầu hàng số dài vô tận…

*****

Thầy giáo Miến đi rồi, Thành càng bâng khuâng về lời thầy nói lúc đầu : “Thầy đã ở tại thủ đô nước Pháp. Quả là một cường quốc bậc nhất hoàn cầu. Nước Việt Nam là hàng nhược tiểu, thua kém họ nhiều lắm. Các bậc tiền nhân, các nhà có khoa bảng đã dám đứng ra chống người Pháp, rất đáng kính phục, nhưng chỉ là lấy gậy chọc trời. Rốt cuộc, hết thất bại này đến thất bại khác. Lớp người tai mắt như Trần Cao Vân, Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Đặng Nguyên Cẩn, Ngô Đức Kế, Nguyễn Hàm, Nguyễn Thành, Nguyễn Văn Ngôn, Đặng Văn Bá, Lê Văn Huân, Phạm Văn Ngôn… đều bị gông cổ đày đi biệt xứ. Quan nghè Trần Quý Cáp bị chặt đầu, mất xác. Phan Bội Châu và những đồng chí của ông hiện đang sống lênh đênh, phiêu bạt trên đất Phù Tang, đất Tàu…”

Tất Thành băn khoăn : Ông Phan Bội Châu coi Nhật là cường quốc của châu Á, chọn Nhật làm chỗ dựa để đuổi người Pháp, giành độc lập cho nước nhà. Nhưng nghe nói Nhật đang bắt đầu trở mặt với ông Phan, thân thiện với Pháp. Thầy giáo Lê Văn Miến đi Pháp về thấy Pháp là nước hùng mạnh, thấy nước nhà nhỏ yếu tuyệt vọng Thầy đã coi việc ta mất nước cho Pháp gần như một định luật, không còn phương cứu nữa…

Đạt đi tiễn thầy Miến rồi về quán trọ Ao Hồ, lúc trở lại vẫn thấy Thành ngồi trầm ngâm như pho tượng, anh an ủi em :

– Nếu không còn ở lại Huế nổi thì em vô Bình Khê với cha, hoặc em về Nghệ An với chị Thanh. Em nghĩ ngợi nhiều có ích gì?

– Không nghĩ sao được anh? Bao nhiêu người tai mắt của đất nước lần lượt bị giết, bị hạ ngục, hoặc đày đi Côn Lôn, Lao Bảo… Còn nữa thì lại nuốt hận, coi việc nước mình mất cho Pháp là điều không tránh khỏi.

– Thầy Miến nói cũng có phần nào đúng chứ em?

– Anh biểu có phần đúng là những phần nào?

– Chúng mình đi đến đâu cũng thấy người Pháp họ đến nắm quyền cai trị, cai trị từ vua cai trị xuống. Chúng mình học, đọc sách, thấy nước Pháp họ văn minh, thứ gì họ cũng hơn hẳn nước mình. Nước lớn ức hiếp nước bé, kẻ mạnh bắt nạt người yếu, thời nào cũng vẫn có chuyện đó, em ạ.

– Điều anh nói đó là hoàn toàn đứng. Nhưng, em thấy nếu cuộc đời chì quay có một chiều : lớn thắng bé, mạnh được yếu, thì nhân loại từ xưa tới nay chi có lăn theo cái trật tự ấy. Trái lại, dân tộc ta nhỏ mà đã thắng nhà Hán, thắng nhà Tống, thắng nhà Nguyên, thắng nhà Minh, thắng nhà Thanh. Tổ tiên đã dám đánh thắng kẻ thù dân tộc lớn mạnh hơn mình gấp bao nhiêu lần, lẽ nào ngày nay lại không có ai dám dương đầu với quân Pháp cường bạo?

Đạt ngồi lặng nhìn hai bàn chân em luôn luôn xê dịch trên nền nhà. Anh hỏi em một cách đột ngột:

– Em định thế nào?

– Em rời khỏi Huế ngay hôm nay.

– Em đi đâu?

– Em đi lần vô miền trong.

– Để làm gì?

– Em còn muốn đi xa nữa. Đi để biết, để học, để rồi làm được một việc gì có ích cho dân mình, nước mình…

– Em đã nghĩ kỹ chưa?

– Từ lâu em đã tìm, đã lựa chọn cho mình một hướng đi, anh ạ.

– Em đã quyết thì hành. Anh học hết niên khóa này, anh cũng sẽ chọn một hướng sống hợp với mình…

Hai anh em nhìn nhau. Mắt ướt! Ngoài vườn khuya, tiếng chim rời rạc vọng vào như từng giọt lệ rơi : quốc… quốc…

Hoàng Nhật Minh

Búp sen xanh – Chương II: Phần 7

THỜI NIÊN THIẾU

7.1

Nguyễn Tất Đạt từ Nghệ An trở vào Huế. Đạt bàng hoàng trước cảnh nhà : cha đã đi khỏi kinh đô Huế, em trai Nguyễn Tất Thành bị cảm sốt từ hôm tiễn cha đi, nằm mê man. Những người bạn thân nhất của Thành là Diệp Văn Kỳ, Lê Thị Hạnh đã về Sài Gòn, Công tôn nữ Huệ Minh đã về nhà chồng, Thành nhờ có một số bạn học mới giúp thuốc thang và cháo lão… Tất Đạt chạy thầy, chạy thuốc tiếp cho em. Anh sang tận bên An Cựu mời thầy lang nổi tiếng về nuôi tại nhà trong những ngày em bệnh nặng. Khi được biết rõ bệnh nhân là con trai thứ quan Phó bảng Nguyễn Sinh Huy, thầy lang đã không lấy tiền bắt mạch kê đơn và cũng từ chối cả việc cơm nước.

Thành khỏi bệnh, hai anh em trả nhà cho chủ đến ở trọ tại quán Ao Hồ (đường Mạc Đĩnh Chi bây giờ). Trường Quốc học có mặt học sinh mười hai tỉnh của xứ Trung Kỳ, nhưng học trò Nghệ Tĩnh, Quảng Nam là đông nhất. Do đó, có hai quán trọ dành riêng cho học trò xứ Nghệ và học trò xứ Quảng. Hai anh em Thành trọ chung một buồng hạng ít tiền nhất, tự giặt lấy quần áo, ăn cơm “bình dân”.

Thầy Lê Văn Miến ghé thăm nơi ăn, chỗ ở của học trò Nghệ, đồng hương với thầy. Thầy Miến băn khoăn nói với anh em Thành :

– Trước ngày quan Phó bảng đi Bình Khê nhận chức tri huyện; thầy có bàn việc đón hai trò đến nhà thầy ở. Nhà thầy rộng, có nơi ngồi học riêng biệt. Thầy không sống bằng cao lương mỹ vị. Nhưng nhìn bữa ăn của hai trò, thầy không cầm lòng nổi. Hai trò về nhà thầy ở. Nhà thầy có một khu vườn xanh, cả ngày không lúc nào vắng tiếng chim, có những chậu cảnh, các loại hoa quý, Thầy biết trò Thành yêu cảnh trí và thích hội họa. Thầy sẽ dạy cho trò học thêm môn vẽ.

– Thưa thầy, – Thành lễ phép nói – con và anh con rất biết tấm lòng vàng của thầy. Và chúng con khi được ở bên thầy việc học của chứng con càng tấn tới. Nhưng thưa thầy chúng con cũng muốn sống tự lực, để khi gặp phải cảnh ngộ nào chúng con vẫn giữ được nếp nhà.

Thành nhìn bộ quần áo của thầy, giọng xúc động :

– Thầy là gương sáng về cốt cách người Nam để chúng con noi theo : thầy đã từng du học ở bên Tây, ăn cơm Tây, nói tiếng Tây, nhưng không hề thấy thầy đã bị trừ đi một phần nào cái cốt cách dân tộc. Nhưng chúng con thấy một số thầy người Nam mà cách nồi, cử chỉ, ăn mặc lại hoàn toàn như người Tây. Trong khi đó có những thầy người Tây lại ra công học tiếng Việt Nam, mặc y phục Việt Nam, đặt tên Việt Nam và tập ăn các thứ mắm, ăn trầu thuốc nữa…

Thầy Lê Văn Miến cầm lấy bàn tay thon thon của Tất Thành, giọng ông nói ấm áp :

– Tục ngữ có câu: “Đã khôn từ trứng khôn ra, đã dại đến già vẫn dại”. Tiền đồ của dân tộc phải trông đợi ở lớp người trẻ. Lớp người như thầy thật vô dụng…

Nguyễn Tất Thành hơi bối rối :

– Thưa thầy không có lớp các thầy những người như thầy, thì đâu có lớp chúng con?…

Hai thầy trò cùng nhau đi khoan thai tới quán sách cụ Lừa…

*****

Nguyễn Tất Thành ngồi trong lớp nhìn lên bảng đen :

Giờ học lịch sử cuộc cách mạng Pháp 1789.

Ông giáo người Pháp Gơ-ri-phông (Griffon) bước vào. Cả lớp đứng dậy đều răm rắp. Ông ta bước lên bục giảng, đưa mắt “điểm danh” từng dãy bàn. Ông nói giọng thổ : “Các trò ngồi xuống. Hôm nay chúng ta học phần : Nguyên nhân nổ ra cuộc cách mạng 1789”.

Giáo sư Gơ-ri-phông bước xuống bục, đi xuống đi lên giữa những dãy ghế học trò đang chăm chú chép bài. Tai nghe, tay chép lia lịa mà lòng Thành ngổn ngang với bao vấn đề của bài học lịch sử.

“Nhà vua chỉ nhận tước phong của Thượng đế và có có trách nhiệm trước Thượng đế. Quyền của nhà vua không có giới hạn. Nhà vua có toàn quyền đối với tính mệnh và tài sản của dân.

“Dân không có quyền mà có bổn phận vâng lệnh vua. Báo chí, sách vở không được in ra nếu chưa được kiểm duyệt. Nhà vua có quyền lấy tài sản của dân bằng mệnh lệnh tịch thu. Nhà vua muốn bắt giam người nào chỉ cần một tờ lệnh.

“Nhà vua sống trong cung điện ở Véc-xay (Versailles). Có từ một vạn bảy ngàn đến một vạn tám ngàn quần thần mà số phục dịch vua và vợ con vua là một ngàn người. Mỗi năm nhà vua tiêu tốn cho mình là 50 triệu bảng (73), chiếm một phần mười lợi tức nhà nước.

“Nước Pháp thời trước cuộc đại cách mạng 1789 có trên hai mươi sáu triệu dân, chia thành ba giai cấp : giáo hội, quý tộc, thứ dân. “Giáo hội là giai cấp đứng hàng đầu trong cả nước. Giai cấp này có độ một trăm ba mươi ngàn giáo sĩ được tổ chức thành một đoàn thể chặt chẽ. Nhà vua công nhận cho giáo hội quyền thu thuế nhận mọi bổng lộc, có tòa án riêng. Giáo hội chiếm một phần mười diện tích ruộng đất trong toàn nước Pháp, có nhiều lâu đài, biệt thự cho thuê ở khắp các thành phố lớn.

“Giai cấp quý tộc được ưu đãi thứ hai sau giáo hội. Quý tộc gồm hai hạng : quý tộc dòng giống, thuộc dòng dõi chính thống; quý tộc hàm là hạng bỏ tiền mua từ những đời cha, ông trước.

“Quyền lợi của đám quý tộc : mặc sắc phục riêng, ngồi ở hàng danh dự lúc vào nhà thờ, nơi yến tiệc; miễn để quân đội trưng dụng nhà, hưởng đặc quyền trước pháp luật, chỉ bị xử trước quốc hội mà thôi. Quý tộc còn được các quyền : sử dụng đất đai, quyền thu thuế quyền săn bắn, quyền xử án, bắt phu, ưu tiên qua cầu đi đường.

“Giai cấp thứ dân gồm những người công chức nhỏ, sĩ quan cấp thấp, bác sĩ, kỹ sư, nhà văn, nhà báo, nghệ sĩ, luật sư, thương gia, kỹ nghệ gia, thợ thuyền, dân cày”…

Chép xong bài, cả lớp đặt bút xuống bàn, tháo ống áo lót cánh tay viết ra, ngồi nghe thầy giảng. Thành nhìn chăm chăm ông giáo Gơ-ri-phông mà anh không nghe rõ thầy giáo nói những gì. Trước mắt anh là một nước Pháp có cụ Vi-ta-li nhân từ thương yêu đùm bọc bé Rê-mi. Có Giăng Van-giăng đau khổ mà độ lượng, trọng lời hứa, nuôi nấng Cô-dét suốt đời ông. Có những người mẹ như má Bác-bơ-ranh, như Phăng-tin. Có gia đình bác trồng hoa A-canh, ai cũng tốt bụng. Có anh sinh viên Ma-ri-uýt hăng hái cách mạng, có em thiếu niên Ga-vơ-rốt dũng cảm. Và nước Pháp đầy rẫy những tên mật thám Gia-ve, những thằng người như Đơ-rit- xcôn, Tê-nác-đi-ê nham hiểm, đểu cáng (74).

Càng nghe thầy giảng, dòng suy nghĩ của anh càng dài. Những câu hỏi lớn nối tiếp hiện ra theo các nhân vật mà anh đã gặp trong những trang sách thuê đọc ở quán sách cụ Lừa. Lòng anh càng trăn trở về một câu hỏi : Nước Pháp đã sinh ra được những nhà tư tưởng như Mông-tét-ki-ơ (Montesquieu), Rút-xô (Rousseau), Vôn-te (Voltaire) và Công-đoóc-xê (Condorcet)… Họ đã đề xướng ra Tự do, Bình đẳng, Bác ái. Họ đã đấu tranh đòi quyền cơ bản của con người – Nhân quyền. Vậy mà ở đất nước Nam này lù lù cái ông Tây từ đâu đến chân lấm đầy máu của con người?

Thành chợt tỉnh, trước mặt vẫn là ông giáo người Tây Gơ-ri-phông đang thao thao bất tuyệt :

– Các trò về học thuộc bài. Học lịch sử là phải học thuộc tất cả những chi tiết trong từng sự kiện, từng thời đại từng ông vua, vị tướng. Các trò phải noi gương trò Nguyễn Văn Thơ, Hồ Đắc Ưng (75) hiện học ở lớp trên các trò. Trò Thơ đã nhớ tất cả năm sinh, ngày chết của các vua, các tướng, các danh nhân người Pháp và các biến cố trên thế giới. Còn trò Hồ Đắc Ưng lại có bộ óc biệt tài, đã nhớ hết tên các con sông, các dãy núi của nước Pháp. Trò Ưng còn thuộc làu làu tên nước, tên thủ đô, thành phố lớn của các quốc gia trên khắp hoàn cầu…

Tan buổi học, cả lớp ùa ra sân. Thành nhìn quanh các phía không thấy anh Đạt. Thành bước dọc theo lối cỏ mịn, gương mặt anh trầm tư. Võ Liêm Sơn, Lê Đình Thám, Võ Chuẩn, Lê Thanh Cảnh ở phía sau chạy ùa lên cùng đi ngang hàng với Thành, cười đùa tíu tít…

Bất chợt Sơn hỏi Thành :

– Thầy Gơ-ri-phông đưa cậu ấm Thơ, cậu ấm Ưng lên tận mây xanh, Thành thấy sao?

Thành nhìn Chuẩn và Cảnh :

– Xin nhường để bạn Chuẩn và bạn Cảnh là hai bộ máy nhớ nhất lớp của chúng mình cho cảm tưởng trước.

Chuẩn mỉm cười. Cảnh ít tuổi nhất nhóm nhanh nhảu nói :

– Học thuộc tên các vua, tên sông, tên núi, tên các kinh đô, thành phố lớn có khó chi. Thầy nêu gương hai người trên lớp đàn anh là mẹo của thầy để chúng ta phải học thuộc bài…

Thành mặt buồn buồn, lơ đãng :

– Các anh ấy đã học lên được lớp cao, thuộc lòng được nhiều pho sử ký, pho địa dư của nước Pháp. Biết nhiều càng quý, không sợ thừa. Tiếc là hai anh ấy lại quên mất lịch sử nước nhà, chẳng nhớ nổi tên các con sông, các trái núi ở quê hương mình!

Lê Đình Thám nói :

– Có lần chính hai anh đến chơi ở nhà bác tôi. Ông bác họ tôi rặt lấy sức nhớ sử sách ở bên Pháp của hai anh ra so bì với đám con cháu trong nhà. Bỗng anh Thơ thấy trên án thư cuốn sách “Hồng Nghĩa giác tư y thư” của Tuệ Tĩnh, liền hỏi :

– Sách thuốc của Tàu phải không thưa bác?

– Cháu coi lại tên tác giả và đọc lời tựa thì biết.

Bác tôi thấy anh Thơ lúng túng, lật giở pho sách trên tay một lúc khá lâu mà vẫn chưa phân rõ được là sách ta hay sách Tàu. Thấy vậy, bác tôi phải dẫn giải rạch ròi :

– Tuệ Tĩnh là nhà đại danh y của nước ta. Ngài là người đầu tiên đặt nền móng y học Việt Nam với phương sách : “Thuốc Nam Việt chữa người Nam Việt”. Pho sách “Hồng Nghĩa giác tư y thư” của ngài có nghĩa là pho sách thuốc giác tư của vị danh y. Hồng Nghĩa tức là quê của Tuệ Tĩnh, làng Nghĩa Phú, huyện Cẩm Giàng, phủ Thượng Hồng, tỉnh Hải Dương. Còn chữ giác tư là gốc của câu : “dĩ tư đạo lý giác tư dân” nghĩa là lấy đạo lý này mà giác ngộ cho dân. Như vậy là nhà đại danh y Tuệ Tĩnh đặt tên sách với ý chỉ dẫn cho người làm thuốc nước mình một phương hướng trị bệnh cứu dân…

Thành và mấy bạn học cùng lớp vừa đi vừa say sưa nghe Thám kể chuyện. Đi quá lối rẽ về Ao Hồ, Thành chia tay các bạn, trở về quán trọ. Trong tâm trí anh vẫn sừng sững một câu hỏi : Những nhà cách mạng Pháp (1789) đã dấy động dân chúng Pháp đánh đổ bọn thống trị tàn bạo, đặc quyền đặc lợi, giải phóng con người xác lập quyền cơ bản của con người mà quyền Tự do là trên hết, sao dân chúng Pháp vẫn còn “Những kẻ khốn nạn”, những kẻ “Không gia đình”? Anh tâm niệm : Điều cha mình nói chí phải : Công bằng viễn lộ hà xứ thị?

7.2

Lá cờ Tây ba sắc ngạo nghễ trên nóc tòa khâm, phủ bóng đen xuống gương mặt kinh đô Huế u buồn. Những đoàn người quần áo nâu sồng và màu sắc thanh nhã, lũ lượt tay bưng lễ vật đổ về các chùa lớn, chùa nhỏ dự lễ Phật sinh. Trên các ngả đường của kinh thành, những thầy bói, thầy tướng số và người hành khất, người bán hoa sen, hoa huệ, hương ràng càng đông nườm nượp.

Trên đường về chùa hành lễ, người dân Huế vừa nói chuyện cúng bái, kinh kệ, vừa kháo nhau về chuyện sưu cao thuế nặng : thuế ruộng đang thu bằng thóc, mỗi mẫu quy ra tiền là bảy quan ba đã tăng lên mười quan, thuế thân (thuế đinh) từ hai hào tăng lên hai đồng bốn hào một người. Chính phủ “bảo hộ” và Nam triều còn ban hành hàng loạt các thứ thuế mới : thuế chợ, thuế đò, thuế muối, thuế hàng chuyến, thuế hàng hóa… Lại còn cái nạn đi phu, đi lính, đôn người dân vào con đường khốn quẫn, không còn lối sống.

Bà con nông dân huyện Đại Lộc tỉnh Quảng Nam đã đứng lên rồi. Họ bao vây huyện đường đòi bỏ sưu, giảm thuế bỏ lệnh bắt xâu… Họ còn kéo lên tận tòa công sứ Quảng Nam đòi quyền lợi, đòi thả những đại biểu của họ bị bắt giam. Cuộc đấu tranh đang ngày càng lan rộng như đám cháy rừng.

Nguyễn Tất Thành nghĩ học nhân ngày Phật sinh. Thành đi chùa xem lễ, anh nghe được nhiều tiếng kêu than của bà con đang sống trong tình cảnh bị “vạc thịt đẽo xương”…

Một sáng tháng tư năm 1908 (76). Cũng như mọi sáng, Thành cắp sách đến trường. Thành ngơ ngác : từng đoàn người chân đất, áo rách, nón mê, tay không tấc sắt từ Công Lương, An Hòa, An Cựu và Kim Luông, Bao Vinh kéo đến trước tòa khâm. Thành vội vàng đưa cặp sách cho anh :

– Anh đưa đi gửi để em chạy đi gọi một số bạn nữa đến thông ngôn giúp cho bà con…

Thành chạy về phía gần chợ Cống gặp Lê Thanh Cảnh, Nguyễn Hương Bính, Bửu Bành, Phan Văn Phúc. Thành vừa thở, vừa nói :

– Các bạn ơi… đồng bào đi xin xâu, chứng mình đi theo ủng hộ họ, thông ngôn giúp họ… Mau đi nào?

Cả tốp học trò chạy theo Tất Thành nhập vào dòng người như một con sông mùa nước lũ. Thành cầm cái nón lật ngửa lên, nói lớn :

– Số người nghèo khổ như vành nón, số giàu sang quyền quý như chóp nón. Đồng bào ơi, chứng ta phải lật ngược cái tình trạng hiện tại…

Tất Thành và cả nhóm học sinh Quốc học đi trong đội ngũ những người đấu tranh đòi quyền sống. Họ vừa đi vừa reo, hô : “Bỏ sưu, giảm thuế, chấm dứt bắt xâu!”. Một số người trong đám biểu tình cầm kéo, cầm lược nhìn những thanh niên trai tráng và các ông ở tuổi trung niên, ai để tóc búi đụm củ hành liền bị họ kéo vào vệ đường húi ngắn tóc kiểu mai cua. Đồng bào gọi là “cúp tóc Duy Tân”. Thành với nhóm bạn học cùng trường chạy lên phía trước, đã thấy Sơn, Thám cùng với anh Đạt đang đi trong dòng người. Phan Khải đang đứng trong ngõ, khuất sau dãy bờ xanh xén bằng bặn, lấp ló nhìn ra dòng người đi cuồn cuộn… Tất Thành chạy rẽ vào ngõ, gọi :

– Anh Khải! Sao anh…? Anh mà không ra giúp đồng bào đòi bỏ xâu, giảm thuế à?

– Từ nãy giờ mình chưa rõ họ làm cái chuyện chi đây?

– Họ đòi được có quyền sống! Anh là cháu ngoại quan tổng đốc Hoàng Diệu mà đứng ngoài nhìn thế cuộc à?

Phan Khải mạnh dạn hơn, bước sải chân qua hàng rào, nhập vào dòng người chân đất, đầu trần, thẳng bước… Những dòng người đã tụ hội trước tòa khâm, nối dài ra tận cầu Tràng Tiền, nghẽn cả lối đi. Lính khố xanh dàn hàng rào trước bể người. Tên khâm sứ tránh mặt. Tên Đơ La-xuýt ngồi trên yên ngựa chiến đốc thúc quân lính cố đẩy lùi làn sóng người đang ập tới. Thành và nhóm học sinh Quốc học đứng ở hàng đầu của đám biểu tình nhìn rõ mặt tên thực dân. Hồi năm ngoái hắn diễu ngựa trước hàng rào lính trong buổi sáng bắt vua Thành Thái đi đày. Tim anh đau nhói. Anh và các bạn dùng tiếng Pháp cùng hô lên những điều đồng bào đòi : bỏ xâu, giảm thuế, cần tự do, cần cơm áo, cần sống yên ổn trên quê hương xứ sở.

Đơ La-xuýt ghìm cương, con ngựa chồm hai vó trước lên hí dài theo tiếng gầm của chủ nó… Cả đám lính giơ gậy tre quật túi bụi xuống đám học sinh Quốc học. Tức nước vỡ bờ! Cả một khối lực lượng quần chúng như ngọn sóng thần ập xuống quân thù…

Đám lính khố xanh chạy dạt dùa tẩu tán. Tên Đơ La-xuýt thúc ngựa quay vào. Lập tức giám binh gọi lính Tây, lính khố đỏ từ đồn Mang Cá lên.

Súng nổ! Đạn xẹt qua đầu. Người người tán loạn… Súng nổ ran kinh thành. Người dân Huế ngã xuống!

Tất Thành và các bạn anh chạy về phía trường Quốc học. Anh vẫn nghe tiếng : “Đồng bào tiếp tục kéo vô thành! Chết đạn còn hơn sống kiếp ngựa trâu. Tiến vô, đồng bào ơi!”.

Giữa biển người ào ạt, Thành thấy một người trạc tuổi anh ôm đầu máu chạy được một đoạn rồi ngã gục xuống vệ đường Chẳng bù suy tính, Thành cởi ngay áo ra, xé, lau máu trên mặt cho nạn nhân. Một vết thương dài quá ngón tay trên góc trán bên trái. Thành lấy manh áo của mình băng bó lại. Một số bà con đã xúm lại. Sơn cũng vừa chạy tới. Thành giục luôn :

– Sơn khiêng một tay anh ấy vô nhà gần đây gửi tạm…

Nạn nhân mở choàng mắt nhìn Thành. Anh ta lại nhắm nghiền mắt, lịm đi. Vừa lúc đó có người chạy tới :

– Người làng tui đó. Đội ơn các cậu đã cứu nạn cứu khổ cho anh nớ… Cứu một người phúc đẳng hà sa!…

Thành và Sơn chạy về tới quán cụ Lừa. Đạt và một số khá đông học sinh các lớp đang bàn tán… Thấy em đã trở lại, Đạt vừa mừng vừa lo lắng, nói :

– Thành à! Cò Tây chúng nó đã nhận ra em đi hàng đầu cùng đám học trò đi hô hào “cúp tóc Duy Tân”, làm reo, nổi loạn. Bọn lính tập, cò Tây vừa đến quán trọ Ao Hồ đón bắt em đó!

Thành nhíu mày mỉm cười.

– Cò Tây, lính tập cùng đã mò tới cổng trường nữa. – Một học sinh năm thứ ba trung học nói.

Những cặp mắt học trò nhìn nhau ngơ ngác…

Hoàng hôn buông xuống kinh thành. Gió hú dài trên sông Hương hun hút.

———-

Chú thích:

(73) Đồng bảng Anh chiếm vị trí chi phối tiền tệ trên thị trường châu Âu hồi bấy giờ.
(74) Mộ số nhân vật trong tiểu thuyết Pháp : “Những người khốn khổ” của Vích-to Huy-gô và “Không gia đình” của Ec-to Ma-lô.
(75) Nguyễn Văn Thơ, Hồ Đắc Ứng tốt nghiệp bằng thành chung quốc học Huế năm 1909. Về sau Thơ làm Tuần phủ Quảng Trị, Quảng Bình; Ứng làm Tổng đốc Thanh Hóa.
(76) Sách “Những mẩu chuyện về thời niên thiếu của Bác Hồ”, NXB Sự thật 1980, trang 53 ghi : tối 9 tháng 5. Theo sự nhớ của cụ Nguyễn Sinh Khiêm và sách “Lịch sử các phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam” của Võ Nguyên Giáp, NXB Sự thật 1958, trang 62 ghi : Từ ngày 9 đến 13-4-1908.

Hoàng Nhật Minh