Tag Archive | Nguyễn Tất Thành

Ý nghĩa việc Nguyễn Tất Thành tìm đường cứu nước

Cảng Sài Gòn, nơi người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước năm 1911. (Ảnh: Tư liệu/TTXVN)

Nhân kỷ niệm 100 năm Ngày Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước (5/6/1911-5/6/2011), TTXVN giới thiệu bài viết của phó giáo sư, tiến sĩ Phạm Hồng Chương, Viện Hồ Chí Minh và các Lãnh tụ của Đảng, Học viện Chính trị-Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh với nhan đề: Sự kiện Nguyễn Tất Thành đi tìm đường cứu nước – Ý nghĩa lịch sử và thời đại.

Ngày 5/6/1911, từ cảng Sài Gòn, Chủ tịch Hồ Chí Minh- lúc này mang tên Nguyễn Tất Thành – bắt đầu cuộc hành trình ra nước ngoài tìm đường cứu nước, cứu dân. Đây là sự kiện có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong lịch sử đấu tranh vì sự sinh tồn và phát triển của dân tộc Việt Nam. Nhìn từ góc độ hội nhập quốc tế, bài viết hy vọng làm sáng tỏ thêm ý nghĩa lịch sử và thời đại của sự kiện lịch sử vĩ đại này.

1. Bắt đầu từ khát vọng từ tuổi 13, Nguyễn Tất Thành đã “muốn đi ra nước ngoài, xem nước Pháp”, “muốn làm quen với nền văn minh Pháp”, nhưng không chỉ để thỏa mãn ước mơ hiểu biết của tuổi trẻ, mà là “muốn tìm xem ẩn giấu đằng sau” những gì đã làm nên văn minh và sức mạnh của phương tây; muốn “xem cho rõ” sự “làm ăn ra sao” của những cường quốc mà các nhà yêu nước Việt Nam đương thời kì vọng có thể giúp đất nước mình thoát khỏi ách thống trị thực dân; và, “sau khi xem xét họ làm thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta.”

Với hành trang chủ nghĩa yêu nước-nhân văn Việt Nam và mục đích xác định trước, bằng lao động, Người bắt đầu cuộc hành trình sang phương tây tìm con đường mới để cứu nước cứu, dân.

Trong khoảng thời gian này, không chỉ có Nguyễn Tất Thành phát hiện ra cái mới, muốn làm quen, đi tìm và học cái đã tạo nên văn minh, sức mạnh của nền văn minh phương tây để trở về mưu độc lập, tự cường cho dân tộc, giải phóng cho đồng bào của mình. Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh là những người tiên phong như vậy.

Mang chung hành trang là chủ nghĩa yêu nước – nhân văn Việt Nam và cùng mục đích, nhưng giữa hai Cụ Phan với Nguyễn Tất Thành có những khác nhau. Một bên là tìm, học cái mới mà dân tộc chưa có và xem đó như một chỗ dựa, một cứu cánh; một bên là muốn tìm hiểu giá trị thật của cái mới và cả cái ẩn giấu đằng sau nó; bên này chỉ mới tiến đến ở sự tiếp nhận, còn bên kia là đến tận nơi và xem cho rõ cách làm.

Cho dù có cùng hành trang, cùng mục đích, nhưng sự khác nhau về tầm nhìn và phương pháp của họ đã tạo ra kết quả khác biệt. Bên này, là tiếp nhận và đưa về cái mới mà dân tộc chưa có nhưng không biết nó đã bắt đầu trở nên lỗi thời so với sự phát triển của lịch sử nhân loại.

Bên kia với sự khảo sát trực tiếp, phân tích, so sánh giữa lý thuyết với kết quả thực tế của các cuộc cách mạng điển hình trên thế giới (đã có đến thời điểm đó) để lựa chọn nhằm tiếp nhận những giá trị chung và mới của nhân loại đặng tìm ra con đường cứu nước, cứu dân thích hợp với hoàn cảnh cụ thể của nước nhà và tương thích với sự vận động, xu thế phát triển mới trong quá trình tiến hóa của loài người.

Cũng vì vậy, những cố gắng cao nhất của hai cụ Phan cũng chỉ làm bùng phát một phong trào dân tộc, nuôi dưỡng ngọn lửa yêu nước trong nhân dân, bởi những cái được cho là chưa có và được xem là mới đối với dân tộc mà hai Cụ đưa về đã bị lịch sử nhân loại và chính phong trào cách mạng dân tộc vượt qua.

Bằng lao động và hòa vào dòng chảy của các sự kiện trên thế giới, cuộc hành trình của Nguyễn Tất Thành được tiến hành trong gần một thập kỉ ở nước ngoài không chỉ để biết thế giới mà chính là quá trình học tập, khảo sát, nghiên cứu kĩ lưỡng nhằm thấu hiểu để chọn lọc và tiếp thu những giá trị văn hóa-văn minh của nhân loại.

Thông qua quá trình đó của cuộc hành trình vĩ đại đến với các dân tộc, chủng tộc ở các châu lục, đặc biệt là trải qua thực tiễn đấu tranh cách mạng ở nhiều nước đã nâng cao trí tuệ, làm giàu văn hóa và mở rộng thế giới quan cho Người – từ tầm mức dân tộc đến nhân loại. Đó là cơ sở tạo ra sự khác biệt giúp cho Người thấu hiểu được sự tương đồng và khác biệt giữa triết lý phương Đông và phương Tây; đã nhận thấy nguồn gốc trực tiếp nỗi khổ đau chung của các dân tộc thuộc địa và những người lao động, không phân biệt chủng tộc, màu da, trên hành tinh này và đi tới khẳng định: vấn đề giải phóng dân tộc, giải phóng con người không chỉ là nhu cầu của dân tộc và con người Việt Nam mà là của các dân tộc bị áp bức và nhân dân cần lao trên thế giới.

Bằng trực tiếp khảo sát tại quê hương của các cuộc cách mạng tư sản điển hình (Pháp, Anh và Mỹ), với trí tuệ thiên tài của mình, Nguyễn Tất Thành đã phát hiện và tiếp nhận “những lời bất hủ” mang giá trị chung của nhân loại về quyền dân tộc và quyền con người được ghi trong Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của nước Pháp. Đồng thời, Người cũng thấy rõ hạn chế giữa lí thuyết và thực tế mà nổi bật là tính chất “không đến nơi” của các cuộc cách mạng này.

Những kết luận trên đây không phải chỉ là kết quả của sự trải nghiệm. Chỉ với tầm trí tuệ không ngừng được nâng cao, trên cơ sở được làm giàu về các giá trị văn hóa-văn minh nhân loại và với một tầm nhìn thế giới trong phân tích lý luận và kiểm nghiệm thực tiễn, Nguyễn Tất Thành mới có thể đúc rút thành những kết luận khoa học đúng đắn có giá trị quan trọng như vậy. Do đó, Người không chỉ dừng lại ở phân tích lý luận và thực tiễn để chọn lọc và thâu thái các giá trị văn hóa – văn minh nhân loại, mà còn trên cơ sở các kết luận đó, tìm lời giải đáp những vấn đề đang được đặt ra trong lịch sử tiến hóa của loài người.

Đây chính là sự chuẩn bị- cả trên phương diện lí luận và thực tiễn – để Người, không chỉ đi từ dân tộc đến nhân loại trong nhận thức các giá trị văn hóa – văn minh mà còn tiến tới năng lực phát hiện và nắm bắt được quy luật tiến hóa của lịch sử nhân loại, xu thế của thời đại bằng thế giới quan khoa học và cách mạng của Chủ nghĩa Marx-Lenin.

Đi từ Dân tộc đến Nhân loại, tiếp thu chủ nghĩa Marx-Lenin là quá trình từ nhận thức cảm tính đến khoa học. Với thế giới quan khoa học và cách mạng, Nguyễn ái Quốc đã phát hiện và nhận thức được quy luật tiến hóa, xu thế phát triển trong tiến trình đi lên của loài người và đi tới khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản.”

Đặt cách mạng giải phóng dân tộc trong quỹ đạo của cách mạng vô sản và chỉ rõ “cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn,” Người đã chỉ rõ: cách mạng giải phóng dân tộc phải hướng đích tới sự giải phóng triệt để đối với con người theo quy luật tiến hóa tự nhiên của lịch sử nhân loại. Độc lập dân tộc phải đưa tới tự do-hạnh phúc cho con người.

Với con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mà Nguyễn Tất Thành-Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh đã chỉ ra, cách mạng Việt Nam hàm chứa sâu sắc các nội dung dân tộc-nhân loại và thời đại, và do đó, với đường lối đúng đắn thuận theo quy luật tiến hóa của nhân loại, được sự ủng hộ của toàn dân và nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới, cách mạng Việt Nam đã hội đủ các yếu tố thiên thời-địa lợi-nhân hòa đảm bảo cho sự thắng lợi.

Với tất cả các ý nghĩa đó, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mà nội dung là giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng con người là triết lí phát triển Việt Nam . Đây là nội dung căn bản nhất của tư tưởng Hồ Chí Minh, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt, chi phối mọi hoạt động lí luận và thực tiễn của cách mạng giải phóng dân tộc cũng như trong công cuộc xây dựng xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa – đem lại tự do, hạnh phúc cho con người. Tìm ra con đường cứu nước đúng đắn là công lao vĩ đại đầu tiên, là cống hiến lí luận sáng tạo hàng đầu của Chủ tịch Hồ Chí Minh và là di sản có giá trị vĩnh hằng đối với cách mạng Việt Nam.

3. Đi ra nước ngoài để “xem xét họ làm thế nào” nhằm “trở về giúp đồng bào chúng ta” – với những hoạt động và kết quả trên đây, có thể nhìn nhận quá trình đó của Nguyễn Tất Thành thực chất là quá trình, trên cơ sở văn hóa dân tộc, hội nhập quốc tế để nghiên cứu, lựa chọn, tiếp nhận, vận dụng và phát triển các giá trị tinh hoa văn hóa – văn minh nhân loại nhằm tìm ra con đường đi lên cho dân tộc hướng tới mục tiêu vì sự giải phóng con người.

Chính từ mục tiêu và bản chất của toàn bộ quá trình tiếp biến các giá trị văn hóa – văn minh đó đã mặc định tư tưởng và sự nghiệp cách mạng mà Người lãnh đạo thực hiện ở Việt Nam cũng như những đóng góp của Người với dân tộc và nhân loại thấm đậm giá trị văn hóa – văn minh. Giá trị cao cả và đích thực của tư tưởng, sự nghiệp ấy chính là ở chỗ: Người đã lãnh đạo nhân dân đánh đuổi giặc ngọai xâm, giành lại độc lập cho dân tộc, xây dựng xã hội mới vì tự do và hạnh phúc của con người Việt Nam, đồng thời góp phần cùng các dân tộc đấu tranh loại trừ chủ nghĩa thực dân – một trở lực lớn trên con đường tiến tới văn minh của nhân loại, đóng góp to lớn vào cuộc đấu tranh xây dựng một thế giới mới hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội, thúc đẩy sự phát triển của lịch sử loài người.

Những giá trị văn hóa-văn minh đó càng thêm sâu sắc khi Người chủ trương cách mạng bắt đầu bằng sự giác ngộ nhân dân, làm cho nhân dân hiểu rõ các quy luật phát triển của xã hội, nhận rõ mục đích đấu tranh và con đường giải phóng, tin chắc vào sự thắng lợi mà kiên quyết tự đứng lên làm cách mạng và xây dựng xã hội mới xóa bỏ áp bức, bóc lột và tạo ra những điều kiện phát triển toàn diện đối với con người. Người cho rằng: “Muốn giữ vững nền độc lập, muốn làm cho dân giàu nước mạnh, mọi người Việt Nam đều phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức mới để có thể tham gia xây dựng nước nhà.”

Xuất phát từ các giá trị văn hóa – văn minh nhân loại, lấy văn hóa soi đường cho quốc dân đi, đem văn minh chống lại dã man, vì vậy, sự nghiệp giải phóng dân tộc và con người dưới sự dẫn dắt của Chủ tịch Hồ Chí Minh là sự nghiệp văn hóa – văn minh vĩ đại ở Việt Nam, trong đó kết hợp chặt chẽ giữa giải phóng với phát triển và hoàn thiện con người. Giá trị cao cả nhất của văn hóa – văn minh là hướng tới và đưa đến sự giải phóng toàn diện, phát triển và hoàn thiện con người, nhưng sự sâu sắc của giá trị cao cả đó là làm cho con người tự đứng lên giải phóng bằng chính sự phát triển và hoàn thiện của mình.

Lấy thống nhất thay vì loại trừ bằng sự giác ngộ, đoàn kết toàn dân nhằm “đem sức ta giải phóng cho ta” và không ngừng phát triển văn hóa làm cho nhân dân đồng thuận để “tự lực, tự cường” trong xây dựng xã hội mới là đường lối và cũng là phương pháp cách mạng thấm đậm nội dung văn hóa – văn minh mà Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng, thực hiện ở nước ta.

Giải phóng dân tộc, giải phóng con người bằng sự phát triển và hoàn thiện con người ở tầm cao văn hóa – văn minh như thế đã tạo ra nguồn năng lượng và động lực tổng hợp cực kì mạnh mẽ từ mỗi người dân đến toàn dân, để làm nên mọi thắng lợi của dân tộc ta trong lịch sử hiện đại. Đó là bí quyết thành công của cách mạng Việt Nam mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đúc rút từ giá trị tinh hoa văn hóa – văn minh của dân tộc và nhân loại vận dung vào nước ta. Điều đó cắt nghĩa trong mọi hoàn cảnh lịch sử, Người luôn chủ trương nâng cao dân trí, phát triển văn hóa, đẩy mạnh giáo dục đạo đức và nhân cách cho toàn dân đi đôi với mở cửa tiếp thu tinh hoa văn hóa-văn minh nhân loại.

Xã hội mà Người chủ trương xây dựng là sự kết hợp giữa việc kế thừa, phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của văn hóa – văn minh dân tộc với tiếp thu tinh hoa văn hóa – văn minh nhân loại, thấm nhuần sâu sắc chủ nghĩa yêu nước – nhân văn Việt Nam và chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Đối với cá nhân, đó là văn hóa – văn minh để làm người, làm việc, để phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, phụng sự nhân loại; là xóa bỏ tham nhũng, lười biếng, phù hoa xa xỉ và làm cho mọi người dân Việt Nam, từ già đến trẻ, đàn ông và đàn bà, ai cũng hiểu nhiệm vụ của mình và biết hưởng hạnh phúc mà mình được hưởng.

Xã hội mà Người chủ trương xây dựng là một xã hội đạo đức có điểm xuất phát từ chính nội dung văn hóa – văn minh của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa để giải phóng con người. Bởi vậy, Người đòi hỏi đội ngũ tiên phong là Đảng Cộng sản phải “là đạo đức, là văn minh” và người làm cách mạng và xây dựng xã hội văn hóa- văn minh phải có văn hóa và đạo đức cách mạng. Người thường nói: “muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có con người thấm nhuần đạo đức xã hội chủ nghĩa.” Đó là đạo đức làm người, hoàn thiện con người, đạo đức vì thắng lợi của sự nghiệp vĩ đại là giải phóng con người và xây dựng xã hội đem lại tự do, hạnh phúc cho tất cả mọi người.

Cũng chính vì thế, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi đạo đức là gốc, đạo đức cách mạng là đạo đức hành động và Người không chỉ để lại một hệ thống quan điểm về đạo đức để toàn Đảng, toàn dân học tập mà còn là một tấm gương ngời sáng, một kiểu mẫu về đạo đức, về văn hóa-văn minh, về sự nhất quán giữa tư tưởng và hành động, giữa nói và làm. Dẫn dắt cả dân tộc đi vào cuộc cách mạng hướng tới sự giải phóng và hoàn thiện con người, Chủ tịch Hồ Chí Minh là hiện thân của sự toàn mỹ về văn hóa-văn minh, về đạo đức và nhân cách: yêu thương đồng bào và nhân loại; triệt để cách mạng nhưng rất nhân văn; uyên bác mà cực kì khiêm tốn; nguyên tắc chiến lược nhưng rất linh hoạt về sách lược; nhìn xa trông rộng nhưng rất thiết thực cụ thể; vĩ đại mà rất mực bình dị… Đó là chuẩn mực giá trị con người của dân tộc Việt Nam.

Suy cho cùng, con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh tìm thấy và dẫn dắt dân tộc thực hiện đã đưa tới những thắng lợi vĩ đại đối của dân tộc, đồng thời cũng là những đóng góp vào giải quyết khát vọng lớn lao nhất, mục tiêu văn hóa-văn minh nhất của nhân loại là cải tạo thế giới để giải phóng con người. Sự tôn vinh Người là anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa kiệt xuất là một vinh danh kép phải được hiểu trên cùng một ý nghĩa: giá trị cao nhất của văn hóa – văn minh, của đạo đức và nhân cách là đưa tới giải phóng, hoàn thiện con người và giải phóng, hoàn thiện con người chính là đỉnh cao của giá trị văn hóa – văn minh, đạo đức và nhân cách.

4. Với những biến cố lịch sử trong một thế kỉ qua, từ sự bế tắc trong đường lối cứu nước hồi đầu thế kỉ XX, với sự hy sinh của biết bao bậc tiên liệt cho nhiệm vụ mở lối, tìm đường cho dân tộc, đến thực tiễn của những thắng lợi đã đạt được trong trong cuộc tranh đấu giành và bảo vệ quyền dân tộc cơ bản cũng như trong xây dựng Tổ quốc xã hội chủ nghĩa theo con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh lựa chọn, chúng ta càng thấu hiểu thêm ý nghĩa lịch sử và thời đại của sự kiện đi ra thế giới (với với phương hướng và pháp mới) để thâu thái những giá trị văn hóa-văn minh nhân loại mưu tìm con đường cho sinh tồn và phát triển của dân tộc mà Người đã thực hiện.

Trên ý nghĩa đó, ngày 5/6/2011, không chỉ là là sự kiện đặc biệt đánh dấu sự khởi đầu của quá trình đi ra thế giới tìm con đường cứu nước cứu, dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh mà còn là sự kiện mở ra quá trình Việt Nam từng bước hội nhập vào dòng tiến hóa theo xu thế mới của nhân loại dưới sự dân dắt của Người. Trong quá trình đó, trên cơ sở tiếp nhận những giá trị văn hóa -văn minh nhân loại và nắm bắt được xu thế phát triển của loài người trong thời đại mới, thông qua con đường cách mạng mà Người đã lựa chọn, Việt Nam đã kết hợp thành công sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại tạo nên sức mạnh tổng hợp (cả lực, thế, thời) đưa tới những thắng lợi lịch sử cho cách mạng Việt Nam trong một thế kỉ qua.

Mặt khác, trong quá trình đó, dân tộc ta đã góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân loại, làm cho thế kỷ XX trở thành thế kỉ phi thực dân hóa, thúc đẩy lịch sử loài người tiến lên theo hướng tiến bộ. Bởi vậy, kiên trì con đường cách mạng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn không chỉ đơn nhất là giữ vững mục tiêu Độc lập-Tự do-Hạnh phúc cho dân tộc và con người Việt Nam mà còn là giữ vững các nhân tố đảm bảo cho thắng lợi của cách mạng nước ta (thiên thời-địa lợi-nhân hòa) để đất nước (có lực, thế, thời mới) tiếp tục tiến bước mạnh mẽ nhằm hoàn thiện những mục tiêu vì dân tộc, vì con người Việt Nam, góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân loại tiến vì hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội trên hành tinh của chúng ta.

Ngày nay, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, với các giá trị trên đây, sự kiện lịch sử Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước càng có ý nghĩa thực thực tiễn. Với đường lối đổi mới của Đảng, trên thực tế, sự hội nhập quốc tế của Việt Nam cũng là tiếp tục quá trình dân tộc ta đi ra thế giới trong điều kiện lịch sử mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh để thâu nhận các giá trị văn hóa-văn minh nhân loại và nắm bắt xu thế phát triển của loài người nhằm vận dụng và tiến hành thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tạo ra các điều kiện để thực hiện ngày một hoàn chỉnh các nội dung của tiêu chí Độc lập-Tự Do-Hạnh phúc cho dân tộc và con người Việt Nam.

Bởi vậy, cần phải nắm vững thế giới quan, phương pháp Hồ Chí Minh để không chỉ thâu nhận được các giá trị văn hóa – văn minh, nắm bắt được xu thế phát triển của loài người mà còn vận dụng phù hợp với thực tiễn của đất nước. Chỉ có như vậy mới giải quyết tốt các mối quan hệ dân tộc -giai cấp, quốc gia – quốc tế, dân tộc – thời đại, phát huy cao độ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, đoàn kết quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với thời đại, liên tục tạo lập lực – thế – thời mới đưa đất nước phát trển vững chắc đặng thực hiện các mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.

Một thế kỉ đã trôi qua nhưng sự kiện Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân vẫn còn nguyên ý nghĩa lịch sử và ý nghĩa thời đại. Ngày nay, trong hành trình hội nhập cùng nhân loại đi đến tương lai, chúng ta càng tin tưởng và kiên trì phấn đấu trên con đường Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại đã chỉ ra, quyết tâm đưa ngọn cờ của Người đến đích thắng lợi./.

(TTXVN/Vietnam+)

vietnamplus.vn

Mãi mãi đi theo con đường mà Bác Hồ đã chọn (*)

(ĐCSVN) – Ngày 31/5, Hội thảo khoa học “Chủ tịch Hồ Chí Minh – Hành trình tìm đường cứu nước” sẽ được tổ chức tại TP. Hồ Chí Minh nhân kỷ niệm 100 năm ngày Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước (5/6/1911-5/6/2011). Đồng chí Lê Khả Phiêu, nguyên Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã có bài viết quan trọng tham luận tại Hội thảo. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.

Thưa các đồng chí Ban Chỉ đạo Hội thảo và Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh;

Thưa các nhà khoa học, các vị nhân sĩ, các đồng chí và các bạn.

Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Chỉ đạo Hội thảo, Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh đã mời tôi tham dự cuộc hội thảo khoa học quan trọng này. Tôi chúc Hội thảo khoa học của chúng ta đạt được kết quả mong muốn, xứng đáng với tầm vóc lịch sử và nhân cách vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đóng góp thiết thực vào đợt học tập các văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XI.

Cho phép tôi kính gửi lời chúc sức khỏe đến chiến sĩ, đồng bào, tuổi trẻ Nam Bộ, chiến sĩ, đồng bào, tuổi trẻ Thành phố Hồ Chí Minh anh hùng, Thành phố mang tên Bác Hồ kính yêu. Nam Bộ và Thành phố Hồ Chí Minh là chiếc nôi lớn nuôi dưỡng những phong trào cách mạng quật cường của dân tộc, nơi sản sinh nhiều anh hùng và dũng sĩ, căn cứ địa cách mạng kiên trung, Thành đồng của Tổ quốc, quê hương của Bác Tôn, người lãnh đạo xuất sắc phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Thành phố Hồ Chí Minh là một địa chỉ đỏ mà ngay từ 1920, bà con lao động Sài Gòn đã tổ chức những bữa cháo Cộng sản, nuôi nấng và bảo vệ anh em công nhân Pháp đình công tại bến cảng, nêu cao tinh thần đoàn kết giai cấp, đoàn kết quốc tế của lao động nước ta với lao động nước Pháp.

Bác Hồ làm việc trong vườn Phủ Chủ tịch

Tôi vẫn học và ôn lại những điều Bác dạy, những lời Bác viết, lắng nghe những kỷ niệm của đồng bào, đồng chí và bà con cả nước về Bác Hồ. Cho đến giờ phút này tôi nghiêm khắc tự thấy rằng tôi chưa học hết, chưa thấm nhuần đầy đủ những lời Bác dạy, những điều Bác viết, tình thương và sự gửi gắm của Bác đối với chúng ta, thế hệ hôm nay và các thế hệ mai sau.

Bởi vậy, lời phát biểu của tôi sau đây chỉ là những điều học được, hiểu được, những thu hoạch ít ỏi ban đầu về tư tưởng và đạo đức của Bác Hồ, với tinh thần tự phê bình và phê bình mà Bác thường nhắc tới.

*

Một

Con đường cứu nước – Con đường đến với chủ nghĩa cộng sản và trở thành đảng viên.

Sau khi tham gia phong trào nổi dậy chống sưu chống thuế ở Trung kỳ năm 1908, chàng thanh niên Nguyễn Tất Thành vào Sài Gòn và từ bến cảng Sài Gòn ra đi, giữa lúc các cuộc đấu tranh của Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám thất bại, kế sách cứu nước còn mờ mịt chưa có đường ra. Có người thì muốn dựa vào Nhật, nhưng Nhật là một “đế quốc da vàng”, có tham vọng lớn về đất đai, đã thỏa hiệp với Pháp đuổi hết những người Đông Du ra khỏi Nhật. Có người muốn dựa vào Pháp để chống Pháp bằng đường lối bất bạo động… Dựa vào đế quốc để đánh đuổi đế quốc chẳng khác nào “đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau.” mà thôi!

Điều kỳ lạ đầu tiên ở con người Hồ Chí Minh mà ngày nay và mai sau chúng ta còn cùng nhau tìm hiểu mãi, ấy là: Khi có người hỏi: Lấy gì mà ra đi, dựa vào đâu mà đi, thì Người đã giơ hai bàn tay: Đây!

Từ đó, với hai bàn tay lao động và ý chí cứu nước mãnh liệt, chàng thanh niên Nguyễn Tất Thành đã làm bồi tàu, phụ bếp, rửa chén từ 4 giờ sáng đến 9 giờ tối, sau đó học ngoại ngữ đến 11 giờ đêm, để 4 giờ sáng hôm sau lại bắt tay vào lao động. Người đã quét tuyết, đốt lò, làm thợ ảnh, quần quật làm thuê. Từ một thanh niên trong một gia đình nhà nho nghèo thuộc tầng lớp trung lưu của xã hội thời ấy, Nguyễn Tất Thànhchấp nhận sống một cuộc đời cùng khổ, bán sức lao động để kiếm sống và học tập trong một hoàn cảnh cực kỳ cay nghiệt trên đất người. Từ một kẻ mất nước, bơ vơ, trơ trọi, không nhà cửa, không gia đình, mẹ thì mất sớm, cha thì tha phương, Nguyễn Tất Thành trở thành một công nhân đích thực, có học vấn, tự tin và kiên cường bước vào hàng ngũ đấu tranh của các chiến sĩ xã hội.

Từ một người dân thuộc địa chỉ biết đế quốc xâm lược và phong kiến bạo tàn, Nguyễn Tất Thành đã nhận ra rằng: Đâu đâu cũng có hai loại người, những người bị bóc lột và những kẻ bóc lột, dù khác màu da, khác tiếng nói, lớp người cùng khổ tất cả các nước đều là anh em. Nhờ sống với giai cấp công nhân và lớp người cùng khổ trong xã hội tư bản, Nguyễn Tất Thành hiểu được thực chất cái gì ẩn sau lá cờ “tự do, bình đẳng, bác ái” và không để cho những cái bên ngoài phô trương hào nhoáng lừa dối mình.

Nguyễn Tất Thành đã tự mình chiến đấu vượt qua những hạn chế để khẳng định mình, từ giác ngộ dân tộc đến giác ngộ giai cấp, đem tiếng nói tràn đầy sức sống, làm cho người nghe đồng cảnh ngộ yêu mến, buộc những kẻ cơ hội xu thời phải nể trọng. Không ai giới thiệu Nguyễn Ái Quốc vào Đảng. Chính cuộc đời lao động, học tập, chiến đấu bất khuất suốt 10 năm tìm đường cứu nước đã đưa Nguyễn Ái Quốc đến với Chủ nghĩa cộng sản, đến với Đảng Cộng sản, làm nền tảng định hình bản chất cộng sản của Ngườiđào tạo Người trở thành một chiến sĩ quốc tế của giai cấp công nhân và của các dân tộc bị áp bức.

Giữa lúc dân tộc ta như một kiếp người cơm vãi cơm rơi, biết đâu nẻo đất phương trời mà đi, Nguyễn Ái Quốc  đã nhận ra chân lý vĩ đại: Muốn cứu nước, không có con đường nào khác, ngoài cách mạng vô sản.

Nguyễn Ái Quốc là hiện thân con đường hình thành Đảng Cộng sản Việt Nam, con đường cách mạng Việt Nam.

Người đã tự mình chứng kiến và không chỉ chứng kiến, mà đã phải sống dưới “lưỡi lê của nền văn minh tư sản”, phân rõ dân tộc và thuộc địa, tư bản và vô sản. Tin tưởng vững chắc ở thắng lợi cuối cùng của cách mạng, Người là tấm gương mẫu mực phấn đấu trở thành một người cộng sản suốt đời trung thành với lý tưởng yêu nước và xã hội chủ nghĩa.

10 năm cực kỳ gian khổ, vật lộn trong chế độ áp bức bóc lột, kiếm sống và học tập, Người đã kiên cường đấu tranh phê phán những xu hướng cơ hội đang lũng đoạn trong hàng ngũ cách mạng. 10 năm nung nấu lý tưởng yêu nước và chủ nghĩa xã hội, chính 10 năm đó đã đặt nền móng để trở thành, để có được một Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh kiên định, chung thủy, trước sau như một, từ thủa mới làm cộng sản cho đến phút cuối cùng của đời, một lòng vì giai cấp công nhân, nông dân, trí thức cách mạng và những người cùng khổ, vì nhân dân và dân tộc.

Con đường cứu nước mà Người tìm đến cũng là con đường rèn luyện tư cách cách mệnh, tư cách của người cộng sản. Điều đó gợi cho ta con đường tu dưỡng bản thân để trở thành, để giữ vững, để xứng đáng là đồng chí của Người, chiến sĩ cộng sản. Với riêng tôi, điều đó đã giúp tôi hàng ngày tự hỏi: Mình đã phấn đấu để trở thành một người cộng sản như thế nào? Thái độ của mình đối với giai cấp công nhân, nông dân, những người lao động, những trí thức cách mạng, bà con dân tộc ít người, tầng lớp nền tảng của xã hội ta đang phải sống vất vả, đau ốm, thiếu thuốc men, thiếu sách vở và trường lớp, thiếu kiến thức và nghề nghiệp như thế nào? Mình phải tiếp tục rèn luyện như thế nào để mãi mãi giữ vững tư cách cách mệnh của người chiến sĩ cộng sản nồng nàn yêu nước?

Không có tư cách cách mệnh của người chiến sĩ cộng sản thì không thể nào đi tiên phong trong sự nghiệp cứu nước, không thể nào vì dân, vì giai cấp công nhân và lớp lớp cần lao bần hàn đau khổ, tận tâm và đến cùng.

*

Hai

Hồ Chí Minh với giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.

Chủ nghĩa Mác ra đời, kế thừa tinh hoa của nhân loại, kết hợp với cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân từ đó giai cấp công nhân tự giác bước lên vũ đài đấu tranh chính trị nhằm đập tan chế độ tư bản và xây dựng xã hội mới, xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.

Cũng như vậy, tư tưởng nhân văn đã có từ lâu, nhưng chỉ đến khi chủ nghĩa Mác- Lênin ra đời, đề cập mục tiêu và con đường giải phóng toàn diện và triệt để con người, mà đông đảo là những tầng lớp cần lao và các dân tộc bị áp bức, thì các giá trị nhân văn mới có sự phát triển hoàn chỉnh và sâu sắc nhất.

Lênin, kế thừa và phát triển chủ nghĩa Mác, bằng nghị lực phi thường và trí tuệ uyên bác đã đánh một đòn sấm sét vào tư tưởng xét lại cơ hội hữu khuynh trong phong trào cộng sản quốc tế hòng bao che cho chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế quốc. Lênin đưa ra phát kiến: cách mạng vô sản có thể thắng lợi ở khâu yếu nhất trong hệ thống đế quốc chủ nghĩa, cách mạng xã hội chủ nghĩa có thể giành thắng lợi trong một nước.

Đảng Cộng sản Bôn-sê-vích Nga, Đảng của giai cấp công nhân lớn mạnh nhất trong các Đảng Công nhân hồi ấy đã lãnh đạo nhân dân Nga làm Cách mạng Tháng Mười, thiết lập Liên bang cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết trên một phần sáu quả địa cầu, mở ra thời đại mới: thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên toàn thế giới.

Lê nin là người đầu tiên nhấn mạnh vai trò của cách mạng giải phóng dân tộc, coi cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận hợp thành của cách mạng vô sản và đề ra khẩu hiệu chiến đấu: Vô sản toàn thế giới và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại.

Hồ Chí Minh đã đến với chủ nghĩa Mác-Lênin như người đi đường đang cơn khát mà tìm được nước. “Đây là cẩm nang để cứu sống  đồng bào tôi”.

Hồ Chí Minh đã học tập, truyền bá, kế thừa, bổ sung và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong trào cách mạng Việt Nam và phong trào đấu tranh giành giải phóng của các dân tộc bị áp bức.

Chủ nghĩa Mác đã chỉ ra con đường để giai cấp vô sản nắm lấy ngọn cờ dân tộc, phải trở thành dân tộc, phải giành thắng lợi trước hết trên địa bàn dân tộc, thông qua đấu tranh giai cấp – cách mạng xã hội – để tước đoạt quyền bính từ tay giai cấp tư sản, và do đó giải phóng được giai cấp. Giải phóng được giai cấp thì áp bức dân tộc cũng bị quét đi. Hồ Chí Minh, từ một kẻ mất nước giác ngộ chủ nghĩa cộng sản đã nhận thức  rằng: trong thế giới thuộc địa, mâu thuẫn sâu sắc nhất là mâu thuẫn giữa các dân tộc bị áp bức với chủ nghĩa đế quốc.

Người khẳng định: Phải tập trung toàn bộ sức lực của dân tộc để đánh đổ chủ nghĩa đế quốc. Giải phóng dân tộc là điều kiện tiên quyết để giải phóng giai cấp, là thực hiện một bước quan trọng giải phóng giai cấp đặng tiến tới giải phóng hoàn toàn giai cấp, giải phóng loài người.

Chủ nghĩa Mác nhận ra lực lượng vĩ đại, lực lượng nòng cốt, lực lượng lãnh đạo để đánh đổ ách thống trị tư bản chủ nghĩa là giai cấp công nhân. Kế thừa chủ nghĩa Mác, Hồ Chí Minh tiếp tục làm rõ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam. Người viết: “Chỉ có giai cấp công nhân là dũng cảm nhất, cách mạng nhất, luôn luôn gan góc đương đầu với bọn đế quốc, thực dân. Giai cấp công nhân đã tỏ ra là người lãnh đạo xứng đáng nhất và tin cậy nhất của nhân dân Việt Nam.” Đồng thời Người khẳng định: trong cách mạng giải phóng dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng, toàn thể dân tộc chính là lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc, với nòng cốt là công nông, nền tảng là công nông liên minh với trí thức.

Không có công nông làm nòng cốt, công nông liên minh với trí thức làm nền tảng thì không thể đoàn kết toàn dân tộc được. Có thể kể ra một ví dụ: Cụ Phan Bội Châu, yêu nước mãnh liệt vô cùng, dùng lời huyết lệ động viên nhân dân đứng lên chống giặc nhưng lại không nhắc đến công nhân. Lựa chọn học sinh đi Nhật du học, Cụ đưa ra bốn tiêu chuẩn: con nhà quan, con nhà giàu, con nhà có thế lực, con nhà có cựu thù. Không thấy Cụ đề ra con của công nông. Nhiệt huyết tràn đầy, nhưng cụ không thể xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc.

Chủ nghĩa dân tộc, một động lực của đất nước mà Hồ Chí Minh nói đến là chủ nghĩa dân tộc do Đảng Cộng sản phát động. Lập trường cách mạng giải phóng dân tộc của giai cấp công nhân hoàn toàn khác hẳn lập trường giải phóng dân tộc của giai cấp phong kiến, lập trường giải phóng dân tộc của giai cấp tiểu tư sản và tư sản. Sự khác hẳn đó thể hiện ở mục tiêu trước mắt và mục tiêu tiếp theo của sự nghiệp giải phóng dân tộc, biện pháp và lực lượng tiến hành sự nghiệp đó.

Thời ấy, xu hướng quốc tế cho rằng: cách mạng giải phóng dân tộc ở các thuộc địa sẽ giành được thắng lợisau khi giai cấp vô sản đã giành được thắng lợi ở chính quốc. Trải qua cảnh mất nước, với bạn bè cùng chí hướng ở các thuộc địa, Hồ Chí Minh đã sớm nhận ra lực lượng vĩ đại của những người cùng khổ và của các dân tộc bị áp bức. Người nói rằng: Nếu làm như vậy thì các đồng chí đánh rắn ở đằng đuôi. Các dân tộc thuộc địa có thể giành được thắng lợi trước khi giai cấp vô sản ở chính quốc lật đổ ách thống trị của tư bản; nhờ thắng lợi của mình, cách mạng ở thuộc địa có thể góp phần vào thắng lợi của cách mạng vô sản ở chính quốc.

Phân tích các mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn chủ yếu trong chế độ thuộc địa nửa phong kiến ở nước ta, Hồ Chí Minh cho rằng: trong khi phải tiến hành đồng thời hai cuộc cách mạng phản đế và phản phong và hai cuộc cách mạng ấy quan hệ chặt chẽ với nhau, thì cần tập trung chủ yếu vào nhiệm vụ phản đế. Giải phóng dân tộc là nhiệm vụ cấp bách hàng đầu, còn nhiệm vụ phản phong thực hiện “người cày có ruộng” phải rải ra từng bước mà làm trong quá trình tiến hành nhiệm vụ phản đế.

Trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, vấn đề dân tộc quan hệ chặt chẽ với vấn đề dân chủ nhân dân. Không thúc đẩy nhiệm vụ dân chủ nhân dân thì không phát huy đến cao độ lực lượng dân tộc. Thực hiện “người cày có ruộng” là một vấn đề cốt tử, là một nhiệm vụ chiến lược quan trọng của cuộc cách mạng vĩ đại ấy. Dù cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức ở miền Bắc nước ta có phạm một số sai lầm trong quá trình thực hiện, nhưng thắng lợi của cải cách ruộng đất ở miền Bắc và thực hiện giảm tô, chia ruộng đất vắng chủ ở miền Nam trong kháng chiến là một thắng lợi cực kỳ to lớn. Xem nhẹ thắng lợi của sự nghiệp cải cách ruộng đất thực hiện “người cày có ruộng” là sai lầm về lập trường và quan điểm chiến lược.

Do đó, thắng lợi vĩ đại 30/4/1975 không chỉ là thắng lợi vĩ đại của sự nghiệp giải phóng dân tộc mà còn làthắng lợi vĩ đại của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, cũng là thắng lợi vĩ đại của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc từ khi miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ năm 1954. “Không thể nào có thắng lợi của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước nếu không có miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Thử thách cực kỳ nghiêm trọng của chiến tranh đã làm ngời sáng tính ưu việt và sức mạnh của chủ nghĩa xã hội” (Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV). Đánh giá thành tựu 10 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, Hồ Chí Minh nói: “Trong 10 năm qua, miền Bắc nước ta đã tiến những bước dài chưa từng thấy trong lịch sử dân tộc. Đất nước, xã hội, con người đều đổi mới. Làng xóm ta xưa kia lam lũ quanh năm vẫn đói rách. Làng xóm ta ngày nay bốn mùa nhộn nhịp cách làm ăn tập thể, nhà hộ sinh, sân và kho của hợp tác, nhà mới của xã viên. Đời sống vật chất ngày càng ấm no, đời sống tinh thần ngày tiến bộ… những thành tích to lớn của miền Bắc ngày càng tỏ rõ chế độ xã hội chủ nghĩa là rất tốt đẹp và đang cổ vũ mạnh mẽ cuộc đấu tranh yêu nước của đồng bào miền Nam”.

*

Ba

Hồ Chí Minh với giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa

Hồ Chí Minh tán thành quan điểm của Mác về cách mạng vô sản ở các nước chính quốc, đồng thời xác định thêm: cách mạng ở các nước thuộc địa, dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, trải qua hai giai đoạn:

– Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân

– Cách mạng xã hội chủ nghĩa

Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo là điều kiện ban đầu để tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cách mạng xã hội chủ nghĩa là sự phát triển tất yếu của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Hai giai đoạn cách mạng ấy không cắt rời nhau mà quan hệ chặt chẽ khăng khít với nhau. Giai cấp tư sản làm cách mạng tư sản chống lại địa chủ phong kiến là để giành và giữ quyền thống trị cho giai cấp tư sản “tiếng là cộng hòa và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa”.

Đảng của giai cấp công nhân tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân không phải để phát triển thành chủ nghĩa tư bản. Sau khi giải phóng dân tộc mà đi theo chủ nghĩa tư bản thì không thể tiếp tục xóa bỏ áp bức bóc lột của giai cấp tư sản đối với công nông, thực hiện sứ mệnh thiêng liêng: tiếp tục giải phóng giai cấp để củng cố thành quả giải phóng dân tộc, tiến tới giải phóng loài người.

Dù chúng ta có phạm một số sai lầm trong khi thực hiện xây dựng chủ nghĩa xã hội ở giai đoạn ban đầu, nhưng thành tựu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nửa nước và ở cả nước trước khi tiến hành đổi mới là vĩ đại.

Thử hỏi công trình dầu khí Việt-Xô, công trình thủy điện Hòa Bình và nhiều công trình đại thủy nông khác, nhiều nhà máy, xí nghiệp ở cả nước, khu tứ giác Long Xuyên, sự nghiệp khai hoang phục hóa sau 30 năm kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ có phải ở giai đoạn ban đầu đó không?

Không có những thành tựu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở giai đoạn ban đầu ấy thì không thể thực hiện sự nghiệp đổi mới thắng lợi. Ý nghĩa lịch sử của sự nghiệp đổi mới là đổi mới để tiếp tục tiến lên trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội, để quá độ lên chủ nghĩa xã hội thắng lợi, tiếp tục thực hiện nhất quán độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đổi mới không có “hệ mục tiêu riêng”. Nói đổi mới có “hệ mục tiêu riêng” là không đúng. Hệ mục tiêu của đổi mới cũng là hệ mục tiêu của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội có nghĩa rằng: động lực dân tộc gắn liền với động lực giai cấp.

Đánh giá thấp động lực dân tộc trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa là một sai lầm lớn. Nhưng không nhận rõ ảnh hưởng quyết định của yếu tố giai cấp đối với yếu tố dân tộc trong cả hai giai đoạn ấy cũng là một sai lầm lớn. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là đặt cách mạng giải phóng dân tộc vào quỹ đạo cách mạng vô sản, nhờ thế đã nâng cao chủ nghĩa yêu nước lên một tầm vóc mới – tầm vóc thời đại –, một sức mạnh mới– sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại – mà trong các triều đại phong kiến trước chưa thể có được.

Không có lòng yêu nước và yêu chủ nghĩa xã hội thì không thể thắng được chiến tranh xâm lược của giặc Mỹ do bọn tư bản độc quyền Mỹ phát động, nhằm xâm chiếm nước ta, biến nước ta thành thuộc địa kiểu mới của Mỹ, vực dậy giai cấp tư sản mại bản phản động và thế lực phong kiến suy tàn, dày xéo công nông và trí thức, dày xéo dân tộc ta, hòng tiêu diệt Đảng Cộng sản và chế độ xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.

Sức mạnh dân tộc Việt Nam ngày càng được khơi dậy mạnh mẽ trong quá trình gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Lịch sử thế giới đã chỉ ra rằng: Liên Xô chiến thắng phát xít Đức và phát xít Nhật là nhờ sức mạnh của chế độ xã hội chủ nghĩa Xôviết, do Đảng Cộng sản Liên Xô lãnh đạo.

Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng giai cấp, chủ nghĩa yêu nước gắn liền với chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Tổ quốc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trở thành Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Từ dân tộc phong kiến, dân tộc nô lệ, dân tộc ta trở thành dân tộc xã hội chủ nghĩa. Bảo vệ và xây dựng Tổ quốc ngày nay là bảo vệ và xây dựng Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, là bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam của 54 dân tộc anh em đổ xương máu mà có được.

Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là sinh mệnh chính trị của Đảng ta. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam mất thì sinh mệnh chính trị của Đảng ta mất. Hiện nay, những kẻ cơ hội, vốn sùng bái chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế quốc, tuyên truyền rằng: Ở nước ta, chủ nghĩa xã hội mất nhưng độc lập dân tộc vẫn còn.

Luận điệu dối trá ấy muốn cắt rời độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, muốn đưa dân tộc chúng ta đi theo con đường tư bản chủ nghĩa, đưa công nông và trí thức cách mạng Việt Nam phải sống dưới ách áp bức bóc lột của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế quốc, làm cho sự nghiệp giải phóng giai cấp bị cắt đứt, “không đến nơi”, không đến đích, dân tộc lại rơi vào vòng nô lệ. Có những kẻ cơ hội cũng “nhã ý” mớm rằng: nên tạm gác khẩu hiệu xã hội chủ nghĩa để tranh thủ sự đồng tình của các tầng lớp đế quốc và tư sản.

Nhưng thử hỏi, ngày nay vị thế dân tộc ta được nâng cao trên trường quốc tế, nhiều nước quan hệ làm ăn với ta trên phương châm: có đi có lại, không can thiệp vào chủ quyền và công việc nội bộ của nhau, là do đâu? Khi ta gia nhập WTO, hội nhập kinh tế quốc tế, ta vẫn kiên quyết xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ theo định hướng xã hội chủ nghĩa, là do đâu, là nhờ đâu? Trong khi tăng cường hợp tác quốc tế, chúng ta kiên quyết chống lại và chống lại có hiệu quả âm mưu chuyển chế độ ta thành chế độ tư bản chủ nghĩa không thông qua biện pháp chiến tranh là do đâu, là nhờ đâu? Từ bỏ chủ nghĩa xã hội, để chủ nghĩa xã hội thất bại là tự mình diệt mình, phản lại dân tộc, phản lại Bác Hồ.

Một số nước để cho chủ nghĩa xã hội thất bại trên Tổ quốc mình, trong khi có đầy đủ lực lượng chính trị và quân sự hùng hậu với hàng triệu đảng viên, là do giao động về chủ nghĩa xã hội, chạy theo miếng mồi nhử “kinh tế thị trường hiện đại”.

Các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách lật đổ chế độ ta, các phần tử cơ hội luôn luôn rêu rao những quan điểm sai trái hòng làm chệch hướng con đường đi tới chủ nghĩa xã hội của chúng ta. Nhưng Việt Nam vẫn được đánh giá là quốc gia có sự ổn định chính trị vững vàng. Nếu không phải nhờ kiên trì độc lập tự chủ theo con đường xã hội chủ nghĩa thì do đâu?

Xây dựng chủ nghĩa xã hội là xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa, phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa, hình thái kinh tế – xã hội xã hội chủ nghĩa.

Để xây dựng hình thái kinh tế – xã hội xã hội chủ nghĩa thắng lợi ở một nước vốn có nền kinh tế nghèo và lạc hậu như nước ta, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ. Thời kỳ quá độ lâu dài ấy được thực hiện qua từng bước kế tiếp nhau, để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa và đồng thời từng bước xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.

Khi nói đến lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất thành hai mệnh đề, hai khái niệm triết học tách rời nhau là nhằm để phân tích, nghiên cứu. Dẫu rằng lực lượng sản xuất là yếu tố tích cực nhất, năng động nhất, nhưng làm gì có một lực lượng sản xuất không nằm trong một quan hệ sản xuất nhất định, làm gì có một quan hệ sản xuất “chân không” không chứa đựng trong nó một lực lượng sản xuất nhất định.

Hạ tầng cơ sở của chủ nghĩa xã hội nhất định phải là một nền đại công nghiệp hiện đại, có trình độ phát triển cao, mà trong đó, hàm lượng tri thức rất cao. Với nhận thức biện chứng như đã nói trên, trong thời kỳ quá độ ở nước ta ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất là ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Định hướng xã hội chủ nghĩa quyết định sự lựa chọn phương hướng phát triển phù hợp với đặc điểm dân tộc, đặc điểm xã hội, đặc điểm kinh tế và môi trường sinh thái, phù hợp với đặc điểm của từng bước đi, không những không rập khuôn theo mô hình ngoại lai, mà lại càng không rập khuôn theo mô hình tư bản chủ nghĩa.

Chúng ta phải luôn luôn tôn trọng quy luật: Quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.

Quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với lực lượng sản xuất công nghiệp hiện đại ngày càng phát triển, không thể và không phải là quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa mà nhất thiết phải là quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.

Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa không thể hình thành hoàn chỉnh ngay từ đầu thời kỳ quá độ. Nhưng nóhình thành và phát triển từng bước ngay sau khi giành được toàn bộ chính quyền về tay nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, qua việc tịch thu, quốc hữu hóa hệ thống tài chính – ngân hàng, sân bay, đường sắt, bến cảng, hệ thống điện lực, các trung tâm viễn thông, các cơ sở sản xuất vũ khí, tịch thu đồn điền ruộng đất, hầm mỏ của đế quốc, tư sản mại bản, tàn dư phong kiến…

Từ đó, chế độ công hữu các tư liệu sản xuất chủ yếu được thiết lập, và như thế, một quan hệ sở hữu mới được hình thành.

Trong quá trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội, có lúc ta đã tuyệt đối hóa “công hữu”. Nhận ra khuyết điểm đó, chúng ta thực hiện đổi mới, chủ trương xây dựng một nền kinh tế nhiều thành phần, kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng kinh tế tập thể  trở thành nền tảng ngày càng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Hiến pháp năm 1992 lại quy định: các chủ thể sản xuất, kinh doanh của các thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật.

Trong thời kỳ quá độ, đặc biệt là ở một nước có nền kinh tế lạc hậu, chủ yếu dựa vào nông nghiệp, “tuyệt đối hóa” công hữu là sai lầm. Nhưng nếu sửa chữa sai lầm “tuyệt đối hóa” công hữu mà lại đi vào hữu khuynh cực đoan “tư hữu hóa” nền kinh tế, xóa bỏ nền kinh tế công hữu tư liệu sản xuất chủ yếu cũng lại là một sai lầm mới.

Trong mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, “tuyệt đối hóa” tác động chi phối của quan hệ sản xuất đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất là một sai lầm lớn. Thì, hiện tượng coi nhẹ tác động ngược lại của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa đối với sự phát triển lực lượng sản xuất cũng là một sai lầm lớn, sai lầm cơ hội hữu khuynh.

Nói cho cùng, quan hệ sản xuất là quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý, quan hệ phân phối mà quan hệ sở hữu đóng vai trò chủ đạo chi phối. Giành lại toàn bộ chính quyền về tay nhân dân, thiết lập nhà nước Dân chủ Cộng hòa, nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, quốc hữu hóa các tư liệu sản xuất chủ yếu ngay từ đầu, đều nhằm mục đích từng bước xây dựng quan hệ sản xuất mới. Trong giai đoạn chưa được hoàn thiện, nền kinh tế được thiết lập dưới chính quyền do Đảng Cộng sản lãnh đạo, xét về bản chất, mang bản chất xã hội chủ nghĩa. Các nhân tố xã hội chủ nghĩa ngày càng phát triển, càng lớn mạnh, càng giữ vai trò chủ đạo chi phối, vai trò định hướng mà các thành phần kinh tế khác không thể nào thay thế được. Thành phần kinh tế tư bản tư nhân mà thay thế, lấn át, đóng vai trò chủ đạo chi phối, định hướng cho nền kinh tế quốc dân thì nền kinh tế nước ta sẽ chuyển sang nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, chế độ xã hội chủ nghĩa nước ta sẽ biến dạng, đổi màu sang chế độ khác.

Có lúc chúng ta “tuyệt đối hóa” yêu cầu kế hoạch hóa và tập thể hóa nền kinh tế, “tuyệt đối hóa” phương thức bao cấp trong lưu thông phân phối. Các khuyết điểm sai lầm nêu trên là xuất xứ từ một nguyên nhân là “tuyệt đối hóa” tác dụng chi phối ngược trở lại của quan hệ sản xuất đối với sự phát triển lực lượng sản xuất. Nhận rõ sai lầm có tính chất chủ quan, duy ý chí ấy, chúng ta đã ra sức sửa chữa, thay đổi tư duy kinh tế, thay đổi mô hình kinh tế, thực hiện cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là lý thuyết kinh tế và mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Thứ nhất: Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của chúng ta khác với nền kinh tế thị trường tiền tư bản và nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, trước hết là ở mục đích chính trịbản chất chính trịcủa nền kinh tế. Nền kinh tế thị trường tư bản vận động theo quy luật thị trường tư bản chủ nghĩa, do tư bản chiếm đoạt được đại bộ phận tư liệu sản xuất, nhờ đó mà tăng cường sức bóc lột thặng dư giá trị đối với tầng lớp lao động làm thuê, nhằm mục đích đem lại lợi nhuận ngày càng nhiều cho tư bản. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trên cơ sở chế độ công hữu tư liệu sản xuất chủ yếu, nhằm mục đích làm cho nhân dân ta ngày càng được ấm no, giàu có, hạnh phúc, nhưng dân giàu trước hết là phải làm cho nhân dân lao động thoát khỏi bần cùng. 

Thứ hai là: ở sự xác định vị trí, tính chất của từng thành phần kinh tế. Một nền kinh tế dựa trên chế độ công hữu tư liệu sản xuất chủ yếu thì tất yếu kinh tế nhà nước phải đóng vai trò chủ đạo, chi phối, nòng cốt và định hướng.

Và như vậy, cần có sự phân biệt giữa chế độ sở hữu (theo nghĩa rộng) và hình thức sở hữu.

Trong khi khẳng định chỉ có một chế độ sở hữu là công hữu tư liệu sản xuất chủ yếu thì lại thừa nhận trong chế độ sở hữu ấy có nhiều hình thức sở hữu (nhiều thành phần kinh tế).

Thứ ba là: Các công ty cổ phần, các hình thức đa sở hữu ngày càng xuất hiện nhiều, nhưng trong các công ty đa sở hữu ấy lại mang bản chất sở hữu khác nhau. Phải đảm bảo cho các công ty đa sở hữu mà nhà nước có tỉ lệ cổ phần chi phối chiếm vị trí chủ đạo.

Thứ tư là: do bản chất chính trị khác nhau mà có mục đích sản xuất – kinh doanh khác nhau, cho nên nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa thúc đẩy bóc lột thặng dư giá trị của chủ tư bản, làm cho sự phân hóa giàu nghèo trong xã hội ngày càng cao. Còn nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong khi thúc đẩy phát triển, phải đảm bảo ngày càng giảm bớt sự phân hóa giàu nghèo trong xã hội. Đó là một nhiệm vụ dân tộc và giai cấp của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đó là thước đo nghiêm khắc xem sự vận hành kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có đi đúng hướng hay không.

Chỉ khi nào sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước tập trung sức củng cố và phát huy cao vai trò của kinh tế nhà nước cùng kinh tế tập thể, động lực và tiềm lực xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế nhiều thành phần, thì việc giảm bớt khoảng cách giàu nghèo mới đạt hiệu quả thật sự.

Hồ Chí Minh xác định rất rõ mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp. Người chỉ ra: Nói đến chính trị, chúng ta phải xem xét thái độ của các giai cấp và các tầng lớp xã hội.

Từ quan điểm đó, phải thẳng thắn nói rằng: Giữa kinh tế cá thể, kinh tế tiểu thương, tiểu chủ (bao gồm kinh tế trang trại quy mô nhỏ, các công ty gia đình, các doanh nghiệp nhỏ và vừa) và kinh tế tư bản tư nhân có quan hệ sở hữu về bản chất khác nhau.

Về kinh tế những năm qua kinh tế tư bản tư nhân có mặt tích cực, là một động lực góp phần xây dựng nền kinh tế quốc dân phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên đã có những biểu hiện tiêu cực: chỉ nhấn mạnh mục tiêu duy nhất là lợi nhuận “lợi nhuận bất kỳ”, từ đó chạy theo lợi ích ngược lại định hướng xã hội chủ nghĩa. Chúng ta phát huy mặt tích cực, khuyến khích họ đi theo định hướng xã hội chủ nghĩa, giúp họ tồn tại lâu dài trong nền kinh tế nước ta, đồng thời đấu tranh khắc phục mặt tiêu cực.

Ở các thời đại, kinh tế hộ, kinh tế tiểu thương, tiểu chủ có vai trò rất quan trọng, nhưng chưa bao giờ nó đóng vai trò chủ đạo, quyết định bản chất kinh tế và chính trị của một phương thức sản xuất. Dưới chế độ phong kiến, kinh tế địa chủ đóng vai trò chủ đạo. Dưới chế độ tư bản, kinh tế tư bản đóng vai trò chủ đạo. Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, kinh tế nhà nước xã hội chủ nghĩa đóng vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế tập thể hợp thành nền tảng. Kinh tế hộ, tiểu chủ, tiểu thương đã góp phần rất quan trọng phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhưng, như có nhà nghiên cứu ví dụ nền kinh tế cá thể, tiểu chủ, tiểu thương như “một cốc nước không đầy”. Kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể nhận rõ trách nhiệm chính trị, kinh tế, xã hội của mình trong thời kỳ quá độ, tích cực “rót cho đầy cốc nước” đó để giữ vững bản chất xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế chúng ta. Kinh tế tư bản tư nhân do bản chất tự thân của quan hệ sở hữu tư bản tư nhân, cũng tranh thủ thời cơ “rót đầy cốc nước”, và nếu họ làm được như vậy, thì nền kinh tế chuyển sang một bản chất khác.

Quá trình “rót đầy cốc nước” nói lên tính chất cuộc đấu tranh giữa hai con đường trong thời kỳ quá độ: con đường phát triển theo chủ nghĩa xã hội và con đường phát triển theo chủ nghĩa tư bản.

Hiện nay, bên cạnh những thành tựu đạt được, kinh tế tập thể còn có những điểm yếu kém, tỷ trọng đóng góp vào GDP chưa cao. Đó là do Đảng, Nhà nước xã hội chủ nghĩa và những cán bộ được phân công phụ trách xây dựng kinh tế tập thể chưa làm tròn trách nhiệm. Có yếu kém thì càng phải tích cực tập trung sức lực của Đảng, Nhà nước, của hệ thống chính trị mà khắc phục, mà vực dậy. Đó là trách nhiệm củng cố nền tảng liên minh công nông và trí thức, củng cố mối quan hệ máu thịt giữa công nghiệp và nông nghiệp, giữa thành thị và nông thôn, đào tạo nguồn nhân lực xã hội chủ nghĩa trước mắt và lâu dài.

Một khi đã chấp nhận trong nền kinh tế nhiều thành phần có thành phần kinh tế tư bản tư nhân, thì tất yếu thừa nhận trong thời kỳ quá độ diễn ra cuộc đấu tranh gay gắt giữa hai con đường xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa. Tính chất dân tộc và giai cấp biểu hiện sâu sắc và ráo riết trong chính cuộc đấu tranh giữa hai con đường đó. Chúng ta không cường điệu những nhân tố tư bản chủ nghĩa trong cuộc đấu tranh ấy, nhưng cũng không coi nhẹ những yếu tố tự giác và tự phát của chủ nghĩa tư bản trong một đoạn đường đầy gian truân và khắc nghiệt – quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Sự thất bại của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu, đó là một bài học bổ ích để chúng ta cảnh giác.

Kinh tế nhà nước đã có vai trò to lớn trong nền kinh tế, không ai có thể phủ nhận. Nhưng vừa qua, các tổng công ty, tập đoàn kinh tế nhà nước, ít nhiều có phạm khuyết điểm, thậm chí nghiêm trọng như sai lầm ở Vinashin. Khuyết điểm và sai lầm ấy là do quản lý lỏng lẻo. Do chủ sở hữu không làm tròn trách nhiệm chủ sở hữu, vin vào và phó mặc cho tính tự phát của cái gọi là “cơ chế thị trường” để diễn ra tình trạng mà người ta cố tình bôi bác: “Cha chung không ai khóc”. Trên pháp lý, không có đơn vị kinh tế nhà nước nào không có chủ sở hữu, không có chuyện “cha chung” nhưng chủ sở hữu được xác định ấy lại thiếu trách nhiệm, đổ lỗi cho nhau, phân chia từng mảnh tản mạn. Có vị chủ doanh nghiệp đã phát biểu trên báo chí: Kinh tế nhà nước là nơi sử dụng vốn như thùng không đáy, và là cỗ máy “nghiền” cán bộ nhanh nhất, không ít cán bộ hư hỏng, tham nhũng đều từ bộ máy kinh tế quốc doanh mà ra.

Người phát ngôn và người đưa tải tin tức trích ở trên không phải không có chủ đích. Nhưng về phía những người cộng sản, các tổng công ty và tập đoàn kinh tế nhà nước cùng các chủ sở hữu, chúng ta thấy rõ trách nhiệm của mình, kiên quyết tập trung củng cố, bất luận trường hợp nào cũng không thể để cho kinh tế nhà nước, xương sống của toàn bộ nền kinh tế quốc dân sa sút.

Các đơn vị kinh tế xã hội chủ nghĩa chịu sự lũng đoạn tiêu cực cũng là một bộ phận của cuộc đấu tranh giữa hai con đường tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa.

Để đảm bảo thắng lợi trong cuộc đấu tranh giữa hai con đường xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa, trong Đảng và bộ máy nhà nước phải kiên quyết thật sự chống quan liêu, tham nhũng. Nơi nào mà quyền lực không vì nhân dân thì nơi ấy có tham nhũng. Còn trong nền kinh tế và trong xã hội phải kiên quyết chống đầu cơ. Những người có chức quyền mà móc ngoặc với bọn đầu cơ để trục lợi, mua bán danh tước thì Đảng, nhà nước sẽ bị lũng đoạn, tác hại không lường hết. Đó là một sự cấu kết cực kỳ nguy hiểm, “đi đêm giữa tay trong và tay ngoài”, giữa những người lợi dụng chức quyền và những kẻ có tiền của muốn làm giàu bất chính.

Quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã xác định ở Cương lĩnh chính trị của Đảng năm 1991, được bổ sung và phát triển năm 2011 không phải là khẩu hiệu kêu gọi chung chung. Cũng không phải là một việc làm được tiến hành sau năm 2015 hay 2020, mà quán triệt ngay, thẩm thấu trong mọi lĩnh vực, mọi nhiệm vụ, mọi quá trình của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa hiện nay.

Quán triệt quan điểm quá độ lên chủ nghĩa xã hội sâu sắc chừng nào trong từng lĩnh vực, trong suốt quá trình và trong toàn bộ nền kinh tế thì càng thu hoạch được những thành tựu thực chất, nhân tố xã hội chủ nghĩa ngày càng tăng lên đúng định hướng.

Cắt rời các bước của thời kỳ quá độ lâu dài, cắt rời đổi mới với con đường xã hội chủ nghĩa là một sai lầm. Không có công nghiệp hóa chung chung mà chỉ có công nghiệp hóa theo con đường xã hội chủ nghĩa hay công nghiệp hóa theo con đường tư bản chủ nghĩa mà thôi. Tách rời “phát triển” và bản chất chính trị của sự “phát triển” là một biểu hiện của sai lầm đó.

*

Bốn

Đi theo con đường mà Bác Hồ, Đảng và nhân dân lựa chọn

Khai phá được con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là nhờ Đảng ta, từ những tổ chức tiền thân cho đến ngày nay, đã ráo riết học tập, kế thừa và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hoạt động. Cho nên, để kiên định và kiên trì con đường mà Bác Hồ và Đảng ta đã lựa chọn thì trong mọi hoạt động của Đảng, phải lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam.

Không thực hiện điều quan trọng này thì sa vào vũng bùn của chủ nghĩa cơ hội “tả khuynh” hoặc “hữu khuynh”, lâm vào nguy cơ chệch hướng, tự phát hay tự giác phản bội lại thành quả cách mạng mà mồ hôi và xương máu chiến đấu hy sinh của nhiều thế hệ xây đắp nên.

Hiện nay nhờ có hòa bình, độc lập, thống nhất, kinh tế phát triển, giao lưu văn hóa và khoa học mở rộng, chúng ta được học tập nhiều gấp bội so với trước. Bằng cấp, chức danh, cấp quân hàm nhiều hơn trước, cao hơn trước. Điều đó rất quý. Nhưng, một vài lớp bồi dưỡng chính trị, một bằng cử nhân, một chức danh tiến sĩ, một chức vụ trung cấp, cao cấp trong Đảng và chính quyền… chưa thể đảm bảo là đã am tường sâu sắc chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

Không thể hiểu chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh một cách thô thiển, không có gốc, không có hệ thống, sơ lược, chắp vá. Có hiện tượng chỉ hiểu câu chữ mà không nắm được sự tinh túy và nguyên lý có tính chất phổ quát; có hiện tượng cắt xén lý luận cơ bản, dẫn theo sách vở phương Tây, sách vở chống cộng. Không dày công lăn lộn nghiên cứu thực tiễn. Có hiện tượng lợi dụng phát huy dân chủ, tự do dân chủ để truyền bá những quan điểm sai trái trên báo chí, trên mạng, trên các diễn đàn nghiên cứu.

Những hiện tượng ấy là miếng đất cho xu hướng giáo điều mới và xu hướng xét lại mới phát triển, ngăn trở việc nắm vững và vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn một cách đúng đắn.

Bác Hồ dạy: “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt”.

Tôi nghĩ rằng chúng ta cần khắc phục một cách nghiêm túc những khuyết điểm về dạy và học chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh cho cán bộ, đảng viên. Cần lấy việc học tập chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm một tiêu chuẩn rèn luyện đảng viên và bồi dưỡng cán bộ.

– Phải kết hợp nghiên cứu chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc học tập, soạn thảo các Nghị quyết của Đảng.

– Phải rà soát chương trình học tập chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh ở các trường học.

– Coi trọng đào tạo một thế hệ giáo viên truyền giảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh có đạo đức và tài năng cao.

– Quan tâm tổng kết tình hình thực tiễn. Tổng kết thực tiễn là dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh để soi rọi tình hình và thực tiễn để kiểm tra đường lối chính sách và từng bước hoàn thiện đường lối, chính sách.

– Trình độ hiểu biết và khả năng vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là một tiêu chuẩn để tuyển chọn công chức, đào tạo, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ.

– Kiên quyết chống lại các quan điểm sai trái trong nội bộ Đảng và trong xã hội, các quan điểm chống phá của các thế lực thù địch, các khuynh hướng cơ hội, cố tình bôi bác chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đang tạo ra nguy cơ “tự diễn biến” rất nguy hiểm.

Học tập đi đôi với rèn luyện. Học tập chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là rèn luyện đạo đức, nâng cao ý chí chiến đấu phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, tác phong lãnh đạo và tác phong làm việc, tác phong lao động, nền nếp công tác và sản xuất, tinh thần đoàn kết thương yêu lẫn nhau giữa các thế hệ và trong mỗi gia đình. Đặc biệt là cán bộ, đảng viên cần nêu cao các tấm gương tốt, “một tấm gương tốt còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”, như Bác Hồ dạy. Thoái hóa về đạo đức sẽ dẫn đến thoái hóa về chính trị.

Cần nâng cao đạo đức cách mạng và lối sống lành mạnh trong nhân dân và thanh niên, thiếu niên. Có chiến lược thực hiện lời Di chúc của Bác Hồ: Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau, vừa hồng vừa chuyên, thế hệ kế thừa sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Cần nhớ mãi lời dạy của Người: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa”, “không có tư tưởng xã hội chủ nghĩa thì không làm được công việc của chủ nghĩa xã hội”.

Tập trung khắc phục bằng được tình hình thoái hóa biến chất về lý tưởng xã hội chủ nghĩaKhông thể để đến Đại hội Đảng lại lặp lại nhận định: “một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên thoái hóa biến chất làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng”.

Hàng ngàn, hàng vạn trang sách và trang báo mấy chục năm qua đã nói nhiều về tệ tham nhũng, quan liêu.

Đảng đã đề ra nhiều biện pháp. Tôi chỉ xin nhấn mạnh một điểm: thực thà tự phê bình và phê bình từ dưới lên trên và từ trên xuống dưới, đặc biệt từ cấp lãnh đạo, các đồng chí lãnh đạo cao nhất của Đảng và nhà nước, trong cán bộ cao cấp, trung cấp.

Không xây dựng được tinh thần và nền nếp thực thà tự phê bình và phê bình thì không thể nào xây dựng Đảng, Nhà nước, các đoàn thể chính trị trong sạch và vững mạnh. Sức mạnh của một Đảng bộ, mỗi đảng viên không chỉ ở chỗ phát huy ưu điểm, mà còn là nhận ra, nhận rõ và kiên quyết sửa chữa khuyết điểm của mình.

Việc thật thà tự phê bình và phê bình nên bắt đầu từ đợt học tập các văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XI, nằm trong quá trình xây dựng chương trình hành động của Đảng bộ và đảng viên thực hiện Nghị quyết Đại hội XI.

Cùng với thật thà tự phê bình và phê bình là kiên quyết và thực hành rộng rãi dân chủ trong Đảng và ngoài xã hội. Bác Hồ dạy: “Thực hành dân chủ là cái chìa khóa vạn năng có thể giải quyết được mọi khó khăn.

Cùng với mở rộng dân chủ là phải tăng cường kỹ luật, giữ vững chuyên chính. Bác Hồ dạy: “Chế độ nào cũng có chuyên chính, vấn đề là chuyên chính với ai?… Như cái hòm đựng của cải, thì phải có cái khóa. Nhà thì phải có cửa… Dân chủ là cái quý báu nhất của nhân dân, chuyên chính là cái khóa, cái cửa để phòng phá hoại… Thế thì dân chủ cũng cần phải có chuyên chính để giữ lấy dân chủ.

Để thực hiện mở rộng dân chủ, đề cao kỷ luật, thì một biện pháp rất quan trọng là phải kiểm tra, thanh tra và giám sát.

Bên cạnh ưu điểm, hiện nay trong một số trường hợp thanh tra, kiểm tra, giám sát còn né tránh, còn thỏa hiệp để giữ ghế, giữ ôn hòa, “nín thở qua sông”, chờ qua khỏi các kỳ đại hội, các kỳ bầu cử. Vậy thì làm sao phân biệt được cán bộ tốt xấu, làm sao đưa được cán bộ tốt vào bộ máy lãnh đạo và quản lý? Thanh tra đi, thanh tra lại vẫn không phát hiện được vấn đề. Đến khi đổ bể mới biết. Thanh tra xong, có kết luận rồi, nhưng do nhân nhượng, thỏa hiệp với nhau nên không giải quyết được dứt điểm. Động đến cấp chức càng cao, càng khó thanh tra, kiểm tra. Vậy sức chiến đấu của Đảng có còn hiệu lực nữa không?

Thưa các vị, các đồng chí và các bạn,

Đi theo con đường mà Bác Hồ, Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn là một cuộc đấu tranh để xây dựng cái mới và loại trừ cái cũ không còn phù hợp, là sự nghiệp mãi mãi của các thế hệ Việt Nam. Chúng ta khẳng định quyết tâm không gì lay chuyển nổi tiếp tục thực hiện con đường cách mạng vinh quang đó tới đích. Chúng ta biết rằng: Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một thời kỳ dài, nhưng không phải là vô hạn. Chủ nghĩa xã hội nhất định sẽ giành được thắng lợi cuối cùng.

Xin cảm ơn !

(*): Đầu đề là của Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam

Lê Khả Phiêu (Nguyên Tổng Bí thư BCHTW Đảng Cộng sản Việt Nam)

dangcongsan.vn

Người đi tìm đường, mở đường, dẫn đường và thiết kế tương lai

Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890 - 2/9/1969)

(ĐCSVN) – Lịch sử Việt Nam 100 năm qua trải nhiều giai đoạn thăng trầm, từ chỗ nước mất độc lập đến khi giành được độc lập, tự do và giành được những thắng lợi vĩ đại như ngày nay. Lịch sử đó gắn liền với tên tuổi, tư tưởng, sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh – Người tìm đường, mở đường, dẫn đường và thiết kế tương lai cho dân tộc.

Tìm đường đi cho dân tộc theo đi

Khi ông Nguyễn Sinh Sắc đậu Phó bảng và làm lễ “vào làng” cho hai con trai, Nguyễn Sinh Cung có tên mới là Nguyễn Tất Thành. Có lẽ một sự mong muốn thành đạt cho các con bắt đầu từ đây. Bởi vì từ đó dõi theo các hoạt động của Nguyễn Sinh Sắc, người ta có thể nhận ra rằng, ông đang có một sự “điều chỉnh, sắp xếp” lại tư duy của mình cho phù hợp với những gì đang diễn ra rất sôi động và nhanh chóng lúc bấy giờ, nếu chưa phải là Âu, Mỹ thì cũng không thể là “Thánh hiền”.

Trong dòng chảy duy tân kiểu Duy tân hội của Phan Bội Châu, không loại trừ suy nghĩ của Nguyễn Sinh Sắc cũng muốn gửi con mình cho người bạn là Phan Bội Châu theo con đường Đông du, sang Nhật học tập. Khi Nhật Bản đang liên tiếp chiến thắng Nga hoàng trong chiến tranh Nga – Nhật, mà hồi đó người ta cho là người da vàng chiến thắng da trắng, thì người Việt Nam hướng tới Nhật Bản là một điều dễ hiểu. Nhưng rõ ràng, trong sự suy tính ở ngã ba đường thì việc ông Nguyễn Sinh Sắc cho hai con vào học trường Pháp – bản xứ (École franco – indigène) ở Vinh, với lớp đầu tiên của bậc tiểu học, thường gọi là lớp dự bị (Cours préparatoire) là một hiện tượng hiếm thấy lúc bấy giờ. Bởi vì, tuy các thầy Nho lúc đó đều than thở: “Nào có ra gì cái chữ Nho/Ông nghè ông cống cũng nằm co”, nhưng phần đông các nhà Nho lại ghét chữ quốc ngữ và chữ Pháp. Ngay cả Phan Bội Châu, con người lừng danh lúc bấy giờ cũng chẳng ưa gì tiếng Pháp. Phải nói rằng, hồi ấy, việc bàn luận nên học chữ nào gắn rất chặt với việc đi theo con đường nào, làm cách nào để đánh Pháp.

Việc vào học trường Pháp – bản xứ là bước khởi đầu rất quan trọng để Nguyễn Tất Thành có điều kiện khám phá nước Pháp. Và chính tại đây, Nguyễn Tất Thành lần đầu tiên biết tới ba từ: Tự do – Bình đẳng – Bác ái. Khi phần đông đang say sưa với giáo lý “Thánh hiền”, với Nhật Bản, ghét chữ Pháp và sợ Pháp, Nguyễn Tất Thành quyết định sang nước Pháp “muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn đằng sau những chữ ấy” là một hiện tượng hiếm thấy. Anh học chữ Pháp và sang Pháp không phải để chống lại nước Pháp mà để hiểu nước Pháp, hiểu nền văn hóa Pháp để chống lại sự bất công, bất bình đẳng. Từ đây Người trở thành một nhân vật kỳ lạ của thời đại chúng ta như cách nói của Đa vít Hanbớcxtam.

Trong khi các tổ chức và phong trào cứu nước đang lúng túng, bế tắc về tư tưởng, đường lối và phương pháp cứu nước, có xu hướng đi vào ngõ cụt với tâm trạng bi quan “Đêm sao đêm mãi tối mò mò/đêm đến bao giờ mới sáng cho” thì Hồ Chí Minh xuất hiện, kịp thời đáp ứng đúng yêu cầu của lịch sử, của dân tộc và xu thế thời đại. Phong trào giải phóng dân tộc đòi hỏi phải có một đường lối cứu nước khoa học và cách mạng để chống kẻ thù mới là chủ nghĩa đế quốc, giành lại độc lập dân tộc. Thời đại đang cần vĩ nhân có khả năng đoàn kết, tổ chức các dân tộc thuộc địa vùng lên thực hiện sự nghiệp giải phóng.

Với trí tuệ mẫn tiệp, Hồ Chí Minh có một tầm nhìn, cách nhìn và cách làm hết sức độc đáo, mang sắc thái, diện mạo và dấu ấn Hồ Chí Minh.

Tầm nhìn Hồ Chí Minh là một tầm nhìn xa, trông rộng – tầm nhìn đại dương, tư duy toàn cầu, xuyên thế kỷ. Người ra biển lớn, đi tới mọi châu lục, tiếp cận và khám phá nhiều nền văn hóa khác nhau. Tầm nhìn Hồ Chí Minh từ thế kỷ XX xuyên qua thế kỷ XXI, rọi chiếu tư duy và hành động của chúng ta trong thế giới toàn cầu hóa, đặt hòn đá tảng cho hội nhập và tiếp biến văn hóa.

Cách nhìn Hồ Chí Minh rất khoa học và cách mạng. Người dám rũ bỏ tư duy cũ, con đường cũ, cách làm cũ của các thế hệ bậc cha chú, chỉ giữ lại lòng khâm phục những người đi trước để đạt mục đích giành độc lập dân tộc. Người không làm theo kiểu “đuổi hổ cửa trước rước beo cửa sau”, “xin giặc rủ lòng thương” hay ra nước ngoài theo kiểu cầu viện. Người nhận thức sâu xa lời dạy của các bậc sĩ phu “muốn bắt cọp phải vào tận hang cọp”. Lúc bấy giờ, trong khi có người ghét chữ Pháp, sợ nền văn minh Pháp thì Hồ Chí Minh có cách nhìn bản lĩnh là muốn đánh Pháp phải hiểu nước Pháp, muốn hiểu Pháp phải học chữ Pháp. Người học chữ Pháp và quyết định sang Pháp để hiểu nước Pháp và văn hóa Pháp, muốn làm quen với nền văn minh Pháp, tìm xem những gì ẩn giấu đằng sau các từ tự do, bình đẳng, bác ái. Với cách nhìn này, Hồ Chí Minh cho thấy một trí tuệ và bản lĩnh với hai tố chất cách mạng và khoa học. Người mạnh dạn khai thác, lấy “vũ khí” của phương Tây là văn hóa, văn minh để chống lại thực dân phương Tây. Trong tác phẩm Hồ, Đa vít Hanbớcxtam nhận xét rằng “ông đã dùng tới nền văn hóa và tâm hồn của kẻ địch của ông”.

Trong khoảng 10 năm từ lúc rời Tổ quốc đến khi bắt gặp ánh sáng khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lê nin, Hồ Chí Minh đã thu hái nhiều giá trị ở phương Tây. Thật kỳ lạ là Hồ Chí Minh, hiện thân của cuộc đấu tranh quyết liệt chống thực dân phương Tây xâm lược, lại sớm đến với văn hóa Pháp, rất gần với văn hóa phương Tây. Nhà nghiên cứu Hữu Ngọc dẫn lại lời của Etmông Misơlê (Edmond Michelet) cho là “ông Hồ Chí Minh rất Pháp” và lời của nhà báo Pháp Giăng Lacutuyrơ (Jean Lacouture) là Hồ Chí Minh có những dấu hiệu rõ ràng về những mối liên hệ tri thức và chính trị với nhân dân Mỹ. Được trang bị vững chắc vốn quốc học, đặc biệt là sử học, văn học, triết lý sống và các giá trị văn hóa truyền thống, lại thấm nhuần Khổng giáo, Phật giáo và những yếu tố tích cực của Lão giáo, ra đi từ một nước thuộc địa nửa phong kiến chuyên chế, Hồ Chí Minh thâm nhập phương Tây dễ dàng, tự nhiên nhưng vẫn rất Á châu. Người phương Tây nhận xét: Cụ Hồ nổi lên như là người Á châu nhất của Á châu nhưng lại là người dễ dàng tiếp xúc nhất với tinh thần của châu Âu (Pôn Muýtxơ). Hồ Chí Minh đi vào đời sống chính trị, tự đào tạo và trưởng thành ở châu Âu, tôi luyện những lý tưởng tự do, bình đẳng, bác ái, dân chủ, tiến bộ ở phương Tây qua lăng kính giải phóng dân tộc. Hướng ra thế giới, sẵn sàng tiếp thu cái mới nhưng vẫn giữ giá trị gốc rễ, cái hồn, cái cốt rất Việt Nam. Đa vít Hanbớcxtam cho rằng, Hồ Chí Minh là một nhân vật kỳ lạ của thời đại này – hơi giống Găng đi, hơi giống Lê nin, hoàn toàn Việt Nam.

Cách làm của Hồ Chí Minh là quan sát, học hỏi, tìm hiểu, từ cuộc sống công nhân đến trí thức, làm nhiều nghề, nhiều địa bàn khác nhau, hoạt động thực tiễn kết hợp chặt chẽ với nghiên cứu lý luận. Lấy dân tộc làm địa bàn xuất phát, ra nước ngoài xem họ làm như thế nào, tìm hiểu mọi loại học thuyết, mọi thứ chủ nghĩa, chắt lọc trong đó những cái hay, cái tốt, chọn thời cơ trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập. Đó là phương pháp “dĩ ngoại đột nội” (lấy ngoại đột nội), nhưng Phan Châu Trinh không hiểu, lại cho rằng “đãi thời đột nội” (chờ thời đột nội). Dẫu sao, Phan Châu Trinh cũng rất kỳ vọng vào Nguyễn Ái Quốc như cây đương lộc, nghị lực có thừa, dày công học hỏi, lý thuyết tinh thông. Còn Phan Bội Châu phải thừa nhận: rốt cuộc đời hoạt động cách mạng của tôi là một thất bại lớn, đó là bởi tôi tuy có lòng mà thật bất tài… Nhưng hiện nay đã có người khác giỏi hơn lớp chúng tôi nhiều đứng ra đảm đương công việc mà lớp chúng tôi không làm xong. Đó là Nguyễn Ái Quốc. Ông nói rõ hơn: nếu Nam Đàn có thánh thì chính là ông Nguyễn Ái Quốc chứ không phải ai khác.

Trải nghiệm, khám phá, nghiên cứu, khảo nghiệm nhiều học thuyết, nhiều chủ nghĩa, nhiều con đường, với tầm nhìn, cách nhìn, cách làm mang sắc thái Hồ Chí Minh, cuối cùng Người rút ra nhận xét: chỉ có chủ nghĩa Lê nin là chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất.

Với sự kiện tiếp nhận Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lê nin (tháng 7/1920), tham gia Đại hội XVIII Đảng Xã hội Pháp (tháng 12/1920), bỏ phiếu tán thành việc gia nhập Quốc tế thứ ba, hoàn toàn tin theo Lê nin, Nguyễn Ái Quốc hoàn thành sứ mệnh tìm đường: giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản.

Người mở đường, xây dựng học thuyết giải phóng dân tộc

Sau 10 năm hoạt động không biết mệt mỏi (1911 – 1920), kết hợp khoa học và cách mạng, trí tuệ và bản lĩnh, Hồ Chí Minh đã tìm được ánh sáng chân lý của thời đại là chủ nghĩa Mác – Lê nin. Hồ Chí Minh tiếp tục sứ mệnh mở đường. Bằng nỗ lực phi thường, Hồ Chí Minh mở hai hướng để truyền bá những gì mình tiếp nhận được trong 10 năm tìm đường cứu nước vào phong trào cách mạng Việt Nam, chuẩn bị về chính trị, tư tưởng, tổ chức để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Hướng thứ nhất từ phía bắc xuống gồm các địa bàn: Pháp (1921 – 1923), Liên Xô (1923 – 1924), Trung Quốc (1924 – 1927). Hướng thứ hai từ phía Tây về với địa bàn Thái Lan (1928 – 1929). Trên bốn địa bàn chủ yếu đó, kết hợp chặt chẽ hoạt động thực tiễn với nghiên cứu lý luận, mở lớp đào tạo huấn luyện cán bộ, viết báo, viết sách, tham dự các hội nghị quốc tế, Hồ Chí Minh đã xây dưng được học thuyết giải phóng dân tộc dưới ánh sáng chủ nghĩa Mác – Lê nin. Sợi chỉ đỏ xuyên suốt của học thuyết đó là cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô sản. Phương hướng phát triển của cách mạng là “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để tiến tới xã hội cộng sản”.

Đối tượng của cuộc cách mạng là bọn thực dân Pháp xâm lược cùng với tay sai của chúng. Bản án chế độ thực dân Pháp là tiếng nói đanh thép, vạch mặt kẻ thù của các dân tộc bị áp bức.

Mục tiêu của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, là độc lập cho Tổ quốc, tự do cho đồng bào. Hồ Chí Minh nhận thức rõ ràng, đối với nước thuộc địa như Việt Nam, nếu không giành được độc lập, tự do thì sẽ không có gì hết.

Lực lượng của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc là toàn dân tộc, đoàn kết chặt chẽ, tập hợp trong Mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi, lấy liên minh công nông làm nền tảng do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Cách mạng thuộc địa phải sát cánh, liên minh với cách mạng vô sản ở chính quốc.

Cách mạng giải phóng dân tộc phải được nhận thức và giải quyết trên nền tảng lý luận chủ nghĩa Mác – Lê nin. Cách mạng phải do Đảng Cộng sản theo chủ nghĩa Mác – Lê nin lãnh đạo. Đó là Đảng của giai cấp công nhân, đồng thời là Đảng của dân tộc Việt Nam, một Đảng chân chính cách mạng, “ngoài lợi ích của dân tộc, của Tổ quốc, thì Đảng không có lợi ích gì khác”. Vai trò của Đảng, trong thì giác ngộ, vận động, giáo dục, tập hợp dân chúng và đưa họ ra đấu tranh cách mạng; ngoài thì liên lạc với các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản mọi nơi. Đảng có vững cách mạng mới thành công cũng như người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy. Đảng phải thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, lấy tự phê bình và phê bình làm quy luật phát triển Đảng. Đảng phải đi đúng đường lối quần chúng, trọng dân, tin dân, hiểu dân, học dân, chống quan liêu, mệnh lệnh…

Học thuyết cách mạng giải phóng dân tộc được truyền vào Việt Nam, thấm sâu vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước, dẫn tới sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đầu năm 1930, tạo ra bước ngoặt quan trọng cho cách mạng Việt Nam. Từ đây, cách mạng Việt Nam chấm dứt sự khủng hoảng, bế tắc về đường lối lãnh đạo, Hồ Chí Minh hoàn thành sứ mệnh mở đường.

Người dẫn đường cho sự nghiệp giành độc lập, tự do

Từ năm 1930, cách mạng Việt Nam tiến triển dưới ánh sáng Cương lĩnh đầu tiên của Đảng. Đặc biệt từ năm 1941 trở đi, sau khi trở về Tổ quốc, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã cùng Đảng ta dẫn dắt cả dân tộc đi tới bến bờ độc lập, tự do.

Với sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam mới được hình thành về cơ bản. Nhưng với nhiều lý do khác nhau, trong đó có sự hiểu biết chưa thấu đáo của một bộ phận trong Quốc tế Cộng sản, nên Hồ Chí Minh trong khoảng 7 năm, từ tháng 6/1931 đến tháng 6/1938, trong “tình trạng không hoạt động và giống như là sống ở bên cạnh, ở bên ngoài của Đảng…” (1).

Từ khi về Tổ quốc, Người có điều kiện triển khai và thực thi kịp thời tư tưởng của mình. Ngay sau khi về nước, Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập và chủ trì Hội nghị 8 Trung ương Đảng (tháng 5/1941). Tại Hội nghị này, học thuyết giải phóng dân tộc của Người được Hội nghị nhất trí cao. Hội nghị quyết định thay đổi chiến lược, chỉ tập trung giải quyết một vấn đề cần kíp là dân tộc giải phóng. Chủ trương làm cách mạng giải phóng dân tộc, tạm thời gác lại vấn đề giai cấp đấu tranh để giải quyết sau và thành lập chính quyền cách mạng của chung cả toàn dân tộc, không phải thuộc quyền riêng của một giai cấp nào là một tư duy phát triển khoa học và có ý nghĩa cách mạng của tư tưởng Nguyễn Ái Quốc. Nhờ đó cả dân tộc đã quy tụ dưới ngọn cờ đại đoàn kết dân tộc của Mặt trận Việt Minh, làm nên thắng lợi nhanh chóng và rất ít đổ máu của Cách mạng Tháng Tám 1945 .

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, Tuyên ngôn độc lập đã tuyên bố với thế giới nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và thật sự đã thành một nước tự do độc lập. Từ đây, dân tộc Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới độc lập, tự do.

Thiết kế tương lai: triết lý phát triển bền vững Việt Nam

Sau khi đất nước được độc lập, Hồ Chí Minh trăn trở với hạnh phúc, tự do của nhân dân và sự phát triển của đất nước. Người chỉ ra rằng, “nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Muốn có tự do, hạnh phúc phải xây dựng CNXH. Theo Người, mục đích chỉ có một là CNXH, nhưng con đường để đạt mục đích thì có nhiều và phải biết vận dụng và phát triển sáng tạo. “Từ cộng sản nguyên thủy đến chế độ nô lệ, đến chế độ phong kiến, đến chế độ tư bản, đến chủ nghĩa xã hội (cộng sản) – nói chung thì loài người phát triển theo quy luật nhất định như vậy. Nhưng tùy hoàn cảnh, mà các dân tộc phát triển theo con đường khác nhau”(2). Người viết: “ta có thể đi con đường khác để tiến lên chủ nghĩa xã hội”(3). Đối với Việt Nam đó là con đường qua chế độ dân chủ mới, tức là sự phát triển của Việt Nam trải qua 3 giai đoạn: giải phóng dân tộc – dân chủ nhân dân – chủ nghĩa xã hội. Người luôn hướng tới mục đích “ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học thành”. Người dặn: “Làm cho người nghèo thì đủ ăn/Người đủ ăn thì khá giàu/ Người khá giàu thì giàu thêm/Người nào cũng biết chữ,/ Người nào cũng biết đoàn kết, yêu nước”(4). Cách làm là “đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân”. Người chăm lo xây dựng một xã hội học tập suốt đời, bởi vì “một dân tộc dốt là một dân tộc yếu; dốt thì dại, dại thì hèn”. “Trồng người” là chiến lược số một và xuyên suốt trong tư tưởng Hồ Chí Minh theo tinh thần “vì lợi ích trăm năm phải trồng người”. Người quan tâm xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, thật sự của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Theo Người “Chính phủ là công bộc của dân” và mọi hoạt động của Chính phủ phải “sao cho được lòng dân”.

Sự phát triển bền vững của đất nước phải do Đảng lãnh đạo. Đảng ta là Đảng cầm quyền, lãnh đạo xã hội, lãnh đạo Nhà nước. Hồ Chí Minh quan tâm tới văn hóa cầm quyền của Đảng, trong đó quan trọng nhất là đề ra được đường lối đúng đắn, khoa học, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam, từ nguyện vọng lòng dân, gắn liền với xu thế thời đại vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê nin. Đó là một Đảng biết trọng dân, tin dân, hiểu dân, học dân, gần dân; chăm lo dân quyền, dân sinh, dân trí dân chủ, dân vận; trọng dụng nhân tài. Đảng không giấu giếm khuyết điểm, dám tự phê bình và phê bình, dám nhận trách nhiệm trước dân. Đảng hoạt động trong khung khổ hiến pháp và pháp luật, không có ngoại lệ. Tóm lại, đó là một Đảng chân chính cách mạng, đạo đức và văn minh, không phải là một tổ chức làm quan phát tài. Ngoài lợi ích của dân tộc và Tổ quốc, Đảng không có lợi ích gì khác.

Trước lúc đi xa, Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại một văn kiện lịch sử vô giá: đó là bản Di chúc được coi như một Cương lĩnh xây dựng đất nước sau chiến tranh. Người kỳ vọng về một đất nước “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”. “Còn non, còn nước, còn người/Thắng giặc Mỹ ta sẽ xây dựng hơn mười ngày nay”. Người dặn dò Đảng phải không ngừng chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.

Di sản Hồ Chí Minh là bức tranh về một xã hội tương lai. Đó là triết lý phát triển bền vững Việt Nam theo tiêu chí của Liên hợp quốc trong Chương trình nghị sự XXI: 1)Xóa bỏ tình trạng nghèo cùng cực; 2) Đạt phổ cập giáo dục tiểu học; 3) Tăng cường bình đẳng nam nữ và nâng cao vị thế cho phụ nữ; 4) Giảm tỷ lệ tử vong ở trẻ em; 5) Tăng cường sức khỏe bà mẹ; 6) Phòng chống sốt rét và các bệnh khác; 7) Bảo đảm bền vững môi trường; 8) Thiết lập quan hệ đối tác toàn cầu vì phát triển(5).

Ông Hans D’orville, Phó Tổng Giám đốc UNESCO khẳng định trong buổi mít tinh ở Đại sứ quán Việt Nam tại Pari, ngày 14/5/2010: “Chúng ta phải công nhận rằng thông điệp của Hồ Chí Minh mang giá trị toàn cầu, và nó luôn có giá trị thời đại, bởi vì nó hướng tới tương lai”(6)./.

Chú thích:

(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.3, tr.90.
(2) Sđd, t.7, tr.247.
(3) Sđd, t.8, tr.227.
(4) Sđd, t.5, tr.65.
(5) Chương trình này còn gọi là Tuyên bố Thiên niên kỷ, được 189 vị đứng đầu Nhà nước và Chính phủ các quốc gia thành viên Liên hợp quốc cam kết thực hiện, tháng 9/2000.
(6) Han D’orville: Tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn giữ nguyên giá trị thời đại, www.tuanvietnam.net, ngày 20/5/2010.

GS.TS Bùi Đình Phong (Học viện Chính trị – Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh)

dangcongsan.vn

Những luận điểm sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và thuộc địa

(ĐCSVN) Ngày 5/6/1911, Hồ Chí Minh rời Bến cảng Nhà Rồng ra đi tìm đường cứu nước. Gần 30 năm sau, vào ngày 28/1/1941, Người mới có điều kiện trở về Tổ quốc để trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Nhìn lại chặng đường 30 năm ấy, Người đã mất gần 10 năm để tìm lời giải cho bài toán khó lúc bấy giờ là làm thế nào để giải phóng Tổ quốc và nhân dân thoát ách nô lệ của thực dân Pháp, nước nhà được độc lập, nhân dân được tự do hạnh phúc.

Ở thời điểm ấy, những người yêu nước Việt Nam như các cụ: Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu v.v.. đều đã ra sức tìm chủ thuyết và con đường giải phóng dân tộc nhưng đều bế tắc và thất bại. Sau nhiều năm bôn ba nhiều nước ở châu Âu, châu Mỹ, châu Phi, Nguyễn Tất Thành đã phần nào thấy được bản chất của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa thực dân. Chính vì vậy, khi gặp Luận cương của Lênin về các vấn đề dân tộc và thuộc địa đăng trên báo L’Humanité, người càng tâm đắc và khẳng định thêm nhận thức của mình về con đường cứu nước và giải phóng dân tộc. Sự kiện Nguyễn Ái Quốc gặp Luận cương của Lênin có thể coi là một dấu ấn, một mốc quan trọng trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Người. Chính vì vậy, năm 1960, trong bài “Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lênin”, viết nhân dịp kỷ niệm 90 năm ngày sinh Lênin, Người đã thổ lộ: “Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên, như đang nói trước quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!”[1].

Nguyễn Ái Quốc tại Đại hội lần thứ XVIII của
Đảng Xã hội Pháp ở Tua, tháng 12/1920 (ảnh tư liệu)

Đúng như lời Người nói sau này rằng, trong Luận cương có những chữ chính trị khó hiểu nhưng đọc đi đọc lại nhiều lần cuối cùng cũng hiểu được ý chính.
Điều tâm đắc đầu tiên khi Người đọc Luận cương của Lênin chính là đã tìm thấy lời giải đáp về khẩu hiệu TỰ DO – BÌNH ĐẲNG – BÁC ÁI.

Qua nhiều tài liệu, chúng ta đều biết rằng “Từ độ tuổi 13, lần đầu tiên Nguyễn Tất Thành nghe ba chữ Pháp TỰ DO – BÌNH ĐẲNG – BÁC ÁI”. Và từ thuở ấy, tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn giấu đằng sau những chữ ấy…”[2].

Từ ngày rời Tổ quốc, Nguyễn Tất Thành đã đi qua Pháp, nhiều nước châu Phi ven biển Đại Tây Dương, Ấn Độ Dương, đã từng sống ở Mỹ, ở Anh. Người đã chứng kiến tình hình thực tế của xã hội tư bản:

“Ở Pháp cũng có người nghèo như bên ta!”

“Mỹ tuy rằng cách mệnh thành công đã hơn 150 năm nay, nhưng công nông vẫn cứ cực khổ”.

Đọc Luận cương của Lênin, Nguyễn Ái Quốc càng hiểu sâu hơn “những gì ẩn giấu đằng sau những từ ấy”. Lênin viết:

“Chế độ dân chủ tư sản, do bản chất của nó, vốn có cái lối đặt vấn đề một cách trừu tượng hoặc hình thức về quyền bình đẳng nói chung, trong đó bao gồm cả quyền dân tộc bình đẳng. Nấp dưới quyền bình đẳng của cá nhân nói chung, chế độ dân chủ tư sản tuyên bố quyền bình đẳng hình thức hoặc quyền bình đẳng trên pháp luật giữa kẻ hữu sản và người vô sản, giữa kẻ bóc lột và người bị bóc lột; do đó làm cho những giai cấp bị áp bức bị lừa dối một cách ghê gớm”[3].

Đúng là một khẩu hiệu mỹ miều nhưng đằng sau đó ẩn giấu một sự lừa bịp, xã hội tư bản đâu đã là tốt đẹp.

Điều tâm đắc thứ hai Người tìm thấy từ các tác phẩm của Lênin chính là tầm quan trọng của cách mạng thuộc địa, mối quan hệ giữa cách mạng chính quốc với các nước thuộc địa. Lênin cho rằng nếu không có sự giúp đỡ của quần chúng nhân dân và các dân tộc thuộc địa, trước hết là của các dân tộc phương Đông thì giai cấp vô sản ở các nước tiên tiến trên thế giới khó giành thắng lợi. Trên phạm vi toàn cầu chủ nghĩa tư bản chỉ sụp đổ khi nào cuộc tấn công cách mạng của hàng trăm triệu người bị áp bức ở thuộc địa hòa với cuộc tấn công của công nhân bị bóc lột ở những nước đó.

Tiếp thu tư tưởng này của Lênin về mối quan hệ giữa cách mạng chính quốc và cách mạng thuộc địa, trong tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã viết:

“Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa có một cái vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc và một cái vòi khác bám vào giai cấp vô sản ở thuộc địa. Nếu muốn giết con vật ấy, người ta phải đồng thời cắt cả hai vòi”[4].

Người chỉ rõ “Làm cho các dân tộc thuộc địa, từ trước đến nay vẫn cách biệt nhau, hiểu biết nhau hơn và đoàn kết lại để đặt cơ sở cho một Liên minh phương Đông tương lai, khối liên minh này sẽ là một trong những cái cánh của cách mạng vô sản”[5].

Trên cơ sở của tư tưởng đó, ngay từ khi hoạt động trên đất Pháp, Người đã cùng một số nhân vật đại biểu cho các thuộc địa của Pháp thành lập Hội Liên hiệp thuộc địa, một hình thức mặt trận liên kết các dân tộc bị chủ nghĩa thực dân Pháp thống trị nhằm liên minh với giai cấp vô sản chính quốc cùng đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân.

Điều tâm đắc thứ ba chính là hướng đi của cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa mà Luận cương của Lênin đã vạch ra đó là đi theo con đường xã hội chủ nghĩa. Lênin viết:

“Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa sẽ không phải chỉ là và chủ yếu là một cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản ở từng nước chống lại giai cấp tư sản ở nước mình; không phải thế, đó sẽ còn là cuộc đấu tranh của tất cả các nước thuộc địa và tất cả những nước bị chủ nghĩa đế quốc áp bức, của tất cả các nước phụ thuộc chống lại chủ nghĩa đế quốc quốc tế”.

Từ đó Người kêu gọi: “Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại!”.

Từ tư tưởng đó Lênin kêu gọi các đảng cộng sản các nước phải tiếp tục ủng hộ phong trào cách mạng của các nước thuộc địa và các dân tộc phụ thuộc, sự ủng hộ đó là “điều kiện đặc biệt quan trọng” để cuộc đấu tranh của các thuộc địa chống áp bức giành thắng lợi. Đồng thời, Lênin cũng khuyên các dân tộc ở phương Đông phải liên hệ trực tiếp với cuộc đấu tranh của nước Cộng hòa Xô viết Nga chống chủ nghĩa đế quốc quốc tế thì mới phát triển thành công, mới giành được thắng lợi.

Sự lựa chọn của Nguyễn Ái Quốc đi theo con đường của Lênin – con đường giải phóng chúng ta đã được thực tiễn chứng minh là đúng đắn nhưng không đơn giản. Bởi lẽ ở thời điểm ấy, bên cạnh những tư tưởng đúng còn tồn tại một số luận điểm… của Roi, của Prêôbraginxki, của Marinh hơi trái với những luận điểm của Lênin. Roi không tán thành luận điểm các Đảng cộng sản phải giúp đỡ phong trào giải phóng dân tộc tư sản ở phương Đông; Prêôbraginxki coi thường vai trò cách mạng của các nước thuộc địa: “Việc phóng đại ý nghĩa cách mạng của các khởi nghĩa các nước thuộc địa là không đúng”. V.v..

Chí ít, sự tiếp thu của Nguyễn Ái Quốc về các luận điểm quan trọng trên đây đã phác thảo con đường giải phóng dân tộc của đất nước ta!

Song, cuộc đấu tranh giải phóng các dân tộc thuộc địa thoát khỏi ách áp bức bóc lột của chủ nghĩa thực dân diễn ra như thế nào vẫn còn là dấu hỏi lớn, một bài toán đòi hỏi các nhà cách mạng giải đáp. Vấn đề này, ngay các nhà kinh điển Mácxít cũng trả lời rất thận trọng.

Tháng 9 năm 1882, trả lời Caoxki về cuộc cách mạng giải phóng dân tộc của một số nước đang bị nước ngoài chiếm đoạt, Ăngghen nói:

“Theo ý kiến tôi, đích thực là các thuộc địa, tức là những đất đai mà dân châu Âu chiếm đoạt – Canađa, tỉnh Cap, Ôxtơralya, tất cả sẽ được độc lập; trái lại chỉ những đất đai phụ thuộc do người bản địa chiếm giữ, Ấn Độ, Angiêri, các đất của Hà Lan, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha chiếm đoạt, giai cấp vô sản phải học lấy một thời gian và hết sức nhanh chóng tiến tới độc lập. Quá trình này triển khai chính như thế nào, thật khó nói!”[6].

Tháng 11 năm 1921, trong buổi Lênin tiếp Đoàn đại biểu Mông Cổ tại Điện Kremli, khi Xukhêbatô hỏi Người rằng “Cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc liệu có sẽ giành được thắng lợi không?” thì Lênin trả lời rằng:

“Bản than tôi đã tham gia phong trào cách mạng 30 năm và qua kinh nghiệm bản thân, tôi biết rõ rằng đối với bất cứ dân tộc nào thì việc giải phóng mình khỏi những kẻ nô dịch trong nước và ngoài nước cũng là một công việc khó khăn”[7].

Người cũng dự đoán rằng những cuộc cách mạng sau này trong những nước phương Đông chắc chắn là sẽ “có nhiều điểm độc đáo hơn cuộc cách mạng Nga”.

* * *

Tiếp thu và quán triệt tư tưởng của Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã sớm xác định hướng đi cho cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. Ngay từ Đại hội Tours của Đảng Xã hội Pháp, họp vào cuối năm 1920, Người đã nói: “Đảng phải tuyên truyền chủ nghĩa xã hội trong các nước thuộc địa”.

Câu nói ấy không phải là một lời kêu gọi chung chung, mà là dựa trên sự phân tích hoàn cảnh chính trị xã hội của các nước thuộc địa. Sau Đại hội Tours không lâu, tháng 5 năm 1921, trong bài nhan đề Đông Dương đăng trên La Revue Communiste, Nguyễn Ái Quốc đã đặt ra câu hỏi: Chế độ cộng sản có áp dụng được ở châu Á nói chung và ở Đông Dương nói riêng không? Qua sự phân tích về điều kiện địa lý và lịch sử, Người nhận định rằng: “Chủ nghĩa cộng sản thâm nhập vào châu Á dễ dàng hơn là ở châu Âu”.

Việc định hướng cho một cuộc cách mạng là rất quan trọng. Đó là kết quả của cả một quá trình nghiên cứu lý luận và quan sát thực tế từ các cuộc cách mạng Pháp, Mỹ, Anh, Thổ Nhĩ Kỳ v.v.. Nhưng phương hướng ấy có trở thành hiện thực hay không đã đặt ra những vấn đề mới để Nguyễn Ái Quốc và các nhà cách mạng ở các nước thuộc địa tiếp tục giải quyết. Nói cách khác, phải có những tìm tòi mới bổ sung cho những vấn đề lý luận mà Ăngghen và Lênin chưa đề cập tới.

Trước đây, Mác, Ăngghen, Lênin cũng đã từng giải quyết vấn đề điều kiện thành công của cách mạng vô sản. Mác cho rằng một trong những điều kiện để cách mạng vô sản thắng lợi là cuộc cách mạng đó phải nổ ra cùng một lúc ở nhiều nước. Lênin trong hoàn cảnh và điều kiện lịch sử mới, đã phân tích sự phát triển không đều của chủ nghĩa đế quốc và khẳng định rằng cách mạng vô sản có thể bùng nổ và thành công trong một nước, nước đó là khâu yếu nhất của chủ nghĩa đế quốc.

Đối với cách mạng giải phóng nhân dân Việt Nam khỏi ách thực dân, Nguyễn Ái Quốc cũng phải làm tròn nhiệm vụ của một nhà tư tưởng, nhà lý luận, tức là phải “đi trước phong trào tự phát và chỉ đường cho nó” như Lênin đã xác định.

Thấm nhuần quan điểm của Lênin về mối quan hệ gắn bó giữa cách mạng giải phóng thuộc địa với cách mạng vô sản ở chính quốc, nhưng phải chăng đó là mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau, chính quốc thắng thì thuộc địa mới thắng, lúc bấy giờ một số nhà lãnh đạo Đảng ở một số nước chính quốc nghĩ như thế.

Nguyễn Ái Quốc cho rằng, cách mạng giải phóng thuộc địa có thể thành công trước cách mạng vô sản ở chính quốc. Từ năm 1921, Người đã viết:

“Ngày mà hàng trăm triệu nhân dân châu Á bị tàn sát và áp bức thức tỉnh để gạt bỏ sự bóc lột đê tiện của một bọn thực dân lòng tham không đáy, họ sẽ hình thành một lực lượng khổng lồ và qua việc thủ tiêu một trong những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, sẽ có thể giúp cho những người anh em của họ ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn”[8].

Người còn nêu rõ: Những người cách mạng ở thuộc địa cần chủ động tạo ra thời cơ: “Bộ phận ưu tú có nhiệm vụ phải thúc đẩy cho thời cơ đó mau đến!”[9].

Luận điểm đó của Người xác định rõ sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam không thể ngồi chờ, không ỷ lại vào cách mạng ở “chính quốc”.

Luận điểm này đến năm 1924 được nâng lên một tầm mới: đó là cách mạng ở thuộc địa cần phải tiến hành trước cách mạng giải phóng giai cấp ở chính quốc. Luận điểm đó được Người phát biểu tại Đại hội lần thứ V Quốc tế Cộng sản:

“Vận mệnh của giai cấp vô sản thế giới phụ thuộc phần lớn vào các thuộc địa, nơi cung cấp lương thực và binh lính cho các nước lớn đế quốc chủ nghĩa. Nếu chúng ta muốn đánh bại các nước này thì trước hết phải tước hết thuộc địa của chúng đi”[10].

Tại Đại hội lần thứ V Quốc tế Cộng sản khi nghe một số ý kiến coi trọng cách mạng vô sản ở chính quốc hơn thuộc địa, Nguyễn Ái Quốc đã thẳng thắn nêu ý kiến của mình:

“Các đồng chí thứ lỗi về sự mạnh bạo của tôi, nhưng tôi không thể không nói với các đồng chí rằng, sau khi nghe những lời phát biểu của các đồng chí ở chính quốc, tôi có cảm tưởng là các đồng chí ấy muốn đánh chết rắn đằng đuôi. Tất cả các đồng chí đều biết rằng hiện nay nọc độc và sức sống của con rắn độc tư bản chủ nghĩa đang tập trung ở các thuộc địa hơn là ở chính quốc. Các thuộc địa cung cấp nguyên liệu cho các nhà máy; các thuộc địa cung cấp binh lính cho quân đội của chủ nghĩa đế quốc. Các thuộc địa trở thành nền tảng của lực lượng phản cách mạng. Thế mà các đồng chí khi nói về cách mạng các đồng chí lại khinh thường thuộc địa”[11].

Những luận điểm trên đây của Nguyễn Ái Quốc nói lên tính chủ động, tích cực của phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa. Luận điểm đó rõ ràng là khác với quan điểm của một số đông lúc bấy giờ cho rằng cách mạng ở thuộc địa chỉ được giải quyết sau khi giai cấp vô sản ở “chính quốc” giành được chính quyền.

* * *

Một vấn đề lớn trong lý luận về cách mạng giải phóng thuộc địa là vấn đề động lực cách mạng, tức là vấn đề dựa vào lực lượng nào để tiến hành cách mạng.

Về điểm này trong Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa, Lênin nhấn mạnh sự ủng hộ trực tiếp của tất cả các đảng cộng sản:

“Nếu không có điều kiện đặc biệt quan trọng là sự ủng hộ trực tiếp của tất cả các đảng cộng sản thì cuộc đấu tranh của dân tộc phụ thuộc và của các thuộc địa chống áp bức, cũng như việc thừa nhận quyền phân lập của họ, chỉ là những chiêu bài dối trá như vẫn thường thấy trong các Đảng của Quốc tế 2”[12].

Nguyễn Ái Quốc lại nhấn mạnh động lực cách mạng chính là phải dựa vào sức minh để giải phóng mình.

Trong Tuyên ngôn của Hội Liên hiệp thuộc địa do Nguyễn Ái Quốc dự thảo đã nêu rõ:

“Anh em phải làm thế nào để được giải phóng?

Vận dụng công thức của Các Mác, chúng tôi xin nói với anh em rằng, công cuộc giải phóng anh em chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em”[13].

Thực tiễn giúp chúng ta nhận rõ rằng Cách mạng Tháng Mười Nga đã giúp đỡ các dân tộc khác thoát khỏi ách thống trị của Nga hoàng là chứng minh cho những điều Lênin đã nói về sự giúp đỡ của giai cấp vô sản “chính quốc” có vai trò quan trọng đối với nhân dân thuộc địa; thì Cách mạng tháng Tám ở Việt Nam chứng minh luận điểm sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc là đúng, Việt Nam làm cách mạng trước nước Pháp “chính quốc”, hoàn toàn dựa vào sức mình và đã thành công.

Cũng cần nói thêm rằng, Nguyễn Ái Quốc nhìn rõ tiềm năng cách mạng to lớn của nhân dân các nước thuộc địa, cụ thể là Đông Dương nhưng Người không đánh giá quá cao và chủ quan một chiều về năng lực ấy. Người đã phê phán, cảnh báo về những sai lầm trong đánh giá đó:

“Nói rằng Đông Dương gồm 20 triệu người bị bóc lột hiện nay đã chín muồi cho một cuộc cách mạng là sai; nhưng nói rằng Đông Dương không muốn cách mạng và bằng lòng với chế độ bây giờ như các ông chủ của chúng ta vẫn thường nghĩ, như thế lại càng sai hơn nữa”[14].

Cách mạng giải phóng thuộc địa phải dựa vào sức mình là chính nhưng đương nhiên phải có những điều kiện khác nữa như tổ chức hạt nhân lãnh đạo cách mạng, quân đội cách mạng, các tổ chức quần chúng, thời cơ thuận lợi và chắc thắng cho cách mạng, vấn đề đoàn kết quốc tế…

Những luận điểm của Nguyễn Ái Quốc trên đây rõ ràng có vai trò rất to lớn trong tổ chức và chỉ đạo phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam.

Thực tiễn đã chứng minh những luận điểm đó là hoàn toàn đúng đắn.

[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, t.10, tr.127.
[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, xuất bản lần thứ 3, t.1, tr.461.
[3] Lênin Toàn tập, Bản tiếng Việt, Nxb. Tiến bộ, M, t.4, tr.198.
[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, xuất bản lần thứ 3, t.2, tr.130.
[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, xuất bản lần thứ 3, t.2, tr.134.
[6] Thư gửi Caoxki, 12-9-1892.
[7] Lênin Toàn tập, Bản tiếng Việt, Nxb. Tiến bộ, M, t.5, tr.288-288.
[8] Hồ Chí Minh: Toàn tập, xuất bản lần thứ 3, t.1, tr.48.
[9] Hồ Chí Minh: Toàn tập, xuất bản lần thứ 3, t.1, tr.40.
[10] Tạp chí La Correspondance internationnale, số 41, 1924.
[11] Hồ Chí Minh: Toàn tập, xuất bản lần thứ 3, t.1, tr.295-296.
[12] Trích Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa.
[13] Hồ Chí Minh: Toàn tập, xuất bản lần thứ 3, t.2, tr.138.
[14] Hồ Chí Minh: Toàn tập, xuất bản lần thứ 3, t.1, tr.39.

Nguyễn Huy Hoan (Nguyên Phó Giám đốc Bảo tàng Hồ Chí Minh)

dangcongsan.vn

Bối cảnh quốc tế và trong nước khi Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước

(ĐCSVN) – Đầu thế kỷ XX, cách mạng Việt Nam diễn ra cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước, về giai cấp lãnh đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc. Vượt qua sự hạn chế của điều kiện lịch sử xã hội Việt Nam lúc đó, vượt lên những hạn chế của các sĩ phu yêu nước đương thời, bằng thiên tài trí tuệ và bằng hoạt động thực tiễn của mình, Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đã đáp ứng kịp thời đòi hỏi bức thiết đó, đã tìm ra giải pháp mới cho sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam.  

Vào giữa thế kỷ thứ XIX, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã thống trị ở Anh, Pháp, Đức và một số nước khác ở Tây Âu. Ở các nước này, giai cấp tư sản tăng cường áp bức, bóc lột giai cấp công nhân. Và cũng tại đây, phong trào công nhân phát triển từ “tự phát” đến “tự giác”, mâu thuẫn cơ bản giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản trở nên gay gắt. Cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân đối với chủ nghĩa tư bản đòi hỏi phải có lý luận tiên phong dẫn đường. Để đáp ứng đòi hỏi đó, chủ nghĩa Mác ra đời với Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản. Lý luận của chủ nghĩa Mác khẳng định sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân là lật đổ chế độ tư bản chủ nghĩa, xây dựng xã hội mới, xã hội cộng sản chủ nghĩa.

Đến cuối thế kỷ thứ XIX, chủ nghĩa tư bản thế giới chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Các nước đế quốc tranh giành nhau xâm chiếm thuộc địa và đã căn bản hoàn thành việc phân chia thế giới, áp đặt ách thống trị thực dân ở khắp các nước Á, Phi và Mỹ Latinh. Thế giới bị chia cắt làm hai: một khu vực gồm các nước tư bản, có nền công nghiệp phát triển, thường được gọi là phương Tây, còn khu vực còn lại gồm các nước thuộc địa và phụ thuộc, nền kinh tế còn lạc hậu, thường được gọi là phương Đông. Vấn đề đặt ra cho các nước thuộc địa và phụ thuộc là làm thế nào để được giải phóng. Thế giới hình thành mâu thuẫn mới:mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa đế quốc, thực dân. Nó trở thành điều kiện khách quan cho phép phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa gắn bó với phong trào cách mạng quốc tế, đặc biệt là với phong trào cách mạng của giai cấp công nhân ở các nước tư bản.

Nguyễn Ái Quốc tại Đại hội lần thứ XVIII của Đảng Xã hội Pháp ở Tua (Tour),
tháng 12 – 1920

Sang đầu thế kỷ XX, nhiều sự kiện lịch sử diễn ra dồn dập, báo trước sự chuyển biến của tình hình quốc tế. Cuộc xung đột, tranh giành quyền lợi giữa các nước đế quốc đã dẫn đến cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 – 1918), làm cho các mâu thuẫn vốn có của chủ nghĩa đế quốc trở nên gay gắt. Cùng với phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân ở các nước đế quốc, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và phụ thuộc bùng lên mạnh mẽ, điển hình là Trung Quốc, Ấn Độ, Iran, Thổ Nhĩ Kỳ, Ápganixtan, Inđônêxia, v.v… Bão táp cách mạng với “phương Đông thức tỉnh” là nét đặc sắc của tình hình quốc tế trong giai đoạn này.

Trong bối cảnh lịch sử ấy, Lênin đã phân tích tình hình cụ thể, tiếp tục phát triển chủ nghĩa Mác trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, đề ra lý luận cách mạng vô sản có thể thành công ở một số nước, thậm chí trong một nước tư bản phát triển trung bình; đồng thời nêu lên nguyên lý về cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa, về sự đoàn kết giữa giai cấp công nhân ở các nước tư bản và các dân tộc ở các nước thuộc địa trong cuộc đấu tranh chung chống chủ nghĩa đế quốc, thực dân. Thực tiễn chứng minh lý luận của Lênin là đúng với thắng lợi của cuộc Cách mang Tháng Mười năm 1917 dưới sự lãnh đạo của Đảng Bônsêvích Nga. Thắng lợi đó là nguồn cổ vũ lớn lao đối với cách mạng thế giới, nhất là cách mạng ở thuộc địa. Năm 1919, Lênin cùng các nhà cách mạng chân chính ở các nước thành lập Quốc tế Cộng sản – một tổ chức quốc tế của phong trào cách mạng thế giới. Quốc tế Cộng sản ra đời đánh dấu bước phát triển mới về chất của phong trào cách mạng vô sản và phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc trên phạm vi thế giới.

Trong bối cảnh chung của tình hình quốc tế, Việt Nam cũng bị chi phối bởi những điều kiện lịch sử đó. Việt Nam là một quốc gia hình thành sớm. Ý thức quốc gia, dân tộc, làm chủ đất nước của cộng đồng người Việt có từ ngàn xưa. Cuộc đấu tranh chống thiên tai và giặc ngoại xâm trong hàng ngàn năm lịch sử đã hun đúc cho dân tộc Việt Nam những truyền thống tốt đẹp: yêu nước nồng nàn, độc lập tự chủ, kiên cường bất khuất, đoàn kết thống nhất… Dân tộc Việt Nam không ngừng giữ gìn và phát huy những truyền thống tốt đẹp đó.

Vào giữa thế kỷ thứ XIX, đế quốc Pháp nổ súng đánh chiếm nước ta, giữa lúc chế độ phong kiến Việt Nam đang trên đà suy tàn, mâu thuẫn giữa giai cấp nông dân với giai cấp địa chủ phong kiến trở nên gay gắt. Trước hành động xâm lược của đế quốc Pháp, chế độ phong kiến mà đại biểu là triều đình nhà Nguyễn đã chọn con đường quỳ gối đầu hàng, dâng nước ta cho Pháp. Chế độ phong kiến Việt Nam trước đây đại biểu cho dân tộc, đến nay bộc lộ rõ sự thối nát, bất lực và phản động. Mặc dù vậy, ngay từ khi đế quốc Pháp xâm lược nước ta, các phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân ta với truyền thống kiên cường bất khuất đã liên tiếp nổ ra khắp Bắc, Trung, Nam. Cuộc chiến đấu vô cùng anh dũng của nhân dân ta đã gây cho bọn xâm lược rất nhiều khó khăn, thiệt hại. Phải mất một phần ba thế kỷ, đế quốc Pháp mới đặt được ách thống trị lên đất nước ta. Tuy nhiên, các cuộc kháng chiến anh dũng đó đều không thành công, đều bị dập tắt trong máu lửa. Năm 1885, phong trào Cần Vương dưới sự lãnh đạo của các sĩ phu yêu nước phát triển rầm rộ, nhưng cũng chỉ kéo dài được đến năm 1896. Tuy các sĩ phu giàu lòng yêu nước, nhưng không có khả năng vạch ra được giải pháp mới phù hợp với hoàn cảnh lịch sử và xu thế phát triển của thời đại. Đến cuối thế kỷ thứ XIX, các phong trào yêu nước chống Pháp đều bị thất bại. Bởi kẻ thù mới này có tiềm lực kinh tế, có đội quân xâm lược nhà nghề với ưu thế về vũ khí, kỹ thuật và phương tiện chiến tranh. Nhận định phong trào chống Pháp của nhân dân ta thời kỳ này, Chủ tịch Hồ Chí Minh sau này có viết: “Cuối thế kỷ XIX chủ nghĩa đế quốc Pháp xâm lược Việt Nam. Bọn vua quan và phong kiến đê tiện và hèn nhát đầu hàng và câu kết với bọn đế quốc để tiếp tục nô dịch nhân dân Việt Nam nhiều hơn, khiến nhân dân Việt Nam khổ cực không kể xiết. Nhưng đại bác của bọn đế quốc không thể át tiếng nói yêu nước của nhân dân Việt Nam…Phong trào cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam không ngừng phát triển, kẻ trước ngã, người sau đứng dậy. Nhưng tất cả những cuộc khởi nghĩa yêu nước ấy đã bị dìm trong máu. Những đám mây đen lại bao phủ đất nước Việt Nam”1.

Sang đầu thế kỷ XX, sau khi đã cơ bản hoàn thành giai đoạn vũ trang xâm lược nước ta, đế quốc Pháp tiến hành kế hoạch “khai thác thuộc địa”, nhằm bóc lột, vơ vét sức người, sức của ở Việt Nam. Dưới chế độ khai thác, bóc lột và thống trị của đế quốc Pháp, xã hội Việt Nam có nhiều thay đổi quan trọng:

Về kinh tế, để thu được lợi nhuận tối đa, đế quốc Pháp thi hành chính sách kinh tế thực dân rất bảo thủ và phản động, đó là duy trì phương thức sản xuất phong kiến kết hợp với việc thiết lập một cách hạn chế phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa dưới hình thức thực dân được du nhập vào Việt Nam. Thực hiện chính sách trên, đế quốc Pháp thực hành thủ đoạn độc quyền kinh tế và thủ đoạn bóc lột phi kinh tế, đó là chế độ thuế khóa vô cùng nặng nề và hết sức vô lý. Chính sách kinh tế trên của Pháp đã tước hết khả năng phát triển độc lập của nền kinh tế Việt Nam, làm cho nó ở trong tình trang lạc hậu, phải hoàn toàn phụ thuộc vào kinh tế Pháp. Nhân dân Việt Nam bị bần cùng hóa, nông dân, thợ thủ công phá sản, ngày càng nghèo đói.

Bến cảng Nhà Rồng hôm nay

Về chính trị, đế quốc Pháp thực hành chính sách chính trị chuyên chế. Chúng dùng lối cai trị trực tiếp bằng bộ máy công chức chuyên nghiệp người Pháp, thâu tóm mọi quyền hành. Đứng đầu bộ máy cai trị ở Đông Dương là một tên toàn quyền người Pháp. Mỗi kỳ có một Thống đốc, hoặc Thống sứ, Khâm sứ. Mỗi tỉnh có một Công sứ. Triều đình nhà Nguyễn chỉ đóng vai trò bù nhìn. Với bộ máy nhà nước thuộc địa như vậy, chúng thẳng tay đàn áp, không cho dân ta một chút tự do, dân chủ nào. Cùng với chính sách đàn áp dã man phong trào cách mạng, chúng còn dùng chính sách chia để trị. Chúng chia nước ta thành ba kỳ với ba hình thức cai trị khác nhau nhằm chia rẽ và gây hằn thù dân tộc. Chúng còn chia rẽ nhân dân ba nước Đông Dương. Nhận định về chính sách “chia để trị”, đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã viết: “Chủ nghĩa thực dân Pháp không hề thay đổi cái châm ngôn “chia để trị” của nó. Chính vì thế, mà nước An Nam, một nước có chung một dân tộc, chung một dòng máu, chung một phong tục, chung một lịch sử, chung một truyền thống, chung một tiếng nói, đã bị chia năm xẻ bảy”2. Đối với nhân dân ba nước Đông Dương thì sau khi đẩy họ chống lại nhau, chúng “lại ghép một cách giả tạo các thành phần ấy lại”, lập nên xứ “Đông Dương thuộc Pháp”. Chúng còn bóp nghẹt quyền tự do, dân chủ, đàn áp dã man mọi hoạt động yêu nước của nhân dân ta.

Về văn hóa, xã hội, đế quốc Pháp thi hành chính sách ngu dân, truyền bá văn hóa nô dịch, phản động, khuyến khích đồi phong, bại tục, gây tâm lý tự ti, vong bản. Chúng tước hết mọi quyền sống của con người, lập nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng tìm mọi cách để ngăn chặn ảnh hưởng của các trào lưu văn hóa tiến bộ trên thế giới vào Việt Nam. Đúng như đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã viết: “Làm cho dân ngu để dễ trị, đó là chính sách mà các nhà cầm quyền ở các thuộc địa của chúng ta ưa dùng nhất”3.

Cũng vào thời điểm đó, các trào lưu tư tưởng dân chủ tư sản trên thế giới dồn dập dội vào nước ta: tư tưởng của Cách mạng Nga năm 1905 dưới tác động của nước Nhật duy tân, chủ nghĩa tam dân của Tôn Trung Sơn, tư tưởng dân tộc, dân quyền của Lương Khải Siêu và Khang Hữu Vi, tư tưởng của Cách mạng tư sản Pháp, v.v.. Dưới ảnh hưởng của các trào lưu tư tưởng trên, phong trào yêu nước Việt Nam chuyển sang khuynh hướng mới mà ta thường gọi là cuộc vận động dân tộc dân chủ tư sản, tiêu biểu là các phong trào Đông Du của Phan Bội Châu, Đông Kinh Nghĩa Thục của Lương Văn Can, cải cách dân chủ của Phan Châu Trinh, phong trào chống thuế ở Trung Kỳ, v.v.. Sau một thời gian phát triển rầm rộ, các phong trào trên cũng nối tiếp nhau tan rã trước sự đàn áp man rợ của đế quốc Pháp. Mặc dù còn thụ động, ấu trĩ, chưa tin vào sức mạnh của chính dân tộc mình, mà nặng về cầu viện, cải cách, nhưng giải pháp mới theo khuynh hướng dân chủ tư sản chí ít cũng đặt vấn đề của dân tộc Việt Nam trong mối quan hệ quốc tế và thời đại nhất định.

Những thay đổi về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội trên đây dẫn đến những thay đổi về tính chất và mâu thuẫn cơ bản của xã hội Việt Nam, về đối tượng và lực lượng của cách mạng Việt Nam. Cơ cấu giai cấp xã hội cũng thay đổi: giai cấp công nhân và giai cấp tư sản hình thành cùng với sự phân hóa của các giai cấp cũ, rồi kéo theo sự thay đổi về ý thức xã hội và đời sống. Bị đế quốc Pháp xâm lược, xã hội Việt Nam từ một xã hội phong kiến chuyển thành xã hội thuộc địa, nửa phong kiến. Hai mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam là: mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với đế quốc Pháp xâm lược; mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam – chủ yếu là nông dân – với giai cấp địa chủ phong kiến. Đối tượng cần phải đánh đổ của cách mạng Việt Nam là đế quốc Pháp và giai cấp địa chủ phong kiến. Trong bối cảnh của tình hình quốc tế và trong nước như vậy, giải phóng dân tộc là yêu cầu căn bản của xã hội Việt Nam, là nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam, là nguyện vọng thiết tha của cả dân tộc Việt Nam. Rõ ràng, đến đầu thế kỷ XX, cách mạng Việt Nam diễn ra cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước, về giai cấp lãnh đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc. Cách mạng Việt Nam ở trong “tình hình đen tối như không có đường ra”.

Vượt qua sự hạn chế của điều kiện lịch sử xã hội Việt Nam lúc đó, vượt lên những hạn chế của các sĩ phu yêu nước đương thời, bằng thiên tài trí tuệ và bằng hoạt động thực tiễn của mình, Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đã đáp ứng kịp thời đòi hỏi bức thiết đó, đã tìm ra giải pháp mới cho sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam. Người tổng công trình sư, vừa thiết kế vừa thi công công trình này, trước hết là Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh.

Hồ Chí Minh lúc nhỏ tên là Nguyễn Sinh Cung, lúc đi học có tên là Nguyễn Tất Thành, sinh ra trong một gia đình nhà Nho yêu nước ở xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, nơi có truyền thống yêu nước và cách mạng. Hoàn cảnh gia đình, quê hương, đất nước có ảnh hưởng sâu sắc đến Nguyễn Tất Thành. Thân phụ anh là ông Nguyễn Sinh Sắc, người giỏi Nho học, đỗ Phó bảng, nhưng không chịu hợp tác với Pháp. “Thái độ bất hợp tác, ngầm chống đối thực dân, yêu nước của thân phụ có ảnh hưởng tốt đến nhân cách của anh”4. Quãng đời niên thiếu đèn sách, được sự dạy dỗ của thầy Vương Thúc Quý, một “sĩ tử Cần Vương” và với tư chất thông minh, Nguyễn Tất Thành được bồi đắp vốn kiến thức Nho học và chịu ảnh hưởng chí hướng yêu nước, thương dân của thày dậy.

Năm 1904, ở Nghệ Tĩnh, bọn thực dân Pháp bắt phu đắp con đường Cửa Rào đi Trấn Ninh. Do đói khát và làm việc quá nặng nhọc, nhiều người đã phải bỏ xác, gây cảnh tang tóc đau thương. Thảm kịch “Cửa Rào” gây ấn tượng mạnh, khơi dậy mối thương yêu sâu sắc với đồng bào trong tâm trí Nguyễn Tất Thành. Những năm sau theo cha vào Huế và đi nhiều nơi trong vùng, Nguyễn Tất Thành được chứng kiến cuộc sống khổ cực của người dân, sự áp bức, bóc lột dã man của bọn thực dân, phong kiến, đã hình thành ở anh lòng yêu nước, thương dân, căm thù giặc. “Người thiếu niên ấy đã sớm hiểu biết và rất đau xót trước cảnh thống khổ của đồng bào. Lúc bấy giờ, anh đã có chí đuổi thực dân, giải phóng đồng bào”5. Cái nôi gia đình, quê hương đã hun đúc cho Nguyễn Tất Thành sớm có tinh thần yêu nước, căm thù giặc và ý chí đánh đuổi bọn thực dân.

Năm 1906, Nguyễn Tất Thành vào học ở Trường Tiểu học Pháp – Việt Đông Ba, năm sau vào học Trường Quốc học Huế. Tại đây, anh có điều kiện bổ sung vốn kiến thức Nho học, tiếp thu văn hóa phương Tây. Vốn văn hóa đó giúp anh có khả năng suy xét và hoạt động có tư duy. Vào những năm này, ở Kinh thành Huế như một dòng nước xoáy, cuốn hút mọi tầng lớp tham gia hưởng ứng các phong trào yêu nước. Năm 1908, ở Huế và Trung Kỳ bùng nổ phong trào kháng thuế rầm rộ. Nguyễn Tất Thành cùng số đông học sinh Trường Quốc học tích cực tham gia phong trào. Thực dân Pháp đàn áp dã man. Thất bại của phong trào chống thuế ở Huế cũng như ở Trung Kỳ cùng các phong trào yêu nước chống Pháp đầu thế kỷ XX, làm cho Nguyễn Tất Thành nhận rõ hơn bản chất dã man của bọn thực dân và cũng làm cho anh sớm thấy được sức mạnh đấu tranh của quần chúng khi được tổ chức.

Từ các sự kiện trên, Nguyễn Tất Thành suy nghĩ, cân nhắc đến con đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Anh khâm phục các cụ Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan Châu Trinh và Phan Bội Châu, nhưng không hoàn toàn tán thành cách làm của một người nào. Anh phân tích đúng đắn những điều kiện khách quan và chủ quan trong xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX để đi đến kết luận: Cụ Phan Châu Trinh chủ trương chỉ yêu cầu người Pháp thực hiện cải cách, điều đó chẳng khác gì “xin giặc rủ lòng thương”; Cụ Phan Bội Châu hy vọng Nhật giúp đỡ để đuổi Pháp, chẳng khác gì “đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau”; Cụ Hoàng Hoa Thám còn thực tế hơn, trực tiếp đấu tranh chống Pháp, nhưng “còn nặng cốt cách phong kiến”. Vì vậy, Nguyễn Tất Thành chọn cho mình hướng đi mới, đó là tìm cách đến các nước phương Tây, nơi có trào lưu Tự do, Bình đẳng, Bác ái để tìm cách làm mới, phương pháp mới, rồi trở về nước giúp Tổ quốc, giúp đồng bào. Quyết định này về sau Người có nói: “Nhân dân Việt Nam, trong đó có cụ thân sinh ra tôi, lúc này thường tự hỏi ai là người sẽ giúp mình thoát khỏi ách thống trị của Pháp. Người này nghĩ là Nhật, người khác lại nghĩ là Anh, có người lại cho là Mỹ. Tôi thì thấy phải đi ra nước ngoài để xem cho rõ”6. Như vậy, quyết định của Nguyễn Tất Thành có mục đích rõ ràng và có định hướng cụ thể. Với ý định đó, sau khi rời Huế vào Phan Thiết dạy học một thời gian, đầu năm 1911, anh vào Sài Gòn xin vào Trường Bách Nghệ.

Trong lúc đất nước đang cơn khủng hoảng, thế giới bắt đầu bước vào thời kỳ sôi động, tháng 6 – 1911, Nguyễn Tất Thành với tên gọi Văn Ba từ bến cảng Nhà Rồng trên tàu Latútsơ Tơrêvin rời Tổ quốc thân yêu vượt trùng dương đi tìm chân lý cách mạng. Hành trang của anh mang theo không có gì ngoài tấm lòng yêu nước, đôi bàn tay lao động và ý chí quyết tâm tìm ra con đường cứu dân, cứu nước. Có thể nói, đây là sự kiện lịch sử quan trọng, là bước mở đầu cho cách mạng Việt Nam chuẩn bị đi vào con đường cách mạng vô sản, nhịp bước với thời đại, kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân một cách hữu cơ từ trong bản chất giai cấp và trên tinh thần đấu tranh vì lợi ích dân tộc và của toàn nhân loại.

Trên đường hành trình cứu nước, Nguyễn Tất Thành chấp nhận cuộc sống của người lao động làm thuê. Đối với anh, đó chỉ là phương tiện nhằm thực hiện mục đích đã đặt ra. Động cơ thúc đẩy Nguyễn Tất Thành ra đi là tìm một giải pháp mới cho sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam, trước hết là nước Pháp, nước có cuộc Cách mạng 1789 điển hình, nhưng cũng là nước đẻ ra chế độ thực dân đang thống trị Tổ quốc của anh. Ý nghĩ này xuất hiện ở Nguyễn Tất Thành rất sớm, như sau này Người nói: “Khi tôi độ mười ba tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ Pháp: Tự do, Bình đẳng, Bác ái. Đối với chúng tôi, người da trắng nào cũng là người Pháp. Người Pháp đã nói thế. Và từ thuở ấy, tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn dấu đằng sau những chữ ấy. Nhưng trong những trường học cho người bản xứ, bọn Pháp dạy người như con vẹt. Chúng giấu không cho người nước tôi xem sách báo. Không phải chỉ sách của các nhà văn mới, mà cả Rútxô và cả Môngtexkơ cũng bị cấm. Vậy thì phải làm thế nào bây giờ? Tôi quyết định tìm cách đi ra nước ngoài”7. Đó là mục tiêu trực tiếp của chặng đầu cuộc hành trình của Nguyễn Tất Thành. Muốn “trở về giúp đồng bào” thì trước hết phải hiểu thật đầy đủ kẻ thù đang áp bức dân tộc mình, nhất là từ trên mảnh đất đã sản sinh ra nó, đồng thời phải tìm ra con đường cứu nước, giải phóng dân tộc đúng đắn theo đường hướng mới. Sự khác biệt giữa Nguyễn Tất Thành với những người sang Pháp hồi ấy là ở chỗ đó.

Trước lúc ra đi tìm đường cứu nước, tìm chân lý cách mạng, Nguyễn Tất Thành đã tiếp thu sâu sắc truyền thống yêu nước của dân tộc, am hiểu vốn văn hóa phương Đông, một phần văn hóa phương Tây. Đó là vốn quý, là cơ sở quan trọng để Nguyễn Tất Thành tiếp thu chân lý cách mạng, là nhân tố đầu tiên của quá trình hình thành con đường cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh.

———————————————–

1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, t.9, tr. 313 – 314.

2,3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, t.2, tr. 116, 99.

4. Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Tỉnh ủy Nghệ Tĩnh: Bác Hồ thời niên thiếu, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1989, tr.51.

5. Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb. Sự thật, Hà Nội, tr.13.

6. A. Lui Stơrông: Ba lần nói chuyện với Chủ tịch Hồ Chí Minh, Báo Nhân Dân, ngày 19 – 5 – 1965.

7. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, t.1, tr.477.

PGS.TS Lê Văn Yên (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia)

dangcongsan.vn

Bối cảnh lịch sử tác động đến hành trình cứu nước của Hồ Chí Minh

(ĐCSVN)Vừa tròn một thế kỷ, kể từ khi Nguyễn Tất Thành – Nguyễn Ái Quốc và sau này là Hồ Chí Minh rời bến cảng Nhà Rồng, Sài Gòn (nay là thành phố Hồ Chí Minh) ra đi tìm đường cứu nước (5/6/1911 – 5/6/2011). Đối với Nguyễn Tất Thành, đây không phải là quyết định giản đơn, tình cờ, mà là kết quả tổng hợp của một quá trình phân tích, lý giải khoa học những nhân tố thuận -nghịch của bối cảnh trong nước và thế giới tác động đến cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, để lựa chọn đúng hướng đi và xác định con đường cứu nước thành công.

1. Đối với tiến trình giải phóng dân tộc, đây là sự kiện mang nội dung cách mạng và ý nghĩa lịch sử lớn lao. Bởi lẽ, sự kiện lịch sử này vừa là mốc kết thúc một quá trình tổng hợp những yếu tố chủ quan và khách quan của bối cảnh lịch sử, vừa là bước khởi đầu hành trình cứu nước của Hồ Chí Minh hồi đầu thế kỷ XX. Vì vậy, ý nghĩa và tầm vóc lớn lao của nó mãi mãi được ghi nhận và phát huy trong suốt hành trình cứu nước của Người trước đây và trên con đường đổi mới đất nước hiện nay.

Nguyễn Ái Quốc tại Đại hội lần thứ XVIII của
Đảng Xã hội Pháp ở Tua, tháng 12/1920 (ảnh tư liệu)

Trước hết, cần hiểu rõ khái niệm “tác động của bối cảnh lịch sử” là gì? Theo chúng tôi: Một là, Không phải toàn bộ bối cảnh lịch sử (trong nước và thế giới) đều tác động đến hành trình cứu nước của Hồ Chí Minh. Do đó, bài viết này sẽ không nghiên cứu toàn bộ bối cảnh cuộc hành trình, mà chỉ đi sâu nghiên cứu những sự kiện lịch sử được Người biết đến và gây tác động đến quá trình hình thành con đường cứu nước của Người. Hai là, bối cảnh không phải là bức tranh bất động mà nó thường xuyên thay đổi và gây ảnh hưởng đến xu thế phát triển, hoạt động của mỗi tổ chức, con người. Vì vậy, bối cảnh lịch sử tác động đến hành trình cứu nước của Hồ Chí Minh bao gồm những sự kiện lịch sử mà Người nhận thức, mà trước hết phải kể đến những sự kiện mang ý nghĩa thời đại, gắn liền với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam…

Điểm khởi đầu hành trình cứu nước của Hồ Chí Minh là sự kiện ngày 5 tháng 6 năm 1911. Tiếp đó là quá trình vừa lao động, vừa học tập lý luận và hoạt động thực tiễn để tìm ra con đường giải phóng dân tộc thành công. Đó là những năm tháng bôn ba đầy khó khăn của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh ở nhiều quốc gia, châu lục. Vì vậy, nghiên cứu tác động của bối cảnh lịch sử đến hành trình cứu nước của Hồ Chí Minh không chỉ là nghiên cứu những nhân tố hình thành quyết tâm và hướng đi mà còn nghiên cứu làm rõ hàng loạt yếu tố mới Người “bắt gặp”- nhận thức trong quá trình hình thành đường lối cứu nước của mình.

Vì vậy, ở đây không cần thiết phải thống kê đầy đủ tình hình trong nước và thế giới, cũng không phải mô tả kỹ lưỡng những sự kiện lịch sử đã diễn ra vì đó là bối cảnh chung mà bất kỳ con người đương thời nào đều sống trong đó, dù họ có nhận thức được “bối cảnh” ấy hay không.

Vậy bối cảnh lịch sử tác động đến sự hình thành quyết tâm và hướng xuất dương tìm đường cứu nước của Hồ Chí Minh là gì ?

2. Cuối thế kỷ XIX, sự kiện lịch sử tác động mạnh mẽ đến tình hình chính trị, kinh tế, xã hội Việt Nam; làm thay đổi kết cấu giai cấp, ảnh hưởng nhiều đến cuộc sống mọi người dân (trong đó có họ hàng, gia đình và bản thân Hồ Chí Minh) là thực dân Pháp xâm lược Việt Nam. Sau thời kỳ “bình định”, thực dân Pháp thi hành chính sách “khai thác thuộc địa” – thực chất là tăng cường bóc lột, vơ vét thuộc địa. Vì vậy, đời sống nhân dân lao động đã khó khăn, càng thêm khốn đốn. Hậu quả là Việt Nam từ một nước phong kiến độc lập trở thành nước thuộc địa nửa phong kiến.

Sang đầu thế kỷ XX, đời sống các tầng lớp nhân dân càng bị bần cùng hoá. Mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược và chế độ thuộc địa ngày một gay gắt, trở thành mâu thuẫn vừa cơ bản, vừa chủ yếu. Bên cạnh đó, mâu thuẫn giữa nông dân và địa chủ càng gay gắt. Đây là trở lực lớn, kìm hãm sự phát triển của xã hội Việt Nam.

Vì vậy, chỉ có giải quyết thành công những mâu thuẫn trên đây – đồng nghĩa với việc tìm ra con đường cứu nước, giành lại độc lập dân tộc thì xã hội Việt Nam mới tiếp tục phát triển. Đó là đòi hỏi khách quan, cấp bách của cách mạng Việt Nam từ đầu thế kỷ XX.

Để giải quyết mâu thuẫn trên, nhiều phong trào đấu tranh diễn ra sôi nổi với mục tiêu “Phen này quyết chống cả Triều lẫn Tây”. Đó là phong trào Đông Du, Đông Kinh nghĩa thục… do các sỹ phu yêu nước chịu ảnh hưởng của tư tưởng dân chủ tư sản như: Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh lãnh đạo hay khởi nghĩa Yên Bái của Việt Nam Quốc Dân đảng dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Thái Học, Phạm Tuấn Tài…rồi khởi nghĩa nông dân Yên Thế dưới sự lãnh đạo của Hoàng Hoa Thám kéo dài hơn 30 năm… Đó là trang sử đấu tranh vẻ vang của dân tộc trên con đường đấu tranh giành độc lập. Mặc dù diễn ra sôi nổi, rộng khắp các vùng miền, nhưng tất cả các cuộc đấu tranh cuối cùng đều thất bại. Bối cảnh lịch sử này, sau này, Hồ Chí Minh viết trong bài Con đường cứu nước và giải phóng dân tộc trong thời đại ngày nay: “Trong suốt gần một thế kỷ thống trị của thực dân Pháp, phong trào cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam không ngừng phát triển, kẻ trước ngã, người sau đứng dậy. Nhưng tất cả những cuộc khởi nghĩa yêu nước ấy đã bị dìm trong máu. Những đám mây đen lại bao phủ đất nước Việt Nam”[1]

Thực tế thất bại của lớp cha ông đã chỉ ra rằng: sự bất lực của hệ tư tưởng phong kiến và hệ tư tưởng tư sản trước nhiệm vụ lịch sử đặt ra là lãnh đạo toàn dân chống Pháp, giành lại độc lập dân tộc. Cách mạng Việt Nam khủng hoảng về đường lối, tức là thiếu hệ thống lý luận cách mạng tiên tiến của giai cấp công nhân có khả năng dẫn dắt cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam thành công. Câu hỏi của “bài toán thế kỷ” đặt ra cho dân tộc ta: Ai là người lãnh đạo thành công nhiệm vụ giải phóng dân tộc ở Việt Nam ? đến lúc này vẫn chưa có lời giải.

Bối cảnh trên đây, sau này được Hồ Chí Minh nói rõ khi trả lời nhà văn Mỹ Anna Luy Xtơrông: “Nhân dân Việt Nam trong đó có ông cụ thân sinh ra tôi, lúc này thường tự hỏi nhau ai sẽ là người giúp mình thoát khỏi ách thống trị của Pháp. Người này nghĩ là Nhật, người khác lại nghĩ là Anh, có người lại cho là Mỹ”[2]!?

Xuất thân từ gia đình trí thức phong kiến có truyền thống yêu nước, trọng nghĩa, Hồ Chí Minh sớm mang trong mình lòng yêu nước, thương dân. Tuổi học đường của Người gắn bó với những năm tháng quan trường ngắn ngủi đầy trắc trở của người cha Nguyễn Sinh Huy. Người đã theo cha đến cả ba miền đất nước, biết được cuộc sống khó khăn của người dân mất nước dù họ ở xứ Bắc Kỳ, Trung Kỳ “bảo hộ” hay Nam Kỳ “thuộc địa”. Người có thời gian sống ở Huế. Đó là điều kiện để Người tìm hiểu, làm quen với cuộc sống quan chức, Hoàng triều. Tuy nhiên, thực tế ấy đã làm cho Người thấy rõ hơn cuộc sống phụ thuộc, thấp hèn của giới quan chức, tay sai. Từ những trải nghiệm đầu đời của mình và cuộc sống lận đận, trắc trở của người cha, Hồ Chí Minh càng thấu hiểu ý nghĩa thực tế của câu chuyện cha mình thường bình giải “Quan trường thị nô lệ, trung chi nô lệ, hựu nô lệ”. Cho nên, đầu năm 1910, sau khi ông Nguyễn Sinh Huy bị bãi chức thì ông vào Nam Kỳ hành nghề bốc thuốc trị bệnh cứu người, còn Hồ Chí Minh thì thấy rõ hơn sự thối nát của chế độ quan trường. Điều này càng thôi thúc Người quyết tâm ra đi tìm đường cứu nước. Trong tác phẩm Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Trần Dân Tiên đã viết: “Người thiếu niên ấy đã sớm hiểu biết và rất đau xót trước cảnh thống khổ của đồng bào. Lúc bấy giờ, Anh đã có chí đuổi thực dân Pháp, giải phóng đồng bào. Anh tham gia công tác bí mật, nhận công việc liên lạc”[3].

Tuy nhiên, đi đâu và làm gì để tìm ra con đường cứu nước thành công luôn là công việc hết sức khó khăn. Bởi lẽ, bọn thực dân rất bưng bít tư tưởng mới, ngăn trở sách báo tiến bộ với âm mưu giam hãm dân ta trong vòng nô lệ. Người đã nói với nhà báo Liên Xô Ôxip Manđenxtam: “Khi tôi độ mười ba tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ Pháp: Tự do, Bình đẳng, Bác ái. Đối với chúng tôi, người da trắng nào cũng là người Pháp. Người Pháp đã nói thế…Trong những trường học cho người bản xứ, bọn Pháp dạy người ta như con vẹt.Chúng giấu không cho người nước tôi xem sách báo. Không phải chỉ sách của các nhà văn mới, mà cả Rútô và Môngtexkiơ cũng bị cấm. Vậy thì làm thế nào bây giờ? Tôi quyết định tìm cách đi ra nước ngoài”[4]…

Trong quá trình xác định con đường cứu một dân tộc, lòng căm thù giặc và quyết tâm chưa đủ, mà còn phải lý giải được nguyên nhân thất bại của các bậc tiền bối, hiểu được điều kiện chủ quan và khách quan của bối cảnh lịch sử, trên cơ sở đó mà vạch ra hướng đi của con đường cũng như những yếu tố đảm bảo thắng lợi.

Trước thất bại liên tiếp về con đường cứu nước của các bậc tiền bối, Người nhận xét:

“Cụ Phan Chu Trinh chỉ yêu cầu người Pháp thực hiện cải lương…Điều đó là sai lầm, chẳng khác gì đến xin giặc rủ lòng thương.

Cụ Phan Bội Châu hy vọng Nhật giúp đỡ để đuổi Pháp. Điều đó rất nguy hiểm, chẳng khác gì “đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau”.

Cụ Hoàng Hoa Thám còn thực tế hơn, vì còn trực tiếp đấu tranh chống Pháp. Nhưng theo người ta kể thì Cụ còn mang nặng cốt cách phong kiến”[5].

Từ những trải nghiệm cuộc sống và với quyết tâm lớn, Hồ Chí Minh đã sớm phát hiện ra mâu thuẫn giữa chế độ đàn áp bóc lột dã man của bọn thực dân ở Việt Nam với cái lý tưởng cao đẹp của nước Pháp – quốc gia đã đề xướng ra lý tưởng cao đẹp và hấp dẫn mọi con người ” Tự do – Bình đẳng – Bác ái”, muốn biết cái gì bí mật ẩn náu ở “nước Mẹ” xa xôi ! Người cho rằng “Muốn đánh hổ thì phải vào hang hổ!”. Và chính những nhận thức về bối cảnh đất nước và những tìm hiểu của Hồ Chí Minh về nước Pháp đã thôi thúc Người sang Pháp và các nước khác… Đây không phải là hành động ngẫu nhiên, tự phát mà là sự lựa chọn, trăn trở; một quyết tâm lớn, nhằm đáp ứng đòi hỏi khách quan của cách mạng Việt Nam.

Quyết định sang phương Tây của Hồ Chí Minh là sự phủ nhận sự tồn tại nhà nước thực dân nửa phong kiến ở Việt Nam. Đó là đòn tiến công đầu tiên của Hồ Chí Minh đối với nhà nước đương thời, mở cửa ra thế giới để đón nhận những nhân tố mới của thời đại, tiếp thu lý luận tiên tiến, tích hợp tinh hoa văn hoá nhân loại để hình thành con đường cứu nước Việt Nam thông qua Hành trình cứu nước của một con người – Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh.

Ngày 3 tháng 6 năm 1911, Người xuống tàu buôn Pháp Amiran Latusơ Tơrêvin( Amiral Latouche Treville) thuộc Hãng Năm sao đang cập cảng Nhà Rồng gặp thuyền trưởng Maixen (Maisen) và được nhận vào làm phụ bếp trên tàu. Ngày 5 tháng 6 năm 1911 tàu Amiran Latusơ Tơrêvin rời bến cảng Nhà Rồng mang theo người thanh niên Việt Nam 21 tuổi với khát vọng cháy bỏng là tìm ra con đường cứu nước Việt Nam khỏi ách thống trị thực dân phong kiến.

3. Khi rời Tổ Quốc, Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh có quyết tâm cao, nhưng sự hiểu biết về thế giới còn hạn chế. Sự ra đi ấy khẳng định một quyết tâm lớn, nhưng biết bao câu hỏi còn bỏ ngỏ. Vốn hiểu biết của Người chưa có thể nhận thức được đặc điểm, xu thế của thời đại. Từng bước một, vừa lao động kiếm sống, vừa học tập lý luận và hoạt động xã hội, Hồ Chí Minh dần dần nhìn ra bối cảnh của hành trình tìm đường cứu nước. Từ hoạt động trong nhiều tổ chức chính trị, xã hội, những trải nghiệm cuộc sống trong nhiều quốc gia thập niên 10, 20 thế kỷ XX, Hồ Chí Minh sớm nhìn ra những yếu tố ảnh hưởng đến cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam như con đường Cách mạng Tháng Mười Nga, tư tưởng Lênin và đường lối giải phóng thuộc địa của Quốc tế Cộng sản (QTCS). Nhiều bài viết, bài nói, báo cáo của Hồ Chí Minh gửi QTCS đã thể hiện quá trình nhận thức của Người về thời cuộc và sự tổng hợp, vận dụng sáng tạo những nhân tố tích cực của bối cảnh lịch sử để hình thành con đường cứu nước của mình.

Điều cần lưu ý ở đây là Hồ Chí Minh rời Tổ quốc hoà nhập vào thế giới trong thời điểm chủ nghĩa tư bản đã chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc. Hệ thống thuộc địa đã hình thành trên phạm vi thế giới. Trong Tham luận trình bày tại Đại hội lần thứ V của QTCS (1924), Hồ Chí Minh chỉ rõ: Năm 1876: 1/4 tỷ người dân thuộc địa thì năm 1914: 1/2 tỷ dân thuộc địa. Đến đầu những năm 20, diện tích các nước thuộc địa gấp 5 diện tích các nước chính quốc, còn dân số chính quốc chưa bằng 3/5 số dân các nước thuộc địa. Số dân thuộc địa Anh đông gấp hơn 8,5 số dân nước Anh còn đất đai rộng gấp 252 lần của nước Anh[6]… Cuộc đấu tranh giải phóng của các thuộc địa và phụ thuộc tuy đã được đẩy mạnh ở các nước châu Âu như: Airơlen, Ba Lan nhưng chưa có nước nào giành được độc lập. Còn ở châu Á, tuy đã trỗi dậy một “Châu Á thức tỉnh” nhưng các quốc gia lớn như: Ấn Độ, Trung Quốc, Inđônêxia vẫn đang là thuộc địa của bọn đế quốc. Trên phạm vi toàn thế giới, chưa có một thuộc địa nào được giải phóng. Con đường giải phóng dân tộc chưa có một hình mẫu, tấm gương soi chung!

Vì vậy, hành trình cứu nước của Hồ Chí Minh lúc này cũng mới chỉ là quyết tâm và định hướng. Người bắt đầu bằng nghề phụ bếp rồi sau đó là công nhân trên tàu buôn Pháp. Nhờ đó, Người có dịp qua nhiều quốc gia như: Xinhgapo, Côlômbô, Aicập, Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Angiêri, Tuynidi, Cônggô, Đahômây, Mỹ. Đầu năm 1913, Người từ Mỹ về Lơ Havơrơ sau đó sang Anh. Tại đây, Người làm nghề đốt lò, quét tuyết, phục vụ khách sạn. Bất kỳ hoàn cảnh nào, Người thường xuyên chú ý tìm hiểu đời sống và gần gũi với người lao động. Người rất xúc động trước điều kiện sống cực khổ và bị đàn áp của người da đen[7]. Sau những tháng năm trải nghiệm cuộc sống người dân thuộc địa làm thuê, Người dần dần nhận ra một điều: Ở đâu cũng có người nghèo và sự giàu nghèo không phụ thuộc vào màu da, chủng tộc. Người lao động ở đâu cũng khổ cực và biết thương yêu nhau.

Cuối năm 1917, Người từ Anh trở lại Pháp, vừa tiếp tục lao động kiếm sống, vừa tích cực tham gia hoạt động chính trị xã hội. Người liên hệ chặt chẽ với công nhân Pháp, những đại biểu thuộc địa và những người Việt Nam yêu nước tại Pháp. Đây là thời kỳ hoạt động sôi nổi và có hiệu quả trong hành trình tìm thấy con đường cứu nước Việt Nam. Đầu năm 1919, Người vào Đảng Xã hội Pháp: “Chỉ vì đây là tổ chức duy nhất ở Pháp theo đuổi lý tưởng cao quý của Đại cách mạng Pháp: Tự do, Bình đẳng, Bác ái” [8]. Giữa năm 1919, Người thay mặt những người Việt Nam yêu nước tại Pháp gửi “Bản yêu sách tám điểm “của nhân dân An Nam tới Hội nghị các nước đế quốc họp tại Vécxây (Versailles). Mặc dù Yêu sách chỉ nêu những yêu cầu tối thiểu trong khuôn khổ cải cách, nhưng các tác giả của bản Yêu sách ấy đã không nhận được một lời phúc đáp. Từ thực tế ấy, Người kết luận: “Muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào mình, trông cậy vào lực lượng của bản thân mình”[9]. Thực tế trên đây đã giúp Hồ Chí Minh hiểu thêm bối cảnh khách quan mà hành trình cứu nước không thể bỏ qua. Hành trình đi tìm con đường cứu nước của Hồ Chí Minh vẫn đang tiếp tục.

Sự kiện cực kỳ quan trọng làm chuyển biến cơ bản nhận thức con đường cứu nước giải phóng dân tộc của Người là được đọc bản “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của Lênin đăng trên báo Nhân đạo (L’Humanité) tháng 7-1920. Luận cương đã mang lại cho Người ánh sáng về con đường cách mạng giải phóng dân tộc ở một nước thuộc địa. Khẳng định ý nghĩa to lớn của Luận cương trong hành trình tìm ra con đường cứu nước, sau này Người viết: “Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đoạ đầy đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta”[10]. Cho đến cuối đời, Hồ Chí Minh càng trung thành với con đường độc lập dân tộc bao nhiêu, thì càng trung thành bấy nhiêu với những lý luận Lênin viết trong Sơ thảo Luận cương và đường lối của Quốc tế Cộng sản về vấn đề dân tộc và thuộc địa. Điều này thể hiện rất rõ khi Người trả lời phỏng vấn nhà báo Pháp Sáclơ Phuốcniô: “Từ ngày Luận cương của Lênin đã hoàn toàn soi sáng cho tôi, tôi không còn chỉ dự các cuộc họp của Đảng một cách thụ động nữa. Tôi lao vào cuộc chiến đấu, hăng hái bàn cãi, tiến công mạnh mẽ những kẻ chống lại Lênin và Quốc tế thứ ba”[11].

Sự kiện được đọc bản Sơ thảo những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin cùng với những hoạt động sát cánh với công nhân, trí thức Pháp và các đại biểu thuộc địa cùng đồng bào mình trên đất Pháp trước đó đã tạo tiền đề quan trọng để tại Đại hội lần thứ XVIII Đảng Xã hội Pháp họp tại thành phố Tua tháng 12 năm 1920, Hồ Chí Minh tích cực thảo luận và sớm quyết định bỏ phiếu ủng hộ Đảng mình gia nhập Quốc tế thứ ba. Người đã tham gia dự thảo Nghị quyết về chủ nghĩa Cộng sản và các thuộc địaLời kêu gọi những người bản xứ ở các thuộc địa tại Đại hội lần thứ nhất (1921) và lần thứ hai (1922) Đảng Cộng sản Pháp. Người đã trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên có nhiều đóng góp tích cực cho vấn đề giải phóng thuộc địa.

Với những sự kiện trên đây, Hồ Chí Minh đã từ người yêu nước trở thành người cộng sản chân chính. Và đây còn là mốc quan trọng đánh dấu việc Hồ Chí Minh đã tìm thấy con đường cứu nước. Người đã hoàn thành sứ mạng Người tìm thấy con đường cứu nước Việt Nam .

Tiếp theo là những hoạt động của Hồ Chí Minh với sứ mạng Người dẫn đường cứu nước đến thắng lợi.

Tìm thấy đường lối, con đường cứu nước đã khó, tiến hành tuyên truyền vận động quần chúng và tổ chức thắng lợi đường lối ấy trên thực tế còn khó hơn nhiều. Vì trong suốt tiến trình thực tế hoá đường lối ấy, người lãnh đạo có quyết tâm chưa đủ mà còn phải đánh giá đúng tình hình, lựa chọn đúng thời điểm, địa bàn”đối nội” và phải tìm được những cộng sự có thực tế và kinh nghiệm vận động tổ chức quần chúng. Tháng 6-1923, trong thư gửi các bạn cùng hoạt động ở Pháp Người phác họa công việc của mình – Người dẫn đường cứu nước khi trở về Tổ quốc là: “Đối với tôi, câu trả lời đã rõ ràng là trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập”[12]. Tuy nhiên con đường ấy còn nhiều gian truân. Người đã trải qua nhiều công việc, hoạt động ở nhiều quốc gia như: Nghiên cứu lý luận tại Đại học Phương Đông, dự nhiều Hội nghị quốc tế tại Liên Xô, làm cán bộ Ban Phương Đông Quốc tế Cộng sản và nhiều năm làm phiên dịch trong Phái bộ Bôrôđin tại Trung Quốc (1924-1927). Cũng trong thời gian này, tại Quảng Châu, Người đã thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên – Tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam. Giữa năm 1927 Người trở lại Liên Xô, thực hiện nhiệm vụ do Quốc tế Cộng sản giao ở Pháp, Bỉ, Đức, Thuỵ Sĩ, Italia rồi về Xiêm, Thái Lan, Trung Quốc.

Đầu năm 1930 tại Hồng Kông (Trung Quốc), Người đã chủ trì Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Cũng tại đây, từ giữa năm 1931 đến năm 1933, Người bị thực dân Anh bắt giam. Đầu năm 1934 sau khi thoát tù, Người trở lại Liên Xô học Trường Quốc tế Lênin và làm nghiên cứu sinh tại Viện nghiên cứu các vấn đề dân tộc và thuộc địa (thuộc Ban Phương Đông, Quốc tế Cộng sản). Thành công nổi bật trong hoạt động cách mạng của Người là nhận thức và giải quyết thoả đáng mối quan hệ dân tộc và giai cấp – vấn đề quan trọng và nhạy cảm mà ngay Quốc tế Cộng sản cũng có lúc mắc sai lầm. Người rất chú ý đặc điểm và truyền thống dân tộc, nhưng không vì thế mà xa rời lập trường giai cấp. Điều này được thể hiện qua luận điểm: “Vậy là màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một mối tình hữu ái là thật mà thôi: tình hữu ái vô sản”[13]. Những luận điểm sáng tạo về mối quan hệ giữa cách mạng vô sản ở chính quốc với cách mạng thuộc địa còn được thể hiện rõ trong nhiều bài báo , đặc biệt trong tham luận của Người được trình bày tại Đại hội V của QTCS năm 1924. Trong bối cảnh QTCS chịu ảnh hưởng sâu sắc của trào lưu “tả” khuynh, biệt phái từ sau khi Lênin qua đời (1924), đặc biệt sau Đại hội VI của QTCS (1928), Người vẫn kiên trì học tập lý luận và thường xuyên lập kế hoạch về nước thực thi con đường cứu nước để bắt liên lạc với Ban Chấp hành Trung ương Đảng ở trong nước.

Nét đặc sắc nhất cuộc hành trình cứu nước 30 năm là không bao giờ Người xa rời mục đích về nước cứu đồng bào. Khi ở Liên Xô dự Đại hội lần thứ VI Quốc tế Thanh niên, Người nói với nhà văn I. Êrenbua: “Tôi chỉ có một mong ước là sớm trở và Tổ quốc”[14]. Khi đang hoạt động trong Bát lộ quân Trung Quốc, Người vẫn bí mật liên lạc với Ban lãnh đạo Đảng trong nước chuẩn bị xây dựng căn cứ địa vùng biên giới Việt Trung. Cuối tháng 6 năm 1940, ngay sau khi Pháp đầu hàng phát xít Đức, Người chỉ thị gấp cho đồng chí Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp không đi học Trường Quân chính của Đảng Cộng sản Trung Quốc tại Diên An nữa mà cùng các đồng chí Phùng Chí Kiên, Vũ Anh đi Quế Lâm, Nam Ninh (Quảng Tây) hướng về Cao Bằng đón thời cơ mới. Đầu năm 1941, sau 30 năm ra đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh kết thúc Hành trình cứu nước, về vùng rừng núi Cao Bằng – địa đầu Tổ quốc trực tiếp lãnh đạo dân tộc thực hành đường lối cứu nước mới, mở ra giai đoạn mới trong công cuộc giải phóng dân tộc Việt Nam.

4. Ra đi tìm đường cứu một quốc gia là nhiệm vụ vô cùng khó khăn. Nhưng tìm thấy con đường ấy và điều quan trọng tiếp theo là bổ sung, hoàn thiện nó cho phù hợp với điều kiện cụ thể rồi đưa về áp dụng trong nước là việc khó gấp bội phần. Sau nhiều lần thất bại của các bậc tiền bối, Hồ Chí Minh là người Việt Nam đầu tiên kết hợp thành công sức mạnh trong nước và quốc tế – dân tộc và thời đại, yếu tố khách quan và chủ quan để tìm ra lời giải cho “Bài toán thế kỷ” đã đặt ra trước dân tộc từ đầu thế kỷ XX. Người đã khảo sát thực tế, nghiên cứu lý luận, tổng kết kinh nghiệm của nhiều thế hệ đã tìm thấy con đường cứu Việt Nam khỏi ách thống trị thực dân phong kiến. Tuy nhiên cần thấy rõ, đây không phải đơn giản là việc lựa chọn một mô hình con đường có sẵn để vận dụng vào Việt Nam. Mặc dù Luận cương của Lênin cũng như những quan điểm của Quốc tế Cộng sản và Đảng Cộng sản Pháp có vị trí quan trọng trong “con đường cứu nước” mà Hồ Chí Minh tìm đến; song chỉ ngần ấy thôi, chưa phải là con đường cứu nước Hồ Chí Minh, bởi lẽ đó chỉ là những nguyên tắc lý luận, định hướng mang tính phổ biến. Con đường cứu nước Hồ Chí Minh là sự vận dụng sáng tạo những nguyên tắc, quan điểm ấy vào hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam. Vì vậy, thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam không chỉ được tạo ra bởi tác động mạnh mẽ của bối cảnh lịch sử mà còn bởi những đóng góp đầy sáng tạo của Hồ Chí Minh. Thắng lợi công cuộc giải phóng ở Việt Nam đã mở đầu cho sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân trên phạm vi thế giới. Đó tác động trở lại của cách mạng Việt Nam với thế giới, dấu ấn của Hồ Chí Minh với thời đại. Do đó, thế giới đã tôn vinh Hồ Chí Minh là Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân văn hoá kiệt xuất Việt Nam./.

——————————————————————————–

[1]. Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb.CTQG, H.1996,T1,tr.314

[2].Dẫn theo báo Nhân Dân, ngày 18 tháng 5 năm 1965

[3] Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb.CTQG-Nxb.TN,H.1994,tr.12

[4] . Hồ Chí Minh Toàn tập,Nxb. CTQG, H.1995,t.1,tr.477

[5] Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện…, Sđd,tr.12

[6] Xem: Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb.CTQG,H.1995,t1,tr.273-289

[7]. Hồ Chí Minh, Biên niên tiểu sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 40-50

[8] Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện…Sđd, tr.41-42

[9] Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện…Sđd,tr.31

[10] Hồ Chí Minh Toàn tập, Sđd,t. 10 tr.127

[11] Hồ Chí Minh Toàn tập, Sđd,t12,tr.471

[12] Hồ Chí Minh Toàn tập, Sđd,t.1 tr.192

[13] Hồ Chí Minh toàn tập, Sđd,t.1,tr.266

[14] Hồ Chí Minh-Biên niên tiểu sử, xuất bản lần thứ 2,Nxb.CTQG, H.2006,t.2,tr.63

PGS.TS Lê Văn Tích (Học viện CT-HC Quốc gia Hồ Chí Minh)

dangcongsan.vn

Sáng mãi con đường vì dân, vì nước

Kỷ niệm 100 năm ngày Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước (5/6/1911 – 5/6/2011)

oOo

(GD&TĐ) – Năm nay chúng ta kỷ niệm 100 năm ngày Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước (5/6/1911 –5/6/2011). 100 năm trước đây, trên con tàu L’Amiral Latauche Trasvill, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã rời bến cảng Nhà Rồng với hoài bão mãnh liệt ra đi tìm đường giải phóng nước nhà khỏi ách nô lệ của thực dân. Sự kiện này là một dấu mốc có ý nghĩa đặc biệt trong lịch sử dân tộc. Tuy sớm thể hiện lòng yêu nước thương dân từ thuở còn đi học, nhưng đến thời điểm quyết tâm rời xa Tổ quốc tìm đường cứu nước, người thanh niên yêu nước có chí lớn và đầy nhiệt huyết Nguyễn Tất Thành đã dứt khoát chọn lẽ sống của đời mình là vì dân vì nước. Và Người đã dâng trọn đời mình cho lẽ sống cao đẹp này. Có thể nói ngày Bác Hồ rời bến cảng Nhà Rồng ra đi tìm đường cứu nước là điểm khởi đầu sự nghiệp cách mạng to lớn của Người – sự nghiệp của một lãnh tụ cách mạng, người anh hùng giải phóng dân tộc.

(ảnh minh họa: Internet)(ảnh minh họa: Internet)

Trong dòng chảy của lịch sử dân tộc, người Việt Nam chúng ta không bao giờ quên được trang đen tối cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, khi đất nước ta chìm đắm dưới ách đô hộ của thực dân Pháp. Không chịu khuất phục, bao người con ưu tú của đất nước như Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh… bằng cách lựa chọn của mình, đều đã tìm đường cứu nước nhưng đã không thành công. Bài học thất bại của những nhà yêu nước lớp trước đã thôi thúc Nguyễn Tất Thành ra nước ngoài tìm hiểu để lựa chọn, xác định một con đường đúng đắn có thể đập tan xích xiềng nô lệ của thực dân, giải phóng đất nước, mang lại độc lập tự do cho dân tộc mình, mang lại ấm no hạnh phúc cho đồng bào mình.

Trên hành trình tìm đường cứu nước của mình, nhà yêu nước Nguyễn Tất Thành – Nguyễn Ái Quốc đã bôn ba qua châu Âu, châu Mỹ, châu Á, châu Phi, đã sống, làm việc, hoạt động ở gần 30 nước. Chính sự trải nghiệm và tầm nhìn được mở rộng như vậy cộng với tài năng thiên phú, khả năng tự học, tự nghiên cứu cao và trái tim vốn giàu tình thương yêu con người, Nguyễn Ái Quốc đã đi đến một nhận thức quan trọng: Chính chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc là nguyên nhân đẩy người lao động cần lao ở các nước thuộc địa cũng như chính quốc rơi vào cuộc sống lầm than. Từ đó Người đã tìm đến với Chủ nghĩa Mác – Lê nin, xác định được con đường cứu nước, cứu dân đúng đắn. Sau này, Nguyễn Ái Quốc, khi đó đã là Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhớ lại: “Lúc đầu chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba. Từng bước một, trong cuộc đấu tranh, vừa nghiên cứu lý luận Mác – Lênin, vừa làm công tác thực tế, dần dần tôi hiểu được rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức, những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”. Với việc tìm đến với Chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh đã phất lên ngọn cờ độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội cho cách mạng Việt Nam.

Tìm hiểu sâu thêm tư tưởng, tình cảm và con đường mà Hồ Chí Minh đã đi, chúng ta có thể hình dung chủ nghĩa yêu nước ở Hồ Chí Minh đã được hình thành và dựa trên nền tảng của một chủ nghĩa nhân văn, chủ nghĩa nhân đạo sâu sắc, một tình yêu thương con người bao la như biển cả. Người nói nhiều đến nhân dân, nhân dân đất nước mình và nhân dân thế giới. Đối với nhân dân đất nước mình, Người hay dùng từ “đồng bào” rất đỗi thân thương. Khi đọc Tuyên ngôn Độc lập tại Lễ Quốc khánh đầu tiên của Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 2/9/1945, Người dừng giữa chừng và bằng giọng trầm ấm thân thiết hỏi: “Tôi nói đồng bào nghe rõ không?”. Kể cả khi nói và khi viết về nước hoặc về dân, Người thường gắn liền nước với dân, dân với nước, yêu nước gắn với thương dân, thương dân nước mình và yêu thương nhân loại với cái tâm hướng tới một thế giới đại đồng, thế giới xã hội chủ nghĩa. Người khẳng định: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”.

Yêu nước thương dân nên phải làm cách mạng để giành độc lập tự do cho đất nước, mang lại hạnh phúc cho nhân dân. Đó là mục đích, là lẽ sống, là con đường mà lãnh tụ Hồ Chí Minh đã chọn, đã đi và đã truyền lửa cho lớp lớp cháu con tiếp bước. Chúng ta có thể điểm qua những dấu ấn, những sự kiện quan trọng trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh kể từ khi Người tìm đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, nghĩa là sau khi Người đã xác định được con đường đúng đắn cứu dân, cứu nước. Cuối năm 1920, Nguyễn Ái Quốc tham gia thành lập Đảng cộng sản Pháp. Ngày 21/6/1925 Báo Thanh niên được thành lập; Báo do Người sáng lập nhằm chuẩn bị đường lối chính trị cho một tổ chức cộng sản ở Việt Nam. Năm 1925, Người lập ra Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên; và khi điều kiện chín muồi, ngày 3/2/1930, Người đã chủ trì Hội nghị hợp nhất 3 tổ chức cộng sản thành một Đảng thống nhất là Đảng Cộng sản Việt Nam. Mùa xuân năm 1941, Người về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc. Tháng 8/1945, Cách mạng thành công thể hiện sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam, đảng do Hồ Chí Minh sáng lập, rèn luyện. Sau thành công của Cách mạng tháng Tám 1945, nhân dân ta tiếp tục tiến hành thắng lợi kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đứng đầu là Hồ Chủ tịch. Các sự kiện nêu trên đã ghi dấu trong lịch sử dân tộc và khẳng định tính đúng đắn của con đường cứu nước, cứu dân mà Hồ Chí Minh đã chọn và sau đó đã suốt đời đi theo hy sinh, phấn đấu để biến ước mơ, hoài bão, lý tưởng vì nước, vì dân của mình trở thành hiện thực.

Đã 100 năm kể từ ngày Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước và 42 năm kể từ ngày Người mãi mãi đi xa. Xin kính dâng Người một nén tâm nhang. Tháng 5 đến rồi, khắp đất nước mình, khói hương đang mang mang dâng lên tưởng nhớ Người. Với công lao như trời biển với dân, với nước, Người đã hiển thánh trong lòng dân tộc. Dù Người đã đi xa nhưng hình ảnh của Người, sự nghiệp của Người vẫn còn mãi mãi. Chúng con vẫn hằng soi vào tấm gương trong của Người để tâm hồn mình thêm trong sáng và để được tiếp thêm sức mạnh bước tiếp trên con đường mà Người đã tìm ra và đi trọn cuộc đời. Con đường vì dân vì nước của Người sẽ sáng mãi, cuốn hút, thúc giục toàn dân tộc bước tiếp, hướng tới một ngày mai tươi sáng, vì một Việt Nam dân giàu nước mạnh, xã hội dân chủ công bằng  văn minh, có thể sánh vai cùng các cường quốc năm châu như điều Người hằng mong ước.

TS. NGUYỄN DANH BÌNH

gdtd.vn

Sự kiện Nguyễn Tất Thành đi tìm đường cứu nước – Ý nghĩa lịch sử và thời đại

(ĐCSVN) – Ngày 5/6/1911, từ Bến cảng Nhà Rồng, Chủ tịch Hồ Chí Minh – lúc này mang tên Nguyễn Tất Thành, bắt đầu cuộc hành trình ra nước ngoài tìm đ­uờng cứu nước, cứu dân. Đây là sự kiện có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong lịch sử đấu tranh vì sự sinh tồn và phát triển của dân tộc Việt Nam. Nhìn từ góc độ hội nhập quốc tế, bài viết hy vọng làm sáng tỏ thêm ý nghĩa lịch sử và thời đại của sự kiện lịch sử vĩ đại này.

1. Từ tuổi 13, Nguyễn Tất Thành đã khát vọng “muốn đi ra n­ước ngoài, xem n­ước Pháp”, “muốn làm quen với nền văn minh Pháp”, như­ng không chỉ để thỏa mãn ­ước mơ hiểu biết của tuổi trẻ, mà là “muốn tìm xem ẩn giấu đằng sau” những gì đã làm nên văn minh và sức mạnh của phư­ơng Tây; muốn “xem cho rõ” sự “làm ăn ra sao” của những cư­ờng quốc mà các nhà yêu n­ước Việt Nam đương thời kì vọng có thể giúp đất n­ước mình thoát khỏi ách thống trị thực dân; và, “sau khi xem xét họ làm thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta” [1] .

Với hành trang chủ nghĩa yêu nư­ớc-nhân văn Việt Nam và mục đích xác định tr­ước, bằng lao động, Người bắt đầu cuộc hành trình sang ph­ương Tây tìm con đ­ường mới để cứu n­ước cứu, dân.

Bến cảng Nhà Rồng hôm nay

Trong khoảng thời gian này, không chỉ có Nguyễn Tất Thành phát hiện ra cái mới, muốn làm quen, đi tìm và học cái đã tạo nên văn minh, sức mạnh của ph­ương Tây để trở về m­ưu độc lập, tự cư­ờng cho dân tộc, giải phóng cho đồng bào của mình. Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh là những ng­ười tiên phong nh­ư vậy.

Mang chung hành trang là chủ nghĩa yêu n­ước – nhân văn Việt Nam và cùng mục đích, nh­ưng giữa hai Cụ Phan với Nguyễn Tất Thành có những khác nhau. Một bên là tìm, học cái mới mà dân tộc ch­ưa có và xem đó nh­ư một chỗ dựa, một cứu cánh; một bên là muốn tìm hiểu giá trị thật của cái mới và cả cái ẩn giấu đằng sau nó; bên này chỉ mới tiến đến ở sự tiếp nhận, còn bên kia là đến tận nơi xem cho rõ cách làm. Cho dù có cùng hành trang, cùng mục đích, nhưng sự khác nhau về tầm nhìn và phư­ơng pháp của họ đã tạo ra kết quả khác biệt. Bên này, là tiếp nhận và đ­ưa về cái mới mà dân tộc ch­ưa có nh­ưng không biết nó đã bắt đầu trở nên lỗi thời so với sự phát triển của lịch sử nhân loại. Bên kia với sự khảo sát trực tiếp, phân tích, so sánh giữa lý thuyết với kết quả thực tế của các cuộc cách mạng điển hình trên thế giới (đã có đến thời điểm đó) để lựa chọn nhằm tiếp nhận những giá trị chung và mới của nhân loại đặng tìm ra con đ­ường cứu nư­ớc, cứu dân thích hợp với hoàn cảnh cụ thể của nư­ớc nhà và t­ương thích với sự vận động, xu thế phát triển mới trong quá trình tiến hóa của loài ngư­ời. Cũng vì vậy, những cố gắng cao nhất của hai cụ Phan cũng chỉ làm bùng phát một phong trào dân tộc, nuôi dưỡng ngọn lửa yêu nước trong nhân dân, bởi những cái đ­ược cho là chư­a có và đ­ược xem là mới đối với dân tộc mà hai Cụ đư­a về đã bị lịch sử nhân loại và chính phong trào cách mạng dân tộc vư­ợt qua.

Bằng lao động và hòa vào dòng chảy của các sự kiện trên thế giới, cuộc hành trình của Nguyễn Tất Thành đ­ược tiến hành trong gần một thập kỷ ở n­ước ngoài không chỉ để biết thế giới mà chính là quá trình học tập, khảo sát, nghiên cứu kỹ l­ưỡng nhằm thấu hiểu để chọn lọc và tiếp thu những giá trị văn hóa-văn minh của nhân loại. Thông qua quá trình của cuộc hành trình vĩ đại đến với các dân tộc, chủng tộc ở các châu lục, đặc biệt là trải qua thực tiễn đấu tranh cách mạng ở nhiều n­ước đã nâng cao trí tuệ, làm giàu văn hóa và mở rộng thế giới quan cho Ng­ười – từ tầm mức dân tộc đến nhân loại. Đó là cơ sở giúp cho Người thấu hiểu đ­ược sự t­ương đồng và khác biệt giữa triết lý ph­ương Đông và phư­ơng Tây; đã nhận thấy nguồn gốc trực tiếp nỗi khổ đau chung của các dân tộc thuộc địa và những người lao động, không phân biệt chủng tộc, màu da, trên hành tinh này và đi tới khẳng định: Vấn đề giải phóng dân tộc, giải phóng con ngư­ời không chỉ là nhu cầu của dân tộc và con ng­ười Việt Nam mà là của các dân tộc bị áp bức và nhân dân cần lao trên thế giới.

Bằng trực tiếp khảo sát tại quê h­ương của các cuộc cách mạng tư sản điển hình (Pháp, Anh và Mỹ), với trí tuệ thiên tài của mình, Nguyễn Tất Thành đã phát hiện và tiếp nhận “những lời bất hủ” mang giá trị chung của nhân loại về quyền dân tộc và quyền con ng­ười đ­ược ghi trong Tuyên ngôn độc lập của n­ước Mỹ và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của nước Pháp. Đồng thời, Ng­ười cũng thấy rõ hạn chế giữa lý thuyết và thực tế mà nổi bật là tính chất “không đến nơi” của các cuộc cách mạng này.

Những kết luận trên đây không phải chỉ là kết quả của sự trải nghiệm. Chỉ với tầm trí tuệ không ngừng đ­ược nâng cao, trên cơ sở đ­ược làm giàu về các giá trị văn hóa-văn minh nhân loại và với một tầm nhìn thế giới trong phân tích lý luận và kiểm nghiệm thực tiễn, Nguyễn Tất Thành mới có thể đúc rút thành những kết luận khoa học đúng đắn có giá trị quan trọng nh­ư vậy. Do đó, Ng­ười không chỉ dừng lại ở phân tích lý luận và thực tiễn để chọn lọc và thâu thái các giá trị văn hóa – văn minh nhân loại, mà còn trên cơ sở các kết luận đó, tìm lời giải đáp những vấn đề đang đư­ợc đặt ra trong lịch sử tiến hóa của loài ngư­ời. Đây chính là sự chuẩn bị – cả trên ph­ương diện lý luận và thực tiễn để Ngư­ời, không chỉ đi từ DÂN TỘC đến NHÂN LOẠI trong nhận thức các giá trị văn hóa – văn minh mà còn tiến tới năng lực phát hiện và nắm bắt đư­ợc quy luật tiến hóa của lịch sử nhân loại, xu thế của THỜI ĐẠI bằng thế giới quan khoa học và cách mạng của Chủ nghĩa Mác – Lênin.

Đi từ Dân tộc đến nhân loại, tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lênin là quá trình từ nhận thức cảm tính đến khoa học. Với thế giới quan khoa học và cách mạng, Nguyễn Ái Quốc đã phát hiệnnhận thức được quy luật tiến hóa, xu thế phát triển trong tiến trình đi lên của loài ng­ười và đi tới khẳng định: “Muốn cứư n­ước và giải phóng dân tộc không có con đ­ường nào khác con đ­ường cách mạng vô sản”[2] .

Amiran Latutsơ Tơrêvin là tên con tàu đưa Bác Hồ rời bến cảng Nhà Rồng ra đi tìm đường cứu nước

Đặt cách mạng giải phóng dân tộc trong quỹ đạo của cách mạng vô sản và chỉ rõ “cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành đ­ợc thắng lợi hoàn toàn”[3] , Người đã chỉ rõ: cách mạng giải phóng dân tộc phải hư­ớng đích tới sự giải phóng triệt để đối với con người theo quy luật tiến hóa tự nhiên của lịch sử nhân loại. ĐỘC LẬP DÂN TỘC phải đưa tới TỰ DO – HẠNH PHÚC cho con ng­ười. Với con đư­ờng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mà Nguyễn Tất Thành – Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đã chỉ ra, cách mạng Việt Nam hàm chứa sâu sắc các nội dung Dân tộc – Nhân loại và Thời đại, và do đó, với đ­ường lối đúng đắn thuận theo quy luật tiến hóa của nhân loại, đ­ược sự ủng hộ của toàn dân và nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới, cách mạng Việt Nam đã hội đủ các yếu tố Thiên thời – Địa lợi- Nhân hòa đảm bảo cho sự thắng lợi.

Với tất cả các ý nghĩa đó, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mà nội dung là giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng con ng­ười là triết lý phát triển Việt Nam. Đây là nội dung căn bản nhất của t­ư tư­ởng Hồ Chí Minh, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt, chi phối mọi hoạt động lý luận và thực tiễn của cách mạng giải phóng dân tộc cũng như trong công cuộc xây dựng xã hội mới, xã hội xã hội chủ nghĩa, đem lại tự do, hạnh phúc cho con ngư­ời. Tìm ra con đ­ường cứu n­ước đúng đắn là công lao vĩ đại đầu tiên, là cống hiến lý luận sáng tạo hàng đầu của Chủ tịch Hồ Chí Minh và là di sản có giá trị vĩnh hằng đối với cách mạng Việt Nam.

3. Đi ra n­ước ngoài để “xem xét họ làm thế nào” nhằm “trở về giúp đồng bào chúng ta” – với những những hoạt động và kết quả trên đây, có thể nhìn nhận quá trình đó của Nguyễn Tất Thành, trên nền tảng giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc, thực chất là quá trình hội nhập quốc tế để nghiên cứu, lựa chọn, tiếp nhận, vận dụng và phát triển các giá trị tinh hoa văn hóa văn minh nhân loại nhằm tìm ra con đ­ường đi lên cho dân tộc, hư­ớng tới mục tiêu vì sự giải phóng con người. Chính từ mục tiêu và bản chất của toàn bộ quá trình tiếp biến các giá trị văn hóa văn minh đó đã mặc định t­ư t­ưởng và sự nghiệp cách mạng mà Ng­ười lãnh đạo thực hiện ở Việt Nam cũng nh­ư những đóng góp của Ngư­ời với dân tộc và nhân loại thấm đậm giá trị văn hóa văn minh. Giá trị cao cả và đích thực của t­ư t­ưởng, sự nghiệp ấy chính là ở chỗ: Ng­ười đã lãnh đạo nhân dân đánh đuổi giặc ngoại xâm, giành lại độc lập cho dân tộc, xây dựng xã hội mới vì tự do và hạnh phúc của con ng­ười Việt Nam, đồng thời góp phần cùng các dân tộc đấu tranh loại trừ chủ nghĩa thực dân – một trở lực lớn trên con đ­ường tiến tới văn minh của nhân loại, đóng góp to lớn vào cuộc đấu tranh xây dựng một thế giới mới hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội, thúc đẩy sự phát triển của lịch sử loài ng­ười.

Những giá trị văn hóa-văn minh đó càng thêm sâu sắc khi Ng­ười chủ tr­ương cách mạng bắt đầu bằng sự giác ngộ nhân dân, làm cho nhân dân hiểu rõ các quy luật phát triển của xã hội, nhận rõ mục đích đấu tranh và con đ­ường giải phóng, tin chắc vào sự thắng lợi mà kiên quyết tự đứng lên làm cách mạng và xây dựng xã hội mới xóa bỏ áp bức, bóc lột và tạo ra những điều kiện phát triển toàn diện đối với con người. Ng­ười cho rằng: “Muốn giữ vững nền độc lập, muốn làm cho dân giàu n­ước mạnh, mọi ng­ời Việt Nam đều phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức mới để có thể tham gia xây dựng n­ước nhà”[4] .

Xuất phát từ các giá trị văn hóa – văn minh nhân loại, lấy văn hóa soi đ­ường cho quốc dân đi, đem văn minh chống lại dã man, vì vậy, sự nghiệp giải phóng dân tộc và con ng­ười d­ưới sự dẫn dắt của Chủ tịch Hồ Chí Minh là sự nghiệp văn hóa – văn minh vĩ đại ở Việt Nam, trong đó kết hợp chặt chẽ giữa giải phóng với phát triển và hoàn thiện con ng­ười. Giá trị cao cả nhất của văn hóa – văn minh là h­ướng tới và đ­ưa đến sự giải phóng toàn diện, phát triển và hoàn thiện con ngư­ời, như­ng sự sâu sắc của giá trị cao cả đó là làm cho con ng­ười tự đứng lên giải phóng bằng chính sự phát triển và hoàn thiện của mình.

Bác Hồ làm phụ bếp trên con tàu đã đưa Người ra đi tìm đường cứu nước năm 1911

Lấy thống nhất thay vì loại trừ bằng sự giác ngộ, đoàn kết toàn dân nhằm “đem sức ta giải phóng cho ta” và không ngừng phát triển văn hóa làm cho nhân dân đồng thuận để “tự lực, tự c­ường” trong xây dựng xã hội mới là đường lối và cũng là ph­ương pháp cách mạng thấm đậm nội dung văn hóa-văn minh mà Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng, thực hiện ở n­ước ta. Giải phóng dân tộc, giải phóng con ng­ười bằng sự phát triển và hoàn thiện con ngư­ời ở tầm cao văn hóa-văn minh như­ thế đã tạo ra nguồn năng l­ượng và động lực tổng hợp cực kì mạnh mẽ từ mỗi ngư­ời dân đến toàn dân, để làm nên mọi thắng lợi của dân tộc ta trong lịch sử hiện đại. Đó là bí quyết thành công của cách mạng Việt Nam mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đúc rút từ giá trị tinh hoa văn hóa-văn minh của dân tộc và nhân loại vận dụng vào n­ước ta. Điều đó cắt nghĩa trong mọi hoàn cảnh lịch sử, Ngư­ời luôn chủ trư­ơng nâng cao dân trí, phát triển văn hóa, đẩy mạnh giáo dục đạo đức và nhân cách cho toàn dân đi đôi với mở cửa tiếp thu tinh hoa văn hóa-văn minh nhân loại.

Xã hội mà Ng­ười chủ trư­ơng xây dựng là sự kết hợp giữa việc kế thừa, phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của văn hóa-văn minh dân tộc với tiếp thu tinh hoa văn hóa-văn minh nhân loại, thấm nhuần sâu sắc chủ nghĩa yêu nư­ớc- nhân văn Việt Nam và chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Đối với cá nhân, đó là văn hóa-văn minh để làm ng­ười, làm việc, để phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, phụng sự nhân loại; là xóa bỏ tham nhũng, l­ười biếng, phù hoa xa xỉ và làm cho mọi ngư­ời dân Việt Nam, từ già đến trẻ, đàn ông và đàn bà, ai cũng hiểu nhiệm vụ của mình và biết hưởng hạnh phúc mà mình được h­ưởng.

Xã hội mà Ng­ười chủ tr­ương xây dựng là một xã hội đạo đức có điểm xuất phát từ chính nội dung văn hóa-văn minh của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa để giải phóng con người. Bởi vậy, Ng­ười đòi hỏi đội ngũ tiên phong là Đảng Cộng sản phải “là đạo đức, là văn minh” và người làm cách mạng và xây dựng xã hội văn hóa- văn minh phải có văn hóa và đạo đức cách mạng. Ng­ười th­ường nói: “muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có con ngư­ời thấm nhuần đạo đức xã hội chủ nghĩa”[5] . Đó là đạo đức làm ngư­ời, hoàn thiện con người, đạo đức vì thắng lợi của sự nghiệp vĩ đại là giải phóng con ng­ười và xây dựng xã hội đem lại tự do, hạnh phúc cho tất cả mọi ng­ười. Cũng chính vì thế, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi đạo đức là gốc, đạo đức cách mạng là đạo đức hành động và Ngư­ời không chỉ để lại một hệ thống quan điểm về đạo đức để toàn Đảng, toàn dân học tập mà còn là một tấm gương ngời sáng, một kiểu mẫu về đạo đức, về văn hóa-văn minh, về sự nhất quán giữa t­ư t­ưởng và hành động, giữa nói và làm. Dẫn dắt cả dân tộc đi vào cuộc cách mạng hư­ớng tới sự giải phóng và hoàn thiện con ng­ời, Chủ tịch Hồ Chí Minh là hiện thân của sự toàn mỹ về văn hóa-văn minh, về đạo đức và nhân cách: yêu thư­ơng đồng bào và nhân loại; triệt để cách mạng nh­ưng rất nhân văn; uyên bác mà cực kì khiêm tốn; nguyên tắc chiến l­ược nh­ưng rất linh hoạt về sách l­ược; nhìn xa trông rộng như­ng rất thiết thực cụ thể; vĩ đại mà rất mực bình dị… Đó là chuẩn mực giá trị con người của dân tộc Việt Nam.

Suy cho cùng, con đư­ờng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh tìm thấy và dẫn dắt dân tộc thực hiện đã đư­a tới những thắng lợi vĩ đại đối của dân tộc, đồng thời cũng là những đóng góp vào giải quyết khát vọng lớn lao nhất, mục tiêu văn hóa-văn minh nhất của nhân loại là cải tạo thế giới để giải phóng con ngư­ời. Sự tôn vinh Ngư­ời là anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa kiệt xuất là một vinh danh kép phải được hiểu trên cùng một ý nghĩa: giá trị cao nhất của văn hóa-văn minh, của đạo đức và nhân cách là đ­ưa tới giải phóng, hoàn thiện con ng­ười và giải phóng, hoàn thiện con ng­ười chính là đỉnh cao của giá trị văn hóa-văn minh, đạo đức và nhân cách.

4. Với những biến cố lịch sử trong một thế kỉ qua, từ sự bế tắc trong đ­ường lối cứu n­ước hồi đầu thế kỉ XX, với sự hy sinh của biết bao bậc tiên liệt cho nhiệm vụ mở lối, tìm đ­ường cho dân tộc, đến thực tiễn của những thắng lợi đã đạt đ­ược trong trong cuộc tranh đấu giành và bảo vệ quyền dân tộc cơ bản cũng như­ trong xây dựng Tổ quốc xã hội chủ nghĩa theo con đư­ờng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh lựa chọn, chúng ta càng thấu hiểu thêm ý nghĩa lịch sử và thời đại của sự kiện đi ra thế giới (với phư­ơng h­ướng và pháp mới) để thâu thái những giá trị văn hóa-văn minh nhân loại, mư­u tìm con đ­ường cho sinh tồn và phát triển của dân tộc mà Ngư­ời đã thực hiện.

Trên ý nghĩa đó, ngày 5/6/2011, không chỉ là là sự kiện đặc biệt đánh dấu sự khởi đầu của quá trình đi ra thế giới tìm con đư­ờng cứu n­ước cứu, cứu dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh mà còn là sự kiện mở ra quá trình Việt Nam từng b­ước hội nhập vào dòng tiến hóa theo xu thế mới của nhân loại dư­ới sự dân dắt của Ng­ười. Trong quá trình đó, trên cơ sở tiếp nhận những giá trị văn hóa-văn minh nhân loại và nắm bắt đ­ược xu thế phát triển của loài ng­ười trong thời đại mới, thông qua con đ­ường cách mạng mà Ng­ười đã lựa chọn, Việt Nam đã kết hợp thành công sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại tạo nên sức mạnh tổng hợp (cả lực, thế, thời) đ­ưa tới những thắng lợi lịch sử cho cách mạng Việt Nam trong một thế kỉ qua. Mặt khác, trong quá trình đó, dân tộc ta đã góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân loại, làm cho thế kỷ XX trở thành thế kỉ phi thực dân hóa, thúc đẩy lịch sử loài ng­ười tiến lên theo h­ướng tiến bộ. Bởi vậy, kiên trì con đ­ường cách mạng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn không chỉ đơn nhất là giữ vững mục tiêu Độc lập – Tự­ do – Hạnh phúc cho dân tộc và con ngư­ời Việt Nam mà còn là giữ vững các nhân tố đảm bảo cho thắng lợi của cách mạng nư­ớc ta (thiên thời-địa lợi-nhân hòa) để đất n­ước (có lực, thế, thời mới) tiếp tục tiến b­ước mạnh mẽ nhằm hoàn thiện những mục tiêu vì dân tộc, vì con ngư­ời Việt Nam, góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân loại tiến vì hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội trên hành tinh của chúng ta.

Ngày nay, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, với các giá trị trên đây, sự kiện lịch sử Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đ­ường cứu nư­ớc càng có ý nghĩa thực tiễn. Với đường lối đổi mới của Đảng, trên thực tế, sự hội nhập quốc tế của Việt Nam cũng là tiếp tục quá trình dân tộc ta đi ra thế giới trong điều kiện lịch sử mới theo t­ư t­ưởng Hồ Chí Minh để thâu nhận các giá trị văn hóa-văn minh nhân loại và nắm bắt xu thế phát triển của loài ng­ười nhằm vận dụng và tiến hành thắng lợi sự nghiệp CNH,HĐH đất nư­ớc, tạo ra các điều kiện để thực hiện ngày một hoàn chỉnh các nội dung của tiêu chí Độc lập – Tự do – Hạnh phúc cho dân tộc và con ngư­ời Việt Nam. Bởi vậy, cần phải nắm vững thế giới quan, phư­ơng pháp Hồ Chí Minh để không chỉ thâu nhận đ­ược các giá trị văn hóa-văn minh, nắm bắt đư­ợc xu thế phát triển của loài ngư­ời mà còn vận dụng phù hợp với thực tiễn của đất nư­ớc. Chỉ có nh­ư vậy mới giải quyết tốt các mối quan hệ dân tộc-giai cấp, quốc gia-quốc tế, dân tộc-thời đại, phát huy cao độ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, đoàn kết quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với thời đại, liên tục tạo lập lực-thế-thời mới, đư­a đất nư­ớc phát triển vững chắc thực hiện các mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.

Một thế kỉ đã trôi qua nh­ưng sự kiện Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đư­ờng cứu nư­ớc, cứu dân vẫn còn nguyên ý nghĩa lịch sử và nghĩa thời đại. Ngày nay, trong hành trình hội nhập cùng nhân loại đi đến t­ương lai, chúng ta càng tin tư­ởng và kiên trì phấn đấu trên con đ­ường Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại đã chỉ ra, quyết tâm đ­ưa ngọn cờ của Ngư­ời đến đích thắng lợi./.

[1] Tr­ước khi thực hiện ý định ra n­ước ngoài, Nguyễn Tất Thành đã tâm sự với một ng­ười bạn: “Tôi muốn đi ra ngoài, xem n­ước Pháp và các n­ước khác. Sau khi xem xét họ làm thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta”. Hơn m­ười năm sau, trả lời một nhà báo về lí do đi ra nư­ớc ngoài, Ng­ười cho biết: “Khi tôi độ 13 tuổi, lần đầu tiên tôi đ­ược nghe ba chữ Pháp Tự do, Bình đẳng, Bác ái… Và từ thuở ấy, tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn giấu đằng sau những chữ ấy”.

Một lần khác, Ng­ười nói: “Nhân dân Việt Nam trong đó có ông cụ thân sinh ra tôi, lúc này th­ường tự hỏi nhau ai sẽ là người giúp mình khỏi ách thống trị của Pháp. Ng­ười này nghĩ là Anh, có ng­ười lại cho là Mỹ. Tôi thấy phải đi ra n­ước ngoài xem cho rõ. Sau khi xem xét họ làm ăn ra sao, tôi sẽ trở về giúp đồng bào tôi”.

Thực hiện ý chí của mình, ngày 2-6-1911, Ng­ười xin việc làm trên tàu AmiranLatusơ Tơrêvin đang đậu ở bến Nhà Rồng. Ngày 3/6/1911, Ng­ời bắt đầu làm việc trên tàu này với thẻ làm việc mang tên Văn Ba. Ngày 5/6/1911, tàu Amiran Latutsơ Tơrêvin rời bến Nhà Rồng, Nguyễn Tất Thành bắt đầu cuộc hành trình đi ra thế giới tìm con đư­ờng mới để cứu nư­ớc cứu dân.

[2] Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, HN, 2000, tập 9, tr314
[3] Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, HN, 2000, tập 12, tr305
[4] Hồ Chí Minh , toàn tập, tập 4, sđd, tr36
[5] Hồ Chí Minh , toàn tập, tập 10, sđd, tr485

PGS. TS Phạm Hồng Chương (Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng, Học viện Chính trị – Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh)

dangcongsan.vn