70 năm trước Bác Hồ về nước

QĐND – Sau khi tìm được con đường cứu nước, trở về nước “giúp đồng bào” luôn là nỗi canh cánh bên lòng Hồ Chí Minh. Tháng 6 năm 1923, khi rời Pa-ri đi Mát-xcơ-va, Người đã để lại cho những người bạn chiến đấu của mình trong Hội liên hiệp thuộc địa một lá thư thắm tình đồng đội, chứa chan sự đồng cảm của những người cùng cảnh ngộ và bày tỏ khát vọng của mình: “Chúng ta phải làm gì? Đối với tôi câu trả lời đã rõ ràng: Trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do, độc lập”.

Song, từ khát vọng đến hiện thực là một khoảng cách dài, rất dài, có khi không đến được. Hồi hoạt động ở Pháp, trong một lá thư gửi Nguyễn Ái Quốc ngày 18-2-1922, cụ Phan Chu Trinh không tán thành phương pháp hoạt động của Nguyễn mà Cụ gọi là “Ngọa ngoại chiêu hiền, đãi thời đột nội” và khuyên Nguyễn ” trở về ẩn náu trong thôn dã, hô hào quốc dân đồng bào đồng tâm hiệp lực đánh đổ cường quyền áp chế, ắt là thành công!”. Cụ Phan rất chân thành, nhưng tỏ ra chưa hiểu hết lòng dạ của đối phương. Cho nên, dù rất kính trọng cụ Phan, bậc cha chú, nhưng Nguyễn đã không hành động theo lời khuyên đó. Bởi trở về nước lúc đó tức là tự nộp mình cho thực dân Pháp, phải “đãi thời” mới có thể “đột nội” được.

Bác Hồ về nước. Tranh sơn dầu của Trịnh Phòng.

Trong những năm hoạt động cách mạng ở Xiêm đã một đôi lần Nguyễn Ái Quốc tìm đường về nước, nhưng không thành. Trong một bản báo cáo gửi Quốc tế Cộng sản ngày 18-2-1930, Người có nói tới sự nỗ lực đó: “Hai lần tôi thử về Việt Nam nhưng đều phải quay trở lại. Mật thám và cảnh sát ở biên giới rất cảnh giác, đặc biệt là từ khi có vụ Việt Nam Quốc dân Đảng”. Thời cơ cho sự đột nội chưa đến với Người.

Tháng 9-1935, khi trả lời phỏng vấn của nhà báo Xô-viết I-li-a Ê-ren-bua về những ấn tượng mùa Xuân trên đất nước Lê-nin và những mong muốn của mình, Nguyễn Ái Quốc một lần nữa lại thốt lên: “Tôi chỉ có một mong ước là sớm trở về Tổ quốc”. Vậy là, cho đến năm 1935, trở về nước vẫn là niềm khát vọng cháy bỏng của Người.

Tháng 9-1938, sau khi được sự chấp nhận của Quốc tế Cộng sản, Người rời Liên Xô về Diên An, Trung Quốc, xích gần lại quê hương, tìm cơ hội trở về nước. Năm 1940, những biến cố thế giới đã tạo ra dấu hiệu xuất hiện cơ hội. Ngày 20-6-1940, nước Pháp đầu hàng Hít-le và Người đã nhìn thấy trong biến cố đó như một cơ hội tốt cho sự “đột nội” của Người. Người liền triệu tập cuộc họp tại tòa soạn Báo Đ.T bàn về các giải pháp tận dụng cơ hội đó. Đoạn hồi ký của Trịnh Đông Hải (Vũ Anh) cho chúng ta biết cái tài, sự nhạy bén của nhà cách mạng từng trải Nguyễn Ái Quốc trong việc nắm bắt và xử lý thông tin quan trọng đó:” Việc Pháp mất nước là một cơ hội rất thuận lợi cho cách mạng Việt Nam. Ta phải tìm cách về nước ngay để tranh thủ thời cơ, chậm trễ lúc này là có tội với cách mạng”. Tiếp đó, Người điện cho Lâm Bá Kiệt (Phạm Văn Đồng), Dương Hoài Nam (Võ Nguyên Giáp) và Cao Hồng Lãnh đang trên đường đi học ở Diên An quay lại, chuẩn bị về nước.

Thoạt đầu, Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị về nước theo hướng Côn Minh-Lào Cai bởi hướng này có tuyến đường sắt từ Côn Minh nối với Lào Cai có nhiều gia đình công nhân người Việt làm việc và sinh sống thành từng làng mà Người đã chứng kiến qua cuộc khảo sát do Phùng Chí Kiên tháp tùng. Vì thế mà Người đã phái Bùi Đức Minh, Hoàng Văn Lộc về Hà Khẩu để điều tra, nắm tình hình trong nước và đặt cơ sở liên lạc. Nhưng rồi cầu Hồ Kiều, một chiếc cầu lớn trên tuyến đường sắt Việt-Điền nối hai nước Việt-Trung, bị máy bay Nhật đánh sập ngày 10-9-1940. Cửa khẩu lớn giữa hai nước bị đóng lại. Vậy là, ý định về nước theo hướng Lào Cai không còn. Người tin cho Bùi Đức Minh, Hoàng Văn Lộc trở lại Côn Minh, tìm hướng mới. Và hướng mới đó là Cao Bằng.

Trong suy nghĩ của Nguyễn Ái Quốc, Cao Bằng hội tụ 3 yếu tố quan trọng cho sự đột nội của Người: Địa, Nhân và sự gợi ý của Ban Thường vụ Đảng trong nước. Về Địa, Cao Bằng ở vào vị trí tiến thoái đều thuận lợi. Cách mạng phát triển, từ Cao Bằng theo tuyến đường bộ thông với Thái Nguyên, thông với Lạng Sơn về Hà Nội. Nếu gặp khó khăn, Cao Bằng thông sang Trung Quốc với những con đường mòn, những con suối nhỏ mà dân vùng biên thường qua lại. Cao Bằng còn là vùng đất hiểm trở mà trước đây các thế lực chống đối các triều đại phong kiến biến thành nơi dung thân, đợi thời, điển hình là nhà Mạc. Về Nhân, người dân cư trú trên mảnh đất này có truyền thống yêu nước và cách mạng sớm, đặc biệt có chi bộ Đảng sớm nhất ở Việt Bắc. Ngoài ra, trên bước đường hoạt động cách mạng của mình, người dân tộc thiểu số đầu tiên mà Người gặp là Hoàng Văn Nọn, người Tày Cao Bằng tại Mát-xcơ-va, đã để lại trong Người những ấn tượng tốt đẹp về người Tày và vùng quê của anh. Cuối cùng, trong thời điểm quyết định, đầu tháng 1-1941 diễn ra cuộc gặp gỡ kỳ thú giữa Nguyễn Ái Quốc và đồng chí Hoàng Văn Thụ, đại diện của Ban Thường vụ Trung ương Đảng từ trong nước sang tại làng Tân Khư, Tĩnh Tây (Trung Quốc). Tại cuộc gặp đó, đồng chí Hoàng Văn Thụ đã đề nghị Người về nước theo hướng Cao Bằng vì trình độ giác ngộ của dân chúng tương đối cao và đội ngũ cán bộ lãnh đạo khá vững vàng.

Theo sự chỉ dẫn của Bác, trước đó một tháng, Vũ Anh đã tìm được một nơi “bí mật, có hàng rào quần chúng bảo vệ và có đường rút lui”. Đó là hang Cốc Bó thuộc bản Pác Bó, huyện Hà Quảng, địa thế hiểm trở. Hang thông ra một con đường kín dẫn sang bên kia biên giới, có thể rút lui an toàn khi bị lộ. Cách đó không xa là bản Pác Bó, một hàng rào quần chúng bảo vệ rất tốt.

Ngày 28-1-1941, sau một thời gian chuẩn bị chu tất, Nguyễn Ái Quốc cùng Phùng Chí Kiên được Dương Đại Lâm dẫn đường, vượt biên giới Việt-Trung ở cột mốc 108 về nước. Đầu tiên Người được bố trí sống trong nhà dân ở bản Pác Bó. Từ ngày 8-2-1941, Người sống và làm việc tại hang Cốc Bó. Từ đó Cốc Bó trở thành đầu nguồn của cách mạng. Tại lán Khuổi Nậm, cách hang không xa, tháng 5-1941, Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị Trung ương lần thứ Tám, hoàn thiện sự chuyển hướng chiến lược cách mạng Việt Nam đã được khởi động từ Hội nghị Trung -ương VI dưới sự chủ trì của Tổng bí thư Nguyễn Văn Cừ tháng 11-1939. Hội nghị chủ trương tiến hành cuộc cách mạng giải phóng dân tộc thắng lợi sau đó mới làm cách mạng tư sản dân quyền. Vấn đề dân tộc được đặt lên trên hết và trước hết: “Trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”. Lần đầu tiên, mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp trong cách mạng giải phóng dân tộc được giải quyết một cách thấu đáo như vậy. Không chỉ thế, hội nghị này còn chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ của từng nước Đông Dương: “Sau lúc đánh đuổi Pháp-Nhật, ta sẽ thi hành đúng chính sách “dân tộc tự quyết” cho dân tộc Đông Dương. Các dân tộc sống trên cõi Đông Dương sẽ tùy theo ý muốn, tổ chức thành liên bang cộng hòa dân chủ hay đứng riêng thành một dân tộc quốc gia tùy ý… Sự tự do độc lập của các dân tộc sẽ được thừa nhận và coi trọng… Riêng dân tộc Việt Nam, một dân tộc đông và mạnh hơn hết ở Đông Dương, sau lúc đánh đuổi được Pháp-Nhật sẽ thành lập một nước Việt Nam dân chủ mới theo tinh thần tân dân chủ”. Vì thế, hình thức tập hợp lực lượng cách mạng cũng thay đổi – Mặt trận Việt Nam Độc lập Đồng minh, gọi tắt là Việt Minh, được thành lập thay cho Mặt trận Thống nhất Dân tộc Phản đế Đông Dương không còn thích hợp. Cùng với hai vấn đề chiến lược trên, Hội nghị quyết định chuyển công tác Đảng về nông thôn là nơi chính quyền thực dân lỏng lẻo và chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang.

Nghị quyết của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ Tám chính là sự chuẩn bị đường lối chính trị quyết định cho sự thắng lợi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam. Và Cao Bằng với “Ba mặt “Tam giang” trôi cuồn cuộn. Bốn bề “Tứ trụ” đứng chon von” đã trở thành chỗ đứng chân đầu tiên khi Nguyễn Ái Quốc về nước sau 30 năm hoạt động nơi góc bể chân trời. Từ đó mà đến tháng 6-1945 ta có Khu Giải phóng gồm 6 tỉnh (Cao – Bắc – Lạng – Hà – Tuyên – Thái) để đến tháng 8 năm 1945 ta được cả nước Việt Nam từ Lũng Cú đến mũi Cà Mau. Được tất cả những điều đó thực sự bắt đầu từ chọn đúng đột phá khẩu – Cao Bằng

PGS.TS Phạm Xanh
qdnd.vn