Tag Archive | CAND

Quyền giám sát của nhân dân

(VOV) -Lấy phiếu tín nhiệm đề cao trách nhiệm của đại biểu Quốc hội, là một bước tiến mới trong thực hành dân chủ.

Lần đầu tiên trong lịch sử gần 70 năm, hôm qua (11/6) Quốc hội đã công bố kết quả lấy phiếu tín nhiệm đối với 47 chức danh do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn. Nhiều đại biểu Quốc hội và cử tri đánh giá “kết quả tương đối sát thực tế, đáp ứng sự mong đợi của đa số cử tri”. Thông qua lần lấy phiếu tín nhiệm này cho thấy rõ hơn về quyền giám sát của nhân dân.

Với đại biểu Quốc hội, đây được coi là trách nhiệm nặng nề, chứa đựng trong lá phiếu cả cái tâm, cái tầm, cả kỳ vọng nhưng cũng là “sức ép” của cử tri và nhân dân cả nước. Qua cuộc lấy phiếu đầu tiên này, mỗi vị đại biểu sẽ có thêm kinh nghiệm tiếp cận, phân tích thông tin cho những lần bỏ phiếu tiếp theo.

Việc lấy phiếu tín nhiệm các chức danh cấp cao của Nhà nước thể hiện vai trò giám sát tối cao của Quốc hội với tư cách “là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất”; tiếp tục là một bước đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội để quyền lực của nhân dân được thể hiện trên thực tế và trở thành thông lệ trong các đợt sinh hoạt chính trị rộng khắp.

Kết quả lấy phiếu tín nhiệm là lần “chấm điểm” một cách tương đối chính xác để trả lời câu hỏi: Mỗi chức danh Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn đã thực hiện nhiệm vụ đạt kết quả đến đâu? Uy tín của mỗi cán bộ đang giữ trọng trách trong bộ máy nhà nước như thế nào? Đó là cơ sở quan trọng giúp mỗi người được lấy phiếu tín nhiệm “thấy được mức độ tín nhiệm của mình để phấn đấu, rèn luyện, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động; làm cơ sở để cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xem xét đánh giá, bố trí, sử dụng cán bộ”.

Lâu nay, cử tri và nhân dân cả nước đánh giá mức độ tín nhiệm những cán bộ giữ vị trí quan trọng trong bộ máy nhà nước (nhất là các Bộ trưởng, trưởng ngành) theo cách riêng của mình. Cách đánh giá đó từ những phiên chất vấn và trả lời chất vấn công khai, được phát thanh truyền hình trực tiếp; qua các buổi tiếp xúc cử tri và thông tin báo chí. Với kết quả lấy phiếu tín nhiệm vừa công bố công khai, có thể được coi là “thước đo” cụ thể nhất, góp phần quan trọng thực hiện nguyên tắc: “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”.

Cũng như việc triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4, khóa XI, việc lấy phiếu tín nhiệm các chức danh được thực hiện “từ trên xuống”; Quốc hội gương mẫu làm trước, tiếp đó sẽ đến HĐND các cấp. Nhiều đại biểu Quốc hội cho rằng, kết quả kiểm điểm phê bình, tự phê bình theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 vừa qua là một lần “đánh giá mức độ tín nhiệm” đối với cán bộ, đảng viên trong bộ máy Đảng, nhà nước, đoàn thể. Còn lần lấy phiếu tín nhiệm này, nhằm đánh giá năng lực điều hành, quản lý; đánh giá phẩm chất, đạo đức, lối sống của các vị trí chủ chốt trong bộ máy nhà nước do dân bầu. Nghị quyết Trung ương 4 và Nghị quyết 35 của Quốc hội về lấy phiếu tín nhiệm đều xác định rất rõ: “Căn cứ vào kết quả lấy phiếu, những người hai năm liền tín nhiệm thấp, không hoàn thành nhiệm vụ cần được xem xét cho thôi giữ chức vụ, không chờ hết nhiệm kỳ, hết tuổi”. Tinh thần dứt khoát và thống nhất đó, đều thể hiện sự giám sát của nhân dân đối với hoạt động của đảng viên và tổ chức Đảng trong các cơ quan quyền lực nhà nước.

Lấy phiếu tín nhiệm được thực hiện định kỳ hàng năm, không chỉ “đề cao trách nhiệm của đại biểu Quốc hội, bảo đảm tiêu chuẩn của người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn; bảo đảm sự ổn định và hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước, sự lãnh đạo của Đảng trong công tác cán bộ”, mà còn là một bước tiến mới trong thực hành dân chủ.

Hôm nay, Quốc hội bắt đầu phiên chất vấn – một hình thức hoạt động độc lập với lấy phiếu tín nhiệm, nhưng cũng là một cách “chấm điểm” năng lực điều hành của các “Tư lệnh ngành” và cũng là hoạt động giám sát được cử tri mong đợi. Chất vấn và lấy phiếu tín nhiệm tuy hai cách làm nhưng cùng một mục đích là: biến nguyên tắc “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và HĐND” trở thành hiện thực, bởi Quốc hội và HĐND là những cơ quan “do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân”./.

Nguyễn Ngọc Năm/VOV- Trung tâm Tin
vov.vn

Lắng nghe, tiếp thu và trọng trách

(VOV) -Đa số ý kiến đều có chung mong muốn: Hiến pháp là ý chí, nguyện vọng của dân, phục vụ lợi ích của dân.

Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 đang là một trong những chủ đề “nóng” nhất, được cử tri và nhân dân cả nước cũng như kiều bào ta ở nước ngoài đặc biệt quan tâm. Trong hai ngày 3 và 4/6, Quốc hội dành toàn bộ thời gian thảo luận tại hội trường về dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992, được phát thanh, truyền hình trực tiếp để cử tri theo dõi. Đây là đợt sinh hoạt chính trị, pháp lý rộng lớn, dân chủ và sôi nổi nhất từ trước tới nay với hàng triệu ý kiến góp ý tâm huyết của các tầng lớp nhân dân.

Lịch sử lập hiến Việt Nam qua 4 bản Hiến pháp, dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 được tổ chức lấy ý kiến nhân dân một cách rộng rãi nhất, ý kiến nhiều chiều nhất. Chỉ trong vòng 4 tháng, đã có trên 26 triệu lượt ý kiến góp ý của các tầng lớp nhân dân, hơn 28.000 hội nghị, hội thảo, tọa đàm được tổ chức.

Hàng chục vạn bản dự thảo được các đơn vị, địa phương in ấn, phát hành rộng rãi đến từng hộ dân như ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Hàng nghìn bài báo, tham luận, phát biểu, phỏng vấn, tin tức liên quan đến góp ý cho dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 được đăng tải trên các loại hình báo chí.

Không ai có thể phủ nhận sự quan tâm đặc biệt của các tầng lớp nhân dân đối với dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992. Một vị nguyên là lãnh đạo cấp cao nhận xét: “Chưa bao giờ việc lắng nghe, tiếp thu ý kiến nhân dân lại có kết quả đáng chú ý như vậy. Đây là một bước tiến mới về thực hành dân chủ”.

Đó cũng là sự kế thừa trong việc hoàn thiện hiến pháp kể từ khi xây dựng bản Hiến pháp đầu tiên ở nước ta năm 1946. Mặc dù trong hoàn cảnh “thù trong giặc ngoài” vô cùng khó khăn, chính quyền cách mạng còn non trẻ, nhưng bản dự thảo Hiến pháp 1946 đã được chính thức công bố trên báo in và gửi đến các làng, xã để thu thập ý kiến nhân dân.

Thông cáo của Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hòa nêu rõ: “Muốn cho tất cả nhân dân Việt Nam dự vào việc lập hiến của nước nhà nên Chính phủ công bố bản dự án Hiến pháp này để mọi người được đọc kỹ càng và tự do bàn bạc, phê bình”.

Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 thu nhận được nhiều ý kiến nhân dân là nhờ trình độ dân trí được nâng cao so với trước đây, cùng với sự bùng nổ của truyền thông và các mạng xã hội. Đặc biệt, người dân đã nhận thức rõ hơn về một bản Hiến pháp dân chủ với nguyên tắc “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”; về các quyền cơ bản của họ được ghi nhận, trong đó có quyền sống, quyền lao động, học tập, làm việc, quyền được pháp luật bảo vệ và quyền mưu cầu hạnh phúc. Đó cũng chính là trí tuệ, khát vọng độc lập, tự do, hòa bình và phát triển của nhân dân Việt Nam.

Nhiều ý kiến tâm huyết từ các vị tướng lĩnh từng vào sinh ra tử; từ các nhà khoa học dày công nghiên cứu, chắt lọc tinh hoa Hiến pháp các nước trên thế giới, đến tầng lớp doanh nhân, những cán bộ nghỉ hưu, công nhân, nông dân, tiểu thương và lực lượng vũ trang … Có những ý kiến khác nhau về một vấn đề trong dự thảo sửa đổi Hiến pháp, nhưng đa số đều có chung mong muốn: Hiến pháp là ý chí, nguyện vọng của dân, phục vụ lợi ích của dân.

Con số 26 triệu lượt ý kiến góp ý vào dự thảo sửa đổi Hiến pháp chắc chắn chưa hết, nên việc tập hợp, tiếp thu và chọn lọc cần hết sức tỉ mỉ, công phu để có được kết quả tốt nhất. Bởi thực tế chứng minh, đây là diễn đàn rộng rãi để các ý kiến được trao đổi, tranh luận, tìm ra lý lẽ thuyết phục nhất. Chính bởi vậy, tại phiên họp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội gần đây, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng đã ba lần yêu cầu Ban soạn thảo “phải thật lòng trong tổng hợp, lắng nghe, tiếp thu góp ý của dân”.

Còn Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong bản Tổng hợp kiến nghị của cử tri trình bày tại phiên khai mạc kỳ họp thứ 5: “Cử tri kiến nghị Ban soạn thảo tiếp thu nghiêm túc trong quá trình lấy ý kiến góp ý cho dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992. Nếu điểm nào không tiếp thu thì Ban soạn thảo cũng phải lý giải rõ cho người dân được biết, những vấn đề có ý kiến khác nhau cần tiếp tục thảo luận, làm rõ”.

Quốc hội, Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 và các Đại biểu Quốc hội khóa 13 đang gánh vác một trọng trách hết sức nặng nề, nhưng cũng rất vẻ vang. Đó là thay mặt cử tri và nhân dân cả nước sửa đổi Hiến pháp 1992 với rất nhiều nội dung mới. Điều đó đòi hỏi bản lĩnh, trí tuệ, sự lắng nghe và kỹ năng tiếp thu ý kiến của các đại biểu để cho ra đời một bản Hiến pháp có chất lượng, thể hiện đúng nguyện vọng của đại đa số cử tri và nhân dân cả nước./.

Ngọc Năm/VOV-Trung tâm tin
vov.vn

Tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt

Trung Tướng Nguyễn Văn Thanh (Chính Ủy Quân Chủng Phòng Không – Không Quân)
Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam ra đời từ các phong trào đấu tranh của quần chúng nhân dân, được Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh tổ chức xây dựng, lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện, nhằm bảo vệ lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, vì độc lập dân tộc và CNXH bằng bạo lực vũ trang.

Thời gian qua, lợi dụng quá trình đóng góp ý kiến vào bản Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992, nhiều cá nhân, tổ chức, đối tượng thù địch trong và ngoài nước đã đưa ra những ý kiến, quan điểm sai trái, thậm chí đi ngược lại với lợi ích của quốc gia, dân tộc như: Góp ý đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đòi bỏ Điều 4 của bản Dự thảo Hiến pháp 1992, đòi Việt Nam thực hiện chế độ đa nguyên, đa đảng; đòi tam quyền phân lập; đòi tư hữu hóa đất đai, các nguồn tài nguyên thiên nhiên; họ đòi “phi chính trị hóa” các lực lượng vũ trang nhân dân,… trong đó luận điệu “phi chính trị hóa” quân đội được chúng xác định là một nội dung trọng tâm để chống phá Đảng Cộng sản và Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam.

Những người ủng hộ quan điểm này còn cho rằng: Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ có kinh nghiệm lãnh đạo đất nước trong chiến tranh, không có kinh nghiệm và năng lực lãnh đạo xây dựng, phát triển đất nước trong thời bình; họ cho rằng: Đảng đã “hoàn thành sứ mệnh cao cả”, nay nên trao lại quyền lãnh đạo đất nước cho “lực lượng dân chủ cấp tiến”.

Thực hiện nội dung cơ bản này, các thế lực thù địch dùng nhiều ngón đòn và các chiêu bài khác nhau, với nhiều giọng điệu khác nhau, khi thì đứng hẳn về phía đối lập ra sức và trực diện chống phá, khi thì như là “người trong cuộc” thể hiện “thiện chí khách quan” tham gia góp ý vào dự thảo sửa đổi Hiến pháp, họ cố gắng lôi kéo, tìm kiếm, “khuyên nhủ” mọi người nên thế này, thế khác.

Sự thật, từ những năm 90 của thế kỷ XX, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động luôn thực hiện âm mưu “phi chính trị hóa” quân đội, đây là một thủ đoạn trong chiến lược “diễn biến hòa bình”, nhằm tước bỏ sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, làm cho quân đội “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” mất phương hướng, mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, xa rời bản chất giai cấp công nhân, dẫn đến suy yếu về chính trị, tiến tới làm cho quân đội bị vô hiệu hóa.

Mục tiêu “phi chính trị hóa” quân đội của các thế lực thù địch không có gì khác là muốn làm cho quân đội ta dần dần biến chất, từ quân đội của nhân dân, mang bản chất của giai cấp công nhân, trở thành một đội quân phản bội lại lợi ích của Đảng, của nhân dân, bảo vệ cho lợi ích của các tầng lớp, giai cấp tư sản.

Để thực hiện mục tiêu “phi chính trị hóa” quân đội, chúng tập trung phủ nhận học thuyết Mác-Lênin về giai cấp và đấu tranh giai cấp, xuyên tạc tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng về quân sự, quốc phòng, an ninh, về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân. Chúng rêu rao: “Quân đội phải là một lực lượng trung lập”; “Quân đội phải đứng ngoài chính trị”. Tuy nhiên, thực tiễn khẳng định: Không có một quân đội nào “đứng ngoài chính trị”, là “trung lập”.

Cả lý luận và thực tiễn cho chúng ta thấy những bài học rất sâu sắc về vấn đề này. Đối với nước ta hiện nay, các thế lực thù địch tiếp tục vận dụng “bài học kinh nghiệm” đó. Phải chăng là thủ đoạn thực hiện tinh vi hơn, hình thức đa dạng và khó lường hơn, tính chất nguy hiểm hơn, với ảo tưởng sẽ có được một kết quả tương tự. Âm mưu thật thâm độc! Chỉ có điều Việt Nam hoàn toàn khác, mà họ đang cố tìm cách xâm nhập.

Mặc dù vậy, họ không dễ dàng từ bỏ âm mưu; trái lại, bằng mọi thủ đoạn, họ đã và đang thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nội bộ ta, “phi chính trị hóa” quân đội. Nhưng họ có đạt được mục tiêu đó không, nhân tố quyết định không thuộc về những kẻ phản bội đất nước mà do ta.

Quân đội ta là quân đội cách mạng, quân đội của dân, do dân và vì nhân dân, gắn bó “máu thịt” với Đảng, với nhân dân. Mối quan hệ đó được tôi luyện bằng máu và nước mắt qua mấy chục năm chống kẻ thù xâm lược trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc.

Vì thế, bất cứ thế lực nào, dù mạnh và hiểm độc đến đâu cũng không thể chia rẽ được quân đội với Đảng, Nhà nước và nhân dân. Đó là điều tất yếu, đã, đang và sẽ tiếp tục được khẳng định.

Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam ra đời từ các phong trào đấu tranh của quần chúng nhân dân, được Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh tổ chức xây dựng, lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện, nhằm bảo vệ lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, vì độc lập dân tộc và CNXH bằng bạo lực vũ trang.

Quân đội ta không có mục tiêu chiến đấu nào khác là độc lập dân tộc và CNXH để đem lại tự do, bình đẳng và hạnh phúc cho nhân dân lao động. Đó cũng là mục tiêu chính trị cao cả của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Quân đội ta không chỉ mang bản chất cách mạng của giai cấp công nhân mà còn mang đầy đủ tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc. Bản chất của QĐND Việt Nam thể hiện rõ nét ở sự thống nhất về tính đảng, tính giai cấp, tính nhân dân và tính dân tộc, được biểu hiện sinh động ở lý tưởng chiến đấu, cơ sở chính trị-xã hội, cơ chế lãnh đạo, chỉ huy và chức năng, nhiệm vụ của quân đội.

Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức đảng trong quân đội. Đây là vấn đề có ý nghĩa quyết định làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn “phi chính trị hóa” quân đội của các thế lực thù địch.

Thực hiện vấn đề này, trước hết phải luôn giữ vững nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với QĐND Việt Nam; tiếp tục quán triệt sâu sắc và thực hiện nghiêm túc Nghị quyết 51 của Bộ Chính trị (khóa IX) về hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng, thực hiện chế độ một người chỉ huy, gắn với thực hiện chế độ chính ủy, chính trị viên trong QĐND Việt Nam.

Đồng thời, quán triệt sâu sắc và thực hiện nghiêm túc, hiệu quả Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 BCH Trung ương (khóa XI) về “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”; không ngừng chăm lo xây dựng các tổ chức đảng các cấp trong quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức; kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện tiêu cực, suy thoái về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống; những biểu hiện lệch lạc về chính trị trong đội ngũ cán bộ, đảng viên; tiếp tục quán triệt sâu sắc và tổ chức thực hiện tốt cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”.

Qua đó, xây dựng tổ chức đảng các cấp trong quân đội thật sự trong sạch, vững mạnh, có năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu cao, lãnh đạo đơn vị hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao trong mọi tình huống.

Để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội thời kỳ hội nhập quốc tế, trước hết cần tập trung cụ thể hóa và tổ chức thực hiện nghiêm túc cơ chế, hệ thống chế định và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang nói chung, của QĐND Việt Nam nói riêng. Cần nhận thức sâu sắc hơn về vai trò, chức năng, nhiệm vụ của quân đội trong thời kỳ mới; kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu “phi chính trị hóa” quân đội, đòi đa nguyên, đa đảng, coi việc xây dựng quân đội chỉ để dùng trong chiến tranh và lo đối phó với chiến tranh.

Tư duy mới về bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN đòi hỏi phải sử dụng hợp lý và phát huy tối ưu vai trò của quân đội trong đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình”, trong xử trí các tình huống; ngăn chặn, đẩy lùi nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ cán bộ, đảng viên. Thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ chính trị của quân đội, sẵn sàng đối phó thắng lợi với mọi tình huống phức tạp có thể xảy ra, bảo đảm cho đất nước luôn chủ động về chiến lược.

Thực hiện điều này cần có những quy định thật rõ ràng, cụ thể về trách nhiệm và thẩm quyền của BCH Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Quân ủy Trung ương, của Tổng Bí thư đồng thời là Bí thư Quân ủy Trung ương, của Chủ tịch nước đồng thời là Thống lĩnh các lực lượng vũ trang đối với các vấn đề tổ chức và hoạt động của các lực lượng vũ trang nhân dân.

Đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn “phi chính trị hóa” quân đội, tiếp tục tăng cường và giữ vững nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với quân đội là vấn đề chiến lược có tính kế thừa những bài học kinh nghiệm trong đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.

Trong quá trình lãnh đạo, Đảng cần tích cực tổng kết thực tiễn kết hợp với nghiên cứu lý luận để nhận thức ngày càng sâu sắc hơn vai trò lãnh đạo của Đảng, không ngừng bổ sung, hoàn thiện và nâng cao hiệu lực cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, xã hội nói chung và QĐND Việt Nam nói riêng trong thời kỳ mới

N.V.T.
cand.com.vn

Điều đầu tiên trong 6 điều Bác Hồ dạy Công an nhân dân là xuất phát điểm, phạm trù gốc

PGS.TS Trần Minh Trưởng – Viện Trưởng Viện Hồ Chí Minh, Học Viện CT – HCQG Hồ Chí Minh
Trong 6 điều Bác Hồ dạy CAND, không phải ngẫu nhiên, điều đầu tiên Bác Hồ căn dặn các chiến sĩ Công an: “Đối với tự mình, phải cần, kiệm, liêm, chính”, đó là yêu cầu đối với chính mình, là xuất phát điểm, là phạm trù gốc, là cơ sở để thực hiện tốt các nhiệm vụ khác.

Chủ tịch Hồ Chí Minh – vị lãnh tụ vĩ đại của Đảng ta và của dân tộc ta, người cha thân yêu của các lực lượng vũ trang. Sinh thời Người nói: “Công an và Quân đội là hai cánh tay của nhân dân, của Đảng, của Chính phủ, của vô sản chuyên chính”. Chính vì vậy, ngay từ khi nước nhà mới giành được chính quyền, Người đã quan tâm đến việc thành lập, giáo dục, rèn luyện và luôn dõi theo từng bước trưởng thành của lực lượng Công an cách mạng.

Lựa chọn những cán bộ trung thành với sự nghiệp của Đảng, có năng lực và nhiệt huyết cách mạng nhất để đào tạo thành lực lượng Công an tinh nhuệ, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn nhắc nhở mỗi cán bộ, chiến sĩ (CBCS) Công an phải ý thức đầy đủ vị trí và trách nhiệm của mình trước nhân dân, trước Đảng và Chính phủ. Người chỉ rõ: “Đối với nhân dân, đối với Đảng, với cách mạng XHCN, trách nhiệm của Công an rất lớn, rất nặng nề”, và: “Nhiệm vụ công an thì nhiều, nhưng nói tóm tắt là bảo vệ sự nghiệp XHCN”.

Để hoàn thành được nhiệm vụ nặng nề và vẻ vang đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh đến việc rèn luyện đạo đức của người CAND. Theo Người, tư cách đạo đức là điều kiện tiên quyết đảm bảo cho lực lượng CAND hoàn thành nhiệm vụ trước Đảng, đáp ứng được lòng tin cậy của nhân dân.

Vì lẽ đó, trong mọi hoàn cảnh, lúc đến thăm các đơn vị Công an cũng như khi viết thư, gửi điện thăm hỏi CBCS Công an, Bác Hồ luôn động viên, nhắc nhở cán bộ Công an phải thường xuyên rèn luyện tư cách, phẩm chất của người Công an cách mạng. Trong đó, tiêu biểu nhất là bức thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi đồng chí Hoàng Mai – Giám đốc Sở Công an Khu XII, ngày 11/3/1948, nêu rõ 6 lời dạy của Người.

Lời dạy của Người đã trở thành cẩm nang chỉ dẫn cho tất cả CBCS lực lượng CAND đi đến mọi thắng lợi trong suốt chặng đường cách mạng đã qua và sẽ còn soi sáng, chỉ đường cho lực lượng Công an trưởng thành, phát triển trong giai đoạn cách mạng mới.

Bác Hồ đến thăm cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát nhân dân Hà Nội nhân dịp Tết Quý Mão (1963). (Ảnh: Tư liệu).

Trong 6 điều Bác Hồ dạy CAND, không phải ngẫu nhiên, điều đầu tiên Bác Hồ căn dặn các chiến sĩ Công an: “Đối với tự mình, phải cần, kiệm, liêm, chính”, đó là yêu cầu đối với chính mình, là xuất phát điểm, là phạm trù gốc, là cơ sở để thực hiện tốt các nhiệm vụ khác.

Người cán bộ Công an khi đã hội tụ đủ phẩm chất: Cần, kiệm, liêm, chính, sẽ luôn nêu cao đức tính tôn trọng, giữ gìn tài sản và của cải của nhân dân. Đặc biệt là: “Không tham địa vị, không tham tiền tài, không tham sung sướng, không ham người tâng bốc mình. Vì vậy mà quang minh chính đại, không bao giờ hủ hoá. Chỉ có một thứ ham là: ham học, ham làm, ham tiến bộ”.

Người cán bộ Công an khi thật sự thấm nhuần lời dạy của Bác Hồ: Cần, kiệm, liêm, chính sẽ đặt việc công lên trên, lên trước việc tư, việc nhà. Đã phụ trách việc gì thì quyết làm cho được, cho đến nơi, đến chốn, không sợ khó khăn, nguy hiểm, việc thiện thì dù nhỏ mấy cũng làm, việc ác thì dù nhỏ mấy cũng tránh: “Vì nước quên thân, vì dân phục vụ”.

Hồ Chí Minh chỉ ra rằng: “Tự mình phải chính trước, mới giúp được người khác chính. Mình không chính mà muốn người khác chính là vô lý”. Do đó Người luôn đề cao phương pháp giáo dục bằng việc nêu gương, Người nói, đối với các dân tộc phương Đông giàu tình cảm, một tấm gương tốt còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền.

Để trở thành tấm gương, đối với lực lượng Công an, công cụ sắc bén của Đảng và Nhà nước, lực lượng trọng yếu trong việc thực thi nhiệm vụ bảo vệ chính quyền và sự bình yên của nhân dân, do đó mỗi CBCS Công an trước hết phải có cái tâm trong sáng, đó chính là đạo đức cách mạng. Đối với cá nhân mỗi chiến sĩ Công an, phải biết được bản thân mình, chỗ mạnh chỗ yếu của mình để không ngừng học tập, rèn luyện: “Phải luôn luôn thi đua nhau trong công tác từ trên xuống dưới, mọi người phải cố gắng nghiên cứu, học tập. Ta chớ giấu dốt, chớ xấu hổ học hỏi lẫn nhau, học hỏi người ngoài”. Kiên trì học tập, thường xuyên học tập, học mọi lúc, mọi nơi, nắm vững chuyên môn, nghiệp vụ, chính là gốc của việc nâng cao trí tuệ, là cơ sở để có thể chiến thắng kẻ thù, dù chúng có âm mưu xảo quyệt đến đâu.

Mỗi cán bộ Công an phải biết tự rèn luyện mình, nhằm nâng cao phẩm chất đạo đức của người cán bộ cách mạng, kiên quyết quét sạch tư tưởng cá nhân chủ nghĩa. Kiên quyết đấu tranh gạt bỏ những tính toán vụ lợi, tư tưởng chia rẽ, bè phái, ích kỉ, nhỏ nhen ra khỏi đời sống sinh hoạt hằng ngày.

Lực lượng Công an phải nâng cao tinh thần kỷ luật, nghiêm túc đấu tranh bằng biện pháp phê bình và tự phê bình một cách thẳng thắn, xây dựng và trách nhiệm; coi tự phê bình và phê bình là phương thuốc hữu hiệu nhất để trị căn bệnh nguy hiểm nhất mà sinh thời Hồ Chí Minh gọi là “giặc nội xâm” tức là chủ nghĩa cá nhân, kẻ thù giấu mặt có ở trong tất cả chúng ta. Đồng thời thường xuyên lắng nghe, tiếp thu ý kiến của nhân dân, thực hành dân chủ ở mọi lúc, mọi nơi.

Tóm lại, điều đầu tiên Hồ Chí Minh dạy lực lượng Công an cách mạng là phải nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, kiên quyết loại trừ thứ “giặc nội xâm” có ở trong mỗi con người, tích cực học hỏi để trở thành người cán bộ vừa có đức, vừa có tài.

Bởi vì như Người nói: “Muôn việc thành? công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém. Đó là một chân lý nhất định”. Cho nên: Cần, kiệm, liêm, chính là những tiêu chí, phẩm chất đạo đức đầu tiên và quan trọng nhất mà mỗi người cán bộ Công an phải có, làm được điều đầu tiên này, làm cơ sở để thực hiện tốt 5 điều sau đó.

Tất nhiên, khi dạy lực lượng CAND điều đầu tiên: “Đối với tự mình, phải cần, kiệm, liêm, chính”, tức là “ít lòng ham muốn vật chất”, không phải Bác Hồ không biết đến những cám dỗ vật chất đời thường và những tác động mọi mặt của đời sống xã hội đến tâm lý, tình cảm của người chiến sĩ. Nhưng người cán bộ cách mạng nói chung và chiến sĩ Công an nói riêng, phải khác người bình thường ở chỗ, ngoài những ham muốn vật chất nhất thời, họ có trọng trách theo đuổi và thực hiện mục tiêu cách mạng cao cả.

Trong bức thư gửi luật sư Vũ Trọng Khánh – Giám đốc Tư pháp Liên khu X, Bác Hồ đã viết: “Ai chẳng muốn no cơm ấm áo. Nhưng sinh hoạt vật chất hết đời người là hết, còn tiếng tăm xấu hay tốt còn truyền đến ngàn đời sau”.

Tháng 9/1945, trên đường từ Việt Bắc trở về Hà Nội, Bác Hồ ghé thăm CBCS một đơn vị quân đội đang dự lớp học “Tám chính sách, mười điều kỷ luật”, chuẩn bị vào tiếp quản Thủ đô. Người nhắc nhở các chiến sĩ yêu quý của mình phải vững phẩm chất của người chiến sĩ cách mạng, cảnh giác trước những cám dỗ vật chất nơi đô thị. Người chỉ rõ hai thứ giặc thời bình: tham ăn ngon, thích các hàng xa xỉ. Lương không đủ, lấy ở đâu? Một là ăn cắp, hai là bị mua chuộc! Bom đạn không ngã mà lại ngã vì đồng tiền, gái đẹp. Muốn chiến thắng, theo Người, phải dùng 4 viên thuốc đặc trị: Cần, kiệm, liêm, chính.

Cần, kiệm, liêm, chính và tận tụy với công việc luôn là phẩm chất hàng đầu của mỗi cán bộ chiến sỹ Công an. (Trong ảnh: Công an quận Hoàn Kiếm – Hà Nội hướng dẫn một tiệm vàng lắp thiết bị cảnh báo an ninh) (Ảnh: Duy Hiển).

65 năm đã trôi qua, kể từ ngày Bác Hồ gửi thư cho lực lượng CAND và 6 điều Người căn dặn CBCS Công an, những lời dạy đó đến nay vẫn còn nguyên giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc.

Trong bối cảnh tình hình hiện nay, các thế lực thù địch, chống đối vẫn luôn rình rập, thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, tuyên truyền xuyên tạc, chống phá đường lối lãnh đạo của Đảng và chế độ XHCN, gây mất ANTT, phương hại đến chủ quyền quốc gia và đời sống bình yên của nhân dân.

Mặt khác, những vấn đề tiêu cực nảy sinh từ mặt trái của cơ chế thị trường, buộc CBCS CAND đang ngày đêm phải đối mặt với sự thật khắc nghiệt của nó. Kẻ địch với đủ các loại tội phạm mới, tham ô, tham nhũng, đục khoét ngân sách nhà nước, làm phai nhạt niềm tin của nhân dân.

Bên cạnh đó, cùng với sự phát triển như vũ bão của các ngành khoa học, công nghệ, những loại tội phạm mới cũng hình thành. Hơn bao giờ hết, người cán bộ Công an phải chịu đựng những thử thách ghê gớm bởi sự cám dỗ, mua chuộc vật chất, cài bẫy lôi kéo cán bộ vào vòng sa đọa, tội lỗi, đòi hỏi người CAND chẳng những phải có đạo đức trong sáng: Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, mà còn phải có trình độ chuyên môn cao, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ mới.

Học tập, quán triệt 6 lời dạy của Bác, lực lượng CAND, mỗi CBCS Công an phải ra sức rèn luyện đạo đức, liên hệ mật thiết với nhân dân, dựa vào dân để xây dựng thế trận lòng người, đoàn kết với đồng chí, đồng đội, không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn để có thể chiến thắng bất cứ kẻ thù nào, nhất là những cám dỗ vật chất, những “viên đạn bọc đường” của chủ nghĩa cá nhân.

Ghi nhớ và thực hiện đúng 6 điều Bác dạy, lực lượng CAND sẽ tiếp tục phát huy những thành tích đã đạt được để tiến lên giành những thắng lợi mới, xứng đáng với niềm tin của Đảng và nhân dân

T.M.T.
cand.com.vn

Bàn về phẩm chất tuyệt đối trung thành với Đảng, kính trọng, lễ phép với nhân dân – đối với việc xây dựng “Tư cách người Công an cách mệnh”

PGS.TS. Đỗ Ngọc Ninh (Học Viện Xây Dựng Đảng)
Trong lịch sử đấu tranh giành độc lập và tự do của dân tộc Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh là hiện thân tinh hoa của văn hoá dân tộc và nhân loại. Người đã để lại cho Đảng và dân tộc ta tài sản tinh thần to lớn – Tư tưởng Hồ Chí Minh.

Trong quá trình giáo dục, rèn luyện Đảng ta và lãnh đạo cách mạng Việt Nam, nhất là từ khi Đảng ta trở thành đảng cầm quyền, mỗi lời nói, mỗi việc làm của Người đều tác động mạnh mẽ đến cán bộ, đảng viên và nhân dân. Đó là sự thể hiện những phẩm chất đạo đức cơ bản của đạo đức cách mạng: tuyệt đối trung thành với Đảng; tận tụy, kính trọng và lễ phép với nhân dân, yêu thương con người; cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; tinh thần quốc tế trong sáng.

CAND là một công cụ chuyên chính trọng yếu của Đảng và Nhà nước ta. Trong điều kiện hiện nay, để xứng đáng với vai trò đó, lực lượng CAND phải được xây dựng trong sạch, vững mạnh, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại.

Việc chăm lo giáo dục, rèn luyện cho CBCS về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, trước hết là trung thành tuyệt đối với Đảng, Nhà nước và kính trọng, lễ phép với nhân dân là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Để phẩm chất này, thực sự là một nội dung cốt yếu của tư cách CBCS Công an trong điều kiện hiện nay, xin trao đổi một số ý kiến về giải pháp thực hiện như sau:

Thứ nhất, nhận thức sâu sắc, có quyết tâm chính trị cao trong rèn luyện phẩm chất tuyệt đối trung thành với Đảng, Nhà nước Việt Nam XHCN.

“Đối với Chính phủ, phải tuyệt đối trung thành” là một trong 6 điều Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy CAND, được nêu lên trong thời điểm Đảng ta tạm thời không công khai hoạt động. Vì vậy, tuyệt đối trung thành với Chính phủ đã bao hàm sự tuyệt đối trung thành với Đảng. Đây là biểu hiện phẩm chất hàng đầu của người cộng sản, người cách mạng, đi theo lý tưởng của Đảng.

Bác Hồ đến thăm và chúc Tết cán bộ, chiến sỹ Cảnh vệ (Xuân Quý Mão 1963).

Trong điều kiện đấu tranh giành chính quyền, kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, mỗi người dân là một chiến sĩ với khẩu hiệu hành động “Tất cả để chiến thắng” với phẩm chất tuyệt đối trung thành với Đảng, hành động chiến đấu, công tác là hành động “vì nước quên thân”, “vì nhân dân phục vụ”, không sợ hy sinh, gian khổ.

Để phẩm chất trung thành với Đảng được thể hiện bằng hành động cách mạng thực tiễn trong điều kiện hiện nay, CBCS Công an cần học tập một cách nghiêm túc, nhận thức sâu sắc nội dung tấm gương phẩm chất đạo đức “Suốt đời phấn đấu quên mình vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì ấm no, hạnh phúc của nhân dân” trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.

Từ đó, có nhận thức đúng đắn, sâu sắc phẩm chất vì nước quên thân trong điều kiện hiện nay: Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; có sự nhất trí cao, niềm tin sắt đá vào đường lối, nghị quyết và sự lãnh đạo của Đảng…

Thứ hai, thường xuyên rèn luyện tinh thần gương mẫu, sự cần cù, bền bỉ trong công tác, chiến đấu, gắn bó mật thiết với nhân dân.

Tinh thần gương mẫu, sự cần cù, bền bỉ trong công tác, chiến đấu là một trong những nội dung cơ bản của phẩm chất đạo đức người Công an cách mạng. Điều này chỉ có thể được hình thành, củng cố và phát triển qua học tập, rèn luyện bền bỉ, lâu dài trong thực tiễn học tập, công tác và gắn bó mật thiết với nhân dân.

Qua đó, mỗi CBCS gần dân, hiểu dân và thương yêu nhân dân hơn, học tập được nhiều điều bổ ích từ nhân dân, được nhân dân rèn giũa phẩm chất, đạo đức cách mạng, việc kính trọng, lễ phép với nhân dân ngày càng phát triển và củng cố.

Để rèn luyện tinh thần gương mẫu, sự cần cù, bền bỉ trong công tác, chiến đấu, kính trọng, lễ phép với nhân dân, mỗi CBCS cần xác định động cơ, thái độ đúng đắn trong học tập, công tác và trong tiếp xúc, quan hệ với nhân dân; chấp hành nghiêm chỉnh sự phân công của tổ chức; chủ động, sáng tạo vượt qua khó khăn thách thức, nhất là những tác động của mặt trái kinh tế thị trường, những cám dỗ của vật chất; đặc biệt cảnh giác với những luận điệu phản động và những “viên đạn bọc đường” của các thế lực thù địch, tuyên truyền, giáo dục nhân dân cảnh giác với những âm mưu, thủ đoạn ấy.

Đồng thời, cần hành động cụ thể tỏ rõ sự gắn bó mật thiết với nhân dân, dựa vào dân để tiến hành công việc, vì nhân dân phục vụ, nguyện làm “người lãnh đạo, người đày tớ thật trung thành của nhân dân”.

Sinh viên Học viện ANND nỗ lực học tập, rèn luyện để trở thành những sỹ quan giỏi chuyên môn, tận tụy và trung thành. (Ảnh: Duy Hiển).

Thứ ba, nâng cao nhiệt tình cách mạng đi liền với ra sức học tập nâng cao trình độ trí tuệ, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao là thước đo quan trọng hàng đầu phẩm chất tuyệt đối trung thành với Đảng, kính trọng, lễ phép với nhân dân

Trách nhiệm, ý chí quyết tâm hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao là sự thể hiện phẩm chất, đạo đức tuyệt đối trung thành với Đảng, kính trọng, lễ phép với nhân dân của CBCS Công an.

Trách nhiệm, ý chí quyết tâm ấy phải được biến thành nhiệt tình cách mạng trong giai đoạn hiện nay. Nhiệt tình cách mạng sẽ thôi thúc, cổ vũ CBCS dồn trí tuệ, sức lực vượt qua khó khăn gian khổ, thách thức quyết liệt, thắng không kiêu, bại không nản.

Trước diễn biến phức tạp của tình hình chính trị thế giới và sự chống phá quyết liệt, điên cuồng của các thế lực thù địch, những biến đổi phức tạp và khó khăn tạm thời của đất nước hiện nay, mỗi CBCS Công an cần có niềm tin sắt đá vào sự lãnh đạo của Đảng, thắng lợi của công cuộc đổi mới, sự tất thắng của CNXH, từ đó có suy nghĩ và hành động đúng đắn theo quan điểm, đường lối của Đảng, cùng toàn Đảng, toàn dân vượt qua khó khăn thách thức đưa công cuộc đổi mới tiếp tục phát triển.

Để phẩm chất tuyệt đối trung thành với Đảng, kính trọng, lễ phép với nhân dân được củng cố và phát triển trong điều kiện hiện nay, mỗi CBCS còn phải có trình độ trí tuệ và phải biết đưa trình độ trí tuệ đó vào hoạt động hằng ngày, thể hiện bằng các hoạt động đạt kết quả cao về thực hiện nhiệm vụ được giao. Đó là, tri thức về khoa học của Chủ nghĩa Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng; khoa học xã hội – nhân văn, khoa học kỹ thuật, nghiệp vụ chuyên ngành, kinh tế thị trường, luật lệ quốc tế…

Nhiệt tình cách mạng kết hợp với trình độ trí tuệ của mỗi CBCS Công an phải được thể hiện bằng hành động thực tế hoàn thành tốt nhiệm vụ được Đảng và nhân dân giao cho, là thước do quan trọng hàng đầu phẩm chất tuyệt đối trung thành với Đảng, kính trọng, lễ phép với nhân dân của mỗi CBCS.

Thứ tư, xây dựng các tổ chức đảng và đơn vị cơ sở trong CAND trong sạch vững mạnh, có năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu cao, đủ sức định hướng suy nghĩ và hành động cho CBCS.

Để phẩm chất tuyệt đối trung thành với Đảng, kính trọng, lễ phép với nhân dân được thể hiện bằng hành động cách mạng thực tiễn phụ thuộc rất lớn và được quyết định chủ yếu bởi mỗi cán bộ, đảng viên được chuẩn bị đầy đủ các điều kiện cần thiết, song các tổ chức đảng và đơn vị cơ sở cũng có vai trò và trách nhiệm không nhỏ.

Hoạt động của CBCS gắn liền với hoạt động của cơ quan, tổ chức đảng ở nơi đảng viên học tập, công tác và một phần gắn với tổ chức đảng nơi cư trú. Các tổ chức đảng, nhất là trong CAND trong sạch, vững mạnh, có năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu cao sẽ định hướng đúng đắn sự suy nghĩ và hành động của mỗi CBCS, phân công công việc đúng sở trường, năng lực, thế mạnh của mỗi người; lãnh đạo các tổ chức, đoàn thể ở đơn vị hoạt động có hiệu quả; tổ chức và duy trì các phong trào cách mạng của quần chúng; tạo điều kiện thuận lợi và động viên CBCS tự tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất, đạo đức cách mạng…

Đây là môi trường thuận lợi để CBCS rèn luyện phẩm chất đạo đức tuyệt đối trung thành với Đảng, kính trọng và lễ phép với nhân dân.

Với trách nhiệm cao cả trước vận mệnh của đất nước và dân tộc, tình cảm thiêng liêng đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, mỗi CBCS CAND các cấp đã xác định quyết tâm chính trị cao thực hiện nghiêm túc 6 điều dạy của Người đối với CAND.

Điều này, có ý nghĩa rất quan trọng đối với lực lượng CAND trong việc “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” và thực hiện Nghị quyết số 12 – NQ/TW (Hội nghị Trung ương 4, Khóa XI) về “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” trở thành nền nếp, có hiệu quả, thể hiện phẩm chất tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc, tận tụy, kính trọng và lễ phép với nhân dân; góp phần tích cực cùng toàn dân tộc phấn đấu xây dựng thành công CNXH, đưa đất nước Việt Nam từng bước tiến đến mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh

Đ.N.N.
cand.com.vn

Khi cử tri giám sát nghị trường

Kỳ họp này, lần đầu tiên Quốc hội tiến hành lấy phiếu tín nhiệm các chức danh do Quốc hội bầu, phê chuẩn. Nội dung lấy phiếu tín nhiệm đã được cụ thể hóa trong Nghị quyết của Quốc hội và các hướng dẫn thi hành, nhưng điều quan trọng nhất là làm thế nào để việc lấy phiếu đạt được mục đích, ý nghĩa đặt ra, cử tri mong muốn đại biểu Quốc hội phát huy tinh thần, trách nhiệm cao trước nhân dân, công tâm, độc lập trong chính kiến để có kết quả tín nhiệm một cách chính xác nhất.

Hôm nay (20/5), khai mạc kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XIII.

Có hai điểm mới được cử tri kỳ vọng ở kỳ họp lần này.

Thứ nhất, đó là tăng thời lượng phát thanh, truyền hình trực tiếp. Sự quan tâm của cử tri tới các phiên họp của Quốc hội, UBTV Quốc hội, các Ủy ban của Quốc hội được truyền hình, phát thanh trực tiếp, chủ đề liên quan các vấn đề nóng trong đời sống xã hội như y tế, giáo dục, giao thông vận tải, chống tham nhũng, giải quyết khiếu kiện, khiếu nại… Tại các phiên Quốc hội chất vấn, trả lời chất vấn, từ việc theo dõi trực tiếp qua truyền hình, đài phát thanh, nhiều cử tri bày tỏ chính kiến cũng như gửi câu hỏi kiến nghị tới Quốc hội, Bộ trưởng và thành viên khác của Chính phủ thông qua đường bưu điện, hộp thư điện tử, một số trường hợp nhắn tin, gọi điện trực tiếp. Thực chất, đó là kênh giám sát trực tiếp của cử tri từ hoạt động nghị trường của cơ quan quyền lực do nhân dân bầu.

Hiện diện ở những phiên chất vấn, thảo luận, giải trình trực tiếp như vậy, các thành viên do Quốc hội bầu, phê chuẩn (thành viên Chính phủ, thành viên UBTV Quốc hội, các chức danh khác) thể hiện được hai khả năng trước toàn dân: Thuyết trình và năng lực thực hiện nhiệm vụ chuyên môn. Trước các câu hỏi, chất vấn, khả năng trả lời, thuyết trình là cách “ghi điểm” tín nhiệm trong đại biểu Quốc hội và cử tri cả nước. Điều này lý giải vì sao người trả lời hay, thuyết phục, rõ ràng cũng như những vị đại biểu Quốc hội thường xuất hiện với các chất vấn nóng, gay cấn lại tạo được dấu ấn sâu đậm ở cử tri. Tuy nhiên, yếu tố thứ hai mang tính chất nội dung, đó là việc thực hiện lời hứa trước Quốc hội và cử tri ra sao. Bởi lý do này, các kỳ họp gần đây, Quốc hội đều yêu cầu các vị Bộ trưởng, trưởng ngành phải có báo cáo về việc thực hiện các nghị quyết chất vấn, trả lời chất vấn, những vấn đề đã làm được cũng như còn “nợ” kỳ sau. Tính chất đối thoại trực diện này hấp dẫn bởi nhiều tình tiết người trả lời không thể chuẩn bị trước.

Kỳ này, Quốc hội dành 9 ngày cho các phiên truyền hình, phát thanh trực tiếp, chiếm khoảng 34% thời gian kỳ họp. Đáng chú ý, ngoài các phiên truyền hình, phát thanh trực tiếp mang tính truyền thống như thảo luận tình hình kinh tế, xã hội, ngân sách Nhà nước; chất vấn và trả lời chất vấn thì Quốc hội cũng truyền hình, phát thanh trực tiếp những phiên thảo luận các dự luật quan trọng để cử tri cả nước tiện theo dõi, như thảo luận dự thảo Hiến pháp 1992 sửa đổi, dự án Luật Đất đai sửa đổi, báo cáo về việc thực hiện Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí…

Kỳ họp này, lần đầu tiên Quốc hội tiến hành lấy phiếu tín nhiệm các chức danh do Quốc hội bầu, phê chuẩn. Đây là nội dung đã được ghi trong Hiến pháp 1992, tuy nhiên sau hơn 20 năm với nhiều cố gắng, lần đầu tiên vấn đề này được hiện thực hóa tại nghị trường Quốc hội. Nội dung lấy phiếu tín nhiệm đã được cụ thể hóa trong Nghị quyết của Quốc hội và các hướng dẫn thi hành, nhưng điều quan trọng nhất là làm thế nào để việc lấy phiếu đạt được mục đích, ý nghĩa đặt ra, cử tri mong muốn đại biểu Quốc hội phát huy tinh thần, trách nhiệm cao trước nhân dân, công tâm, độc lập trong chính kiến để có kết quả tín nhiệm một cách chính xác nhất

Đăng Trường

Theo cand.com.vn
Vkyno (st)

6 điều Bác Hồ dạy Công an nhân dân – Ý nghĩa giáo dục sâu sắc, rộng lớn và bền vững

PGS. TS Nguyễn Trọng Phúc – Nguyên Viện Trưởng Viện Lịch Sử Đảng
6 điều Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên về tư cách người Công an cách mệnh đã 65 năm… Những chuẩn mực đạo đức đó của người Công an cách mạng cho đến nay vẫn có ý nghĩa giáo dục sâu sắc, bền vững và sức lan tỏa đặc biệt không chỉ trong lực lượng CAND mà trong toàn hệ thống chính trị. Cán bộ, đảng viên, công chức có thể soi vào nhiều điều trong 6 điều dạy của Bác để học tập, rèn luyện và hành động.

65 năm qua, 6 điều Bác Hồ dạy luôn là kim chỉ nam cho mọi hoạt động của lực lượng Công an nhân dân (CAND), giúp lực lượng CAND hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội trong mọi thời kỳ cách mạng, đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước. Hướng tới lễ kỷ niệm và Hội thảo 65 năm lực lượng CAND học tập, thực hiện 6 điều Bác Hồ dạy mà Bộ Công an sắp tổ chức, Báo CAND trích đăng một số bài viết về chủ đề này của các tác giả trong và ngoài lực lượng CAND.

Năm 1948, Báo Bạn dân (Nội san của Công an Khu XII) ra số Tết Nguyên đán Mậu Tý. Đồng chí Hoàng Mai, Giám đốc Công an Khu XII đã gửi số báo Tết đó biếu Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tháng 3-1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có thư gửi đồng chí Hoàng Mai. Mở đầu bức thư, Người viết:

“Bác đã nhận được thư và báo cháu gửi tặng Bác. Bác thấy có sự cố gắng, đáng hoan nghênh. Nhưng báo theo cháu nói, từ 24 đến 32 trang thì dài quá. Cần làm ngắn lại và viết những vấn đề thật thiết thực, mọi người đọc đều có thể hiểu và làm được. Như thế mới có tác dụng giúp đẩy mạnh công tác, đẩy mạnh thi đua. Trên báo, cần thường xuyên làm cho anh chị em Công an nhận rõ Công an của ta là CAND, vì dân mà phục vụ và dựa vào dân mà làm việc.

Nhân dân ta có hàng chục triệu người, có hàng mấy chục triệu tai mắt, tay, chân. Nếu biết dựa vào nhân dân thì việc gì cũng xong.

Trên tờ báo phải luôn luôn nhắc nhở anh em rèn luyện tư cách đạo đức. Tư cách của người Công an cách mệnh là:

Đối với tự mình, phải cần, kiệm, liêm, chính.
Đối với đồng sự, phải thân ái giúp đỡ.
Đối với Chính phủ, phải tuyệt đối trung thành.
Đối với nhân dân, phải kính trọng, lễ phép.
Đối với công việc, phải tận tụy.
Đối với địch, phải cương quyết, khôn khéo”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập tư cách người Công an cách mạng khi Đảng Cộng sản đã cầm quyền và Nhà nước cách mạng đã trải qua 3 năm xây dựng, phát triển và đang tổ chức sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc của toàn dân tộc và xây dựng chế độ xã hội mới. CAND là lực lượng quan trọng trong bộ máy Nhà nước cách mạng góp phần vào sự nghiệp vẻ vang đó. Công an cách mạng Việt Nam ngay từ buổi đầu xây dựng gắn liền với sự ra đời của Nhà nước cách mạng và đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cầm quyền. Vì vậy, tư cách của người Công an cách mạng thống nhất về bản chất trong tư cách của người cách mạng, người cộng sản, người cán bộ, công chức của một Nhà nước cách mạng kiểu mới – Nhà nước phục vụ nhân dân chứ không phải cai trị nhân dân.

Cách mạng Tháng Tám 1945 thắng lợi, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng cầm quyền mong muốn và quyết tâm xây dựng một Nhà nước cách mạng thật sự của dân, do dân, vì dân. Trên thực tế, Nhà nước đó đã làm được nhiều việc có lợi cho dân, song một số cán bộ, công chức đã có những lầm lỗi, khuyết điểm mà Thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 17/10/1945 gửi Ủy ban nhân dân các cấp đã thẳng thắn chỉ ra như: Trái phép, Cậy thế, Hủ hóa, Tư túng, Chia rẽ, Kiêu ngạo. Sau 2 năm cầm quyền, tháng 10-1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, nêu rõ những nội dung về xây dựng Đảng trong điều kiện Đảng cầm quyền, nhiều vấn đề về đạo đức cách mạng. Người đặc biệt nhấn mạnh Tư cách và đạo đức cách mạng, Tư cách của Đảng chân chính cách mạng với 12 điều cơ bản. Từ tư cách của một người cách mệnh đến tư cách của Đảng chân chính cách mạng là sự phát triển và thống nhất nhận thức, hành động trong tiến trình cách mạng để xây dựng một chế độ xã hội mới, bảo đảm thực hiện những mục tiêu cao cả của cách mạng…

Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm và huấn thị cho cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân vũ trang bảo vệ Thủ đô (14/2/1961).

Mỗi một giai cấp, một lực lượng chính trị, một Đảng chính trị khi cầm quyền đều chú trọng xác lập nền tảng, chế độ kinh tế và xây dựng chế độ chính trị, kiến trúc thượng tầng thích hợp. Chế độ chính trị và kiến trúc thượng tầng đòi hỏi không ngừng hoàn thiện nhà nước, pháp luật, ý thức hệ và đạo đức. Đạo đức là một trong những hình thức sớm nhất của ý thức xã hội, là bộ phận quan trọng trong kiến trúc thượng tầng xã hội. Đạo đức là những chuẩn mực xã hội điều chỉnh hành vi của con người trong quan hệ với người khác và cộng đồng (gia đình, làng xóm, giai cấp, dân tộc, quốc gia, xã hội). Mỗi một giai cấp, dân tộc có những chuẩn mực phù hợp với giai cấp, dân tộc mình và phát triển cùng với các thời đại lịch sử. Người ta căn cứ vào các chuẩn mực đó mà đánh giá hành vi của mỗi cá nhân thành viên của xã hội theo quan niệm về thiện và ác, về những điều không được làm vì vi phạm đạo đức và những gì mà mỗi người phải làm, hợp với đạo đức. Khác với pháp luật, đạo đức không làm thành văn bản pháp quy có tính bắt buộc, mà mọi người tự giác thực hiện theo sự thôi thúc của lương tâm, lòng tự trọng và được kiểm soát bởi dư luận xã hội…

Chuẩn mực đạo đức của người Công an cách mạng thống nhất với chuẩn mực đạo đức của người đảng viên cộng sản, người cán bộ, công chức của Nhà nước, đồng thời thể hiện đặc điểm riêng của công tác Công an. CAND là lực lượng có nhiệm vụ cao cả, nặng nề là bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ Đảng, Nhà nước và cuộc sống bình yên của nhân dân, chống các thế lực phản động, thù địch và các loại tội phạm, giữ gìn ANQG và TTATXH. Nhiệm vụ đó không chỉ là bảo vệ mà còn có ý nghĩa xây dựng xã hội mới, tạo dựng đời sống xã hội tốt đẹp. Ở mỗi thời kỳ cách mạng, kể cả trong hòa bình xây dựng đất nước, nhiệm vụ đó không hề giảm nhẹ, đòi hỏi người Công an cách mạng không ngừng nâng cao trình độ và rèn luyện đạo đức mới có thể hoàn thành nhiệm vụ.

6 điều Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên về tư cách người Công an cách mệnh đã 65 năm. Nhiều thế hệ cán bộ, chiến sỹ CAND trong kháng chiến chống thực dân Pháp, trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và xây dựng CNXH ở miền Bắc và trong sự nghiệp xây dựng CNXH trên cả nước, bảo vệ Tổ quốc và thực hiện công cuộc đổi mới, đã phấn đấu, rèn luyện và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ từ lời dạy sâu sắc của Người. Những chuẩn mực đạo đức đó của người Công an cách mạng cho đến nay vẫn có ý nghĩa giáo dục sâu sắc, bền vững và sức lan tỏa đặc biệt không chỉ trong lực lượng CAND mà trong toàn hệ thống chính trị. Cán bộ, đảng viên, công chức có thể soi vào nhiều điều trong 6 điều dạy của Bác để học tập, rèn luyện và hành động.

Khi nhận thức đạo đức như những chuẩn mực trong quan hệ giữa con người với nhau và với cộng đồng và được xã hội thừa nhận, trên thực tế đã làm nổi bật những quan hệ cơ bản trong đời sống chính trị xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt lên hàng đầu quan hệ nội tâm, nội tại (tự mình) của mỗi con người. Sự tự rèn luyện của mỗi cá nhân là đặc biệt quan trọng, vượt qua những cám dỗ, ham muốn, giữ vững lý tưởng cách mạng, niềm tin thật sự cần, kiệm, liêm, chính là điều căn bản đối với mỗi cán bộ, chiến sỹ Công an. Các mối quan hệ khác được Bác Hồ đề cập thật giản dị mà sâu sắc (với đồng sự, với Chính phủ, với nhân dân, với công việc, với địch). Những quan hệ đó không chỉ là cách ứng xử, mà còn là trách nhiệm công vụ, bản chất chính trị của CAND trong bộ máy Nhà nước cách mạng kiểu mới ở Việt Nam. Càng đọc, càng suy ngẫm về sáu điều Bác Hồ dạy CAND càng thấy sự thống nhất kỳ lạ giữa tư cách đạo đức với chức trách, nhiệm vụ, giữa tình và nghĩa, giữa nhận thức và hành động, giữa sự nghiệp lớn lao và những hành vi cụ thể. Sự thống nhất đó trong những điều Bác dạy đã làm sáng lên phẩm chất cao đẹp và cũng là niềm tự hào của CAND mà nhiều thế hệ đã phấn đấu hy sinh, đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng của Đảng và của dân tộc.

So với 65 năm trước, hiện nay cách mạng Việt Nam đã phát triển và lớn mạnh chưa từng có. Đất nước đã độc lập, thống nhất hoàn toàn và đi lên CNXH. Hơn một phần tư thế kỷ thực hiện công cuộc đổi mới với những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử cả về chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, quốc phòng, an ninh và đối ngoại.

Hiện nay, nhiệm vụ xây dựng, phát triển đất nước theo con đường XHCN, bảo vệ Tổ quốc và ANQG có nhiều thuận lợi, song cũng đứng trước nhiều khó khăn, thách thức cả ở trong nước và diễn biến phức tạp của tình hình và quan hệ quốc tế. Phải chủ động phòng ngừa, làm thất bại âm mưu “diễn biến hòa bình”, hoạt động gây rối, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch; đấu tranh ngăn chặn và xử lý có hiệu quả các hoạt động cơ hội chính trị, các loại tội phạm hình sự, nhất là tội phạm nguy hiểm, có tổ chức, tội phạm ma túy, tội phạm có yếu tố nước ngoài, tội phạm lợi dụng công nghệ cao, sử dụng vũ khí nóng, chống người thi hành công vụ. Lực lượng vũ trang nhân dân, trong đó có CAND còn phải tham gia tích cực, có hiệu quả vào các chương trình phát triển kinh tế – xã hội, hoạt động cứu hộ, cứu nạn, phòng chống và khắc phục thiên tai, bảo vệ cuộc sống bình yên của nhân dân. Với những nhiệm vụ nặng nề đó, càng đòi hỏi CAND, mỗi cán bộ, chiến sỹ thực hiện tốt hơn 6 điều Bác Hồ dạy trong thực tiễn công tác, chiến đấu.

Học tập và làm theo 6 điều Bác Hồ dạy CAND trong tình hình hiện nay không tách rời nhiệm vụ toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đang đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh và thực hiện một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay mà Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa XI đã đề ra. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 Khóa XI (1-2012) cho rằng: “Bên cạnh kết quả đạt được, công tác xây dựng Đảng vẫn còn không ít hạn chế, yếu kém, thậm chí có những yếu kém, khuyết điểm kéo dài qua nhiều nhiệm kỳ, chậm được khắc phục, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng; nếu không được sửa chữa sẽ là thách thức đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ”. Trung ương đã nêu rõ 3 vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay, trong đó vấn đề hàng đầu là: “Kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, củng cố niềm tin của đảng viên và của nhân dân đối với Đảng”.

Để ngăn chặn và đẩy lùi có hiệu quả sự suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, phải thực hiện đồng bộ các nhóm giải pháp về tự phê bình và phê bình, nêu cao tính tiền phong gương mẫu của cấp trên; về công tác tổ chức, cán bộ và sinh hoạt đảng; về xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách và về công tác giáo dục chính trị, tư tưởng như Nghị quyết Trung ương 4, Khóa XI đã đề ra.

Hiện nay, thực hiện tốt 6 điều Bác Hồ dạy CAND cũng là góp phần thực hiện có hiệu quả việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 Khóa XI. Nhớ lời Bác, trước hết đối với tự mình, mỗi một cán bộ, đảng viên, chiến sĩ trong lực lượng CAND cũng như trong toàn Đảng, toàn hệ thống chính trị suy nghĩ nghiêm túc về trách nhiệm của mình tự rèn luyện, học tập, làm việc tốt nhất, khắc phục những khuyết điểm, yếu kém, góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, xứng đáng với sự tin yêu của nhân dân

N.T.P.
cand.com.vn

Lấy phiếu tín nhiệm không thể bất chấp nguyên tắc

Câu chuyện Trường Đại học Kinh tế Quốc dân (ĐHKTQD) dường như chưa thể có hồi kết. Trong khi quyết định xử lý kỷ luật mức cảnh cáo ông Nguyễn Văn Nam, Hiệu trưởng Trường ĐHKTQD vẫn còn đang gây bức xúc dư luận vì không thỏa đáng, thì những ngày gần đây, ở trường này lại diễn ra trò mới. Đó là một cuộc “chạy đua” không đẹp mắt của một số ứng viên đang được nhắm vào vị trí Hiệu trưởng mới; đồng thời Hiệu trưởng đương nhiệm Nguyễn Văn Nam vẫn có nhiều động thái không minh bạch.

Ngày 10/4/2013, Bộ trưởng Bộ GD&ĐT ký Văn bản số 2370/BGDĐT-TCCB về việc tổ chức lấy phiếu tín nhiệm để bổ nhiệm Hiệu trưởng mới Trường ĐHKTQD (nhiệm kỳ 2013-2018). Cuộc bỏ phiếu này sẽ tiến hành vào ngày 25/4/2013. Ngày 17/4/2013, Hiệu trưởng Nguyễn Văn Nam ký ban hành Quyết định số 197/QĐ- ĐHKTQD-TCCB “về việc thành lập Tổ công tác phối hợp thực hiện quy trình để đề nghị cấp có thẩm quyền bổ nhiệm nhân sự giữ chức vụ Hiệu trưởng Trường ĐHKTQD nhiệm kỳ 2013-2018”.

Theo quyết định này, tổ công tác có 11 thành viên, trong đó ông Nguyễn Văn Nam, Bí thư Đảng ủy, Hiệu trưởng, người vừa bị kỷ luật cảnh cáo lại là Tổ trưởng và ông Nguyễn Đức Hiển, Trưởng phòng Tổ chức cán bộ được giao làm Ủy viên thường trực.

Trong bức thư đề ngày 18/4 của GS.TSKH Lê Du Phong, nguyên quyền Hiệu trưởng (2002-2003) gửi Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Phạm Vũ Luận đã nhấn mạnh: “Về quyết định lấy phiếu tín nhiệm Hiệu trưởng mới của trường do Bộ trưởng ký (thành lập tổ công tác) ngày 10/4/2013 cũng vậy, Hiệu trưởng và Trưởng phòng Tổ chức cán bộ cũng giữ kín không cho ai biết (ngay cả một số Phó Hiệu trưởng – Thường vụ Đảng ủy). Thế rồi Hiệu trưởng ra quyết định thành lập tổ công tác giúp Bộ thực hiện việc này. Xin báo cáo với GS Bộ trưởng là tổ công tác này toàn những người thân cận của GS Nam (nếu làm nghiêm túc thì một vài người trong đó đã bị kỷ luật nặng như Nguyễn Đức Hiển chẳng hạn). Vì thế tôi rất lo ngại sự minh bạch, sự công tâm của tổ này trong việc giúp tổ công tác của Bộ, nhất là trong việc kiểm phiếu”.

Trong khi “tổ công tác với 11 thành viên” này đang gây nhiều mối nghi ngờ, khó hiểu với cán bộ, công nhân viên nhà trường, thì tối 18/4, một vị ứng cử viên để ngồi ghế Hiệu trưởng mới đã mở tiệc chiêu đãi thịnh soạn tại nhà hàng Quán Gió, Công viên Thống Nhất, Hà Nội. Vị này còn công khai tặng hàng trăm suất quà cho hầu hết số người thuộc diện được đi bỏ phiếu ngày 25/4…

Theo GS Nguyễn Văn Thường, nguyên Hiệu trưởng và GS Nguyễn Thành Độ, nguyên Phó Hiệu trưởng của ĐH KTQD thì việc làm của vị này là trục lợi, động cơ không trong sáng và không hay chút nào vào thời điểm nhạy cảm này.

Theo thông tin của Báo CAND, do nắm bắt được tâm tư của đông đảo cán bộ giáo viên của ĐH KTQD phản đối việc ông Nam và ông Hiển là thành viên tổ công tác bổ nhiệm Hiệu trưởng mới, chiều 22/4, Bộ GD&ĐT đã triệu tập, chỉ đạo và yêu cầu ông Nam, ông Hiển ra khỏi danh sách tổ công tác.

Thay vào đó là GS.TS Phan Công Nghĩa, Phó Hiệu trưởng Thường trực làm Tổ trưởng và ông Nguyễn Anh Tuấn, Ủy viên Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy, Giám đốc Trung tâm Đào tạo liên tục thay ông Nguyễn Đức Hiển. Đồng thời tổ công tác của Bộ sẽ trực tiếp kiểm phiếu ngay tại chỗ có sự giám sát của Đảng ủy và các Giáo sư Phan Công Nghĩa, Nguyễn Viết Lâm.

Sáng 24/4, Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Bùi Văn Ga đã có buổi làm việc “khẩn cấp” với nhà trường về quy trình lấy phiếu tín nhiệm, bổ nhiệm Hiệu trưởng mới. Thứ trưởng cho biết, tổ công tác của Bộ thực hiện theo đúng quy định của Ban Tổ chức TW Đảng để đảm bảo sự công khai minh bạch. Tổ công tác của Bộ sẽ tham gia kiểm phiếu, còn việc nhân sự sẽ do Đảng ủy và quần chúng trong trường giới thiệu, Bộ không can thiệp vào nhân sự…

Thiết nghĩ, chuyện lấy phiếu tín nhiệm là một hoạt động thường xuyên ở bất cứ cơ quan, tổ chức nào. Nhưng “lấy phiếu tín nhiệm” như cách làm của Trường ĐH KTQD, đến mức mà Bộ GD&ĐT phải can thiệp, rút bớt thành viên ra khỏi tổ công tác thì là điều khó chấp nhận ở một trường ĐH lớn như ĐH KTQD. Hy vọng, với sự giám sát chặt chẽ của Bộ GD&ĐT, quy trình lấy phiếu tín nhiệm bầu Hiệu trưởng mới của ĐH KTQD sẽ đảm bảo sự minh bạch, dân chủ, chọn được người thực tâm, thực tài giúp đoàn kết nội bộ, phát huy được sức mạnh tập thể, giúp lập lại kỷ cương ở một trường đại học lớn

PV
cand.com.vn

Vì sao nhà báo Trần Văn Thông chưa được công nhận liệt sĩ?

Góp ý – Kiến nghị

QĐND – Nhà báo Trần Văn Thông, tấm gương hoạt động của một đảng viên cộng sản, một người lính chống Pháp, một nhà báo thời chống Mỹ hy sinh trong khi làm nhiệm vụ dưới mưa bom bão đạn đến nay vẫn còn bị lãng quên. Dư luận đề nghị các cơ quan chức năng tỉnh Nghệ An sớm vào cuộc xác minh và vinh danh liệt sĩ Trần Văn Thông.

Theo cách mạng từ nhỏ rồi trở thành anh Vệ quốc đoàn gan góc chiến đấu trong đội hình Trung đoàn 95 bám trụ ở chiến trường Khu 5 nhiều năm liền thời kỳ chống Pháp. Ngày xuất ngũ, ông chuyển sang công tác tại Huyện ủy Nghĩa Đàn. Với trình độ Prime (đệ tứ chương trình giáo dục thời thuộc Pháp) và có năng khiếu viết báo, ông được Ban miền Tây (Phân ban của Tỉnh ủy Nghệ An) cử sang công tác tại Báo Miền Tây Nghệ An.

Trong trận bom khốc liệt ngày 23-5-1965, nhà báo Trần Văn Thông và Tổng biên tập Đặng Loan đang trực chiến tại cơ quan đã vĩnh viễn ra đi. Lực lượng cứu thương và gia đình tìm kiếm thi thể nhà báo Trần Văn Thông nhiều ngày nhưng vô vọng. Gần nửa thế kỷ trôi qua, gia đình mới tìm thấy hài cốt của ông ngay dưới nền đất trụ sở cơ quan Báo Miền Tây thuở nào. Cũng từng ấy năm, nhà báo Trần Văn Thông hy sinh trong khi làm nhiệm vụ vẫn chưa được công nhận là liệt sĩ.

12 tuổi, trốn gia đình theo cách mạng

Sinh năm 1924 tại Hà Tĩnh, là con cả của gia đình có 4 anh em nên Trần Văn Thông đã sớm chứng kiến cảnh áp bức, bóc lột của phong kiến và thực dân Pháp. Năm 1936, 12 tuổi, Trần Văn Thông bỏ học, trốn gia đình từ Hà Tĩnh sang vùng Phủ Quỳ (Nghệ An) để đi theo cách mạng. Tại đây, Trần Văn Thông làm việc trong đồn điền Phan Văn Quý. Năm 1944, vừa tròn 20 tuổi, Trần Văn Thông được kết nạp Đảng Cộng sản Việt Nam rồi hoạt động trong đoàn thể Việt Minh dưới vỏ bọc là thư ký cho chủ đồn điền cao su, cà phê Phan Văn Quý.

Nhà báo Trần Văn Thông (thứ hai, từ trái qua) cùng đồng nghiệp của mình. Người thứ tư (từ trái qua) là đồng chí Trần Văn Cung, Thường vụ tỉnh ủy – Trưởng ban chỉ đạo miền Tây Nghệ An. Ảnh chụp năm 1963, do gia đình cung cấp.

Sau hơn 10 năm “bặt vô âm tín”, khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, gia đình mới biết Trần Văn Thông là người của cách mạng. Để bảo vệ chính quyền non trẻ, anh được chọn vào đội tự vệ kháng chiến xã Thái Hòa (Nghĩa Đàn) gồm 7 đồng chí do ông Nguyễn Trọng Kỷ chỉ huy. Năm 1948, Trần Văn Thông vào bộ đội chủ lực chiến đấu ở Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên – Huế, Quảng Ngãi, Quảng Nam… Rời quân ngũ năm 1957, đến năm 1960, Trần Văn Thông được giao nhiệm vụ phụ trách văn phòng Huyện ủy Nghĩa Đàn. Trong giai đoạn này, ông đưa bố mẹ già và các em nhỏ từ Hà Tĩnh sang vùng Phủ Quỳ lập nghiệp. Ngoài công việc của cơ quan Huyện ủy, là con cả, dưới ông còn có 3 em nhỏ nên Trần Văn Thông phải gánh vác cả công việc chính trong gia đình và chăm lo các em mình ăn học. Với gia đình, ông như một người anh cả mẫu mực.

Bước sang năm 1961, Tỉnh ủy Nghệ An thành lập Ban chỉ đạo miền Tây Nghệ An. Cơ quan Báo Miền Tây Nghệ An cũng được thành lập. Với khả năng linh hoạt trong công việc, lại có năng khiếu viết báo nên Trần Văn Thông được tỉnh ủy điều động sang Báo Miền Tây Nghệ An. Cơ quan báo ít người phải kiêm nhiệm nhiều việc, Trần Văn Thông vừa tham gia viết bài, đưa tin vừa phụ trách văn phòng và đưa ma-két đi nhà in, chữa mo-rát rồi lo cả việc phát hành báo tới 10 huyện vùng cao. Ở mỗi cương vị, anh đều bộc lộ năng lực của mình bằng hiệu suất cao, xông xáo, tâm huyết với nghề cho tới lúc ngã xuống vì bom Mỹ.

Hóa thân vào đất đai xứ sở

Sau khi được giao công tác tại Báo Miền Tây Nghệ An từ đầu năm 1961, Trần Văn Thông tận tụy cống hiến sức lực của mình để tờ báo đến với bà con các dân tộc vùng cao, góp phần biểu dương điển hình trong sản xuất nông nghiệp, bảo tồn văn hóa dân tộc thiểu số, xây dựng chính quyền, tổ chức Đảng và phát triển vùng công nghiệp Phủ Quỳ. Lúc này, vợ vừa mới mất, để lại 3 đứa con nhỏ côi cút, Trần Văn Thông lại đảm trách thêm vai trò vừa là cha, vừa là mẹ. Vất vả là vậy nhưng anh không bao giờ nản lòng trước hoàn cảnh éo le của mình.

Theo những nhân chứng là các cụ cao niên từng sống xung quanh khu vực cơ quan Báo Miền Tây Nghệ An trước kia kể lại: Ngày đó, tòa soạn báo đóng ngay sát bờ sông Hiếu cùng với Xí nghiệp cơ khí 250B (nay là phường Quang Tiến, thị xã Thái Hòa). Hằng ngày, vẫn thấy nhà báo Trần Văn Thông cặm cụi bên từng trang viết và quán xuyến tất cả công việc trị sự cùng với đồng nghiệp của mình. Hình ảnh phóng viên Trần Văn Thông và Tổng biên tập Đặng Loan tối tối chong đèn “phòng không” dưới hầm để chỉnh sửa, kiểm duyệt từng trang báo kịp đưa đi xưởng in đã trở thành thân quen đối với người dân nơi đây. Với bản tính dễ gần, dáng người cao gầy, Trần Văn Thông luôn để lại cho mọi người sự gần gũi, thân quen như anh em trong một nhà. Năm 1965, giặc Mỹ điên cuồng leo thang đánh phá miền Bắc, thành phố Vinh, Cửa Lò, Cửa Hội và cả vùng miền Tây xứ Nghệ, trong đó có Nghĩa Đàn trở thành trọng điểm đánh phá ác liệt. Lúc này, cơ quan đã sơ tán nhưng Trần Văn Thông vẫn cùng với Tổng biên tập Đặng Loan bám trụ tại trọng điểm, tổ chức bản thảo, phản ánh không khí chiến đấu của quân và dân các huyện miền núi xứ Nghệ. Những địa danh như phà Sen (Tân Kỳ), sân bay Dừa (Anh Sơn), vùng kho Cát Mộng (Nghĩa Đàn)… là những trọng điểm đánh phá của Mỹ đều ghi dấu chân Trần Văn Thông cùng với đồng nghiệp của mình.

Khoảng 9 giờ sáng ngày 23-5-1965, nhiều tốp máy bay Mỹ đột ngột bổ nhào giội bom xuống khu công nghiệp, bệnh viện, Ban chỉ đạo Miền Tây, Báo Miền Tây Nghệ An. Loạt bom sát thương đợt 3 đã cướp đi tính mạng Trần Văn Thông và người Tổng biên tập của mình. Sau 3 ngày tìm kiếm, đào bới, lực lượng tự vệ, dân quân chỉ còn biết an ủi người thân, nhà báo Trần Văn Thông hóa thân vào đất đai xứ sở. Anh hy sinh để lại 3 con nhỏ côi cút, đứa lớn mới 15 tuổi, đứa út vừa lên 6. Buổi sáng định mệnh ấy đối với gia đình nhà báo Trần Văn Thông là nỗi đau mất mát quá lớn dai dẳng suốt mấy chục năm qua.

48 năm, vẫn chưa được công nhận là liệt sĩ

Sau ngày cha hy sinh, mẹ mất cách đó 4 năm, 3 người con nhà báo Trần Văn Thông phải về sống với ông bà nội. Hai năm sau, thân sinh nhà báo Trần Văn Thông cũng bị bom Mỹ giết hại khi đang chở nứa xuống mạn Quỳnh Lưu bán kiếm tiền đong gạo, nuôi cháu. Cảnh đời khốn khó nhưng tất cả 3 người con trai của nhà báo Trần Văn Thông vẫn nén đau thương, gắng gượng vượt lên số phận để học hành nên người. Cả 3 người con trai của nhà báo Trần Văn Thông đều tốt nghiệp đại học rồi công tác tại Hà Nội và TP Hồ Chí Minh nhưng cũng như những người thân trong nội tộc, các anh vẫn đau đáu về người cha hy sinh chưa được công nhận là liệt sĩ.

Như một sự mách bảo tình cờ, vào ngày 11-3-2011, tức là sau 46 năm, gia đình ông Nguyễn Văn Trường ở khối Tây Hồ, phường Quang Tiến, thị xã Thái Hòa (khu vực nơi cơ quan Báo Miền Tây Nghệ An cũ – PV) là công nhân Xí nghiệp 250B nghỉ hưu đào móng nhà thì phát hiện ra bộ hài cốt bị vùi lấp dưới độ sâu 2m. Nằm cùng với bộ di cốt là chiếc bút máy khắc chữ “Trần Văn Thông – Nghệ An” và một chiếc đồng hồ, một chiếc ví, đôi dép cao su. Chắp nối thông tin cùng với những nhân chứng sống kể lại, người em ruột là Trần Văn Điu ở gần đó đã đến nhận và đưa hài cốt anh mình về an táng tại nghĩa trang gia tộc thuộc phường Hòa Hiếu để hương khói.

Hôm chúng tôi biết tin về tìm gặp thân nhân nhà báo Trần Văn Thông, rất may gia đình còn giữ lại nhiều giấy khen và các tài liệu liên quan đến cuộc đời hoạt động cách mạng của ông như: Huân chương Kháng chiến chống Pháp hạng ba do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ngày 28-4-1961; Bảng “Gia đình vẻ vang” do Đại tướng Võ Nguyên Giáp ký; Giấy khen của Ban chấp hành công đoàn cơ quan Ban chỉ đạo miền Tây Nghệ An ngày 18-5-1961 cùng nhiều giấy khen của Đảng bộ huyện Nghĩa Đàn tặng…

Thành tích là vậy nhưng trong 48 năm qua, nhà báo Trần Văn Thông vẫn chưa được công nhận là liệt sĩ? Điều trăn trở, băn khoăn, day dứt của thân nhân nhà báo Trần Văn Thông qua gần nửa thế kỷ vẫn chưa được giải tỏa. Trong khi đó, cùng hy sinh một giờ với Trần Văn Thông thì nhà báo Đặng Loan đã được công nhận liệt sĩ từ những năm 70 của thế kỷ trước. Đề nghị các cơ quan chức năng Nghệ An sớm vào cuộc xác minh và vinh danh nhà báo – liệt sĩ Trần Văn Thông. Đừng để tấm gương hoạt động của một đảng viên cộng sản, một người lính chống Pháp, một nhà báo thời chống Mỹ hy sinh trong khi làm nhiệm vụ dưới mưa bom bão đạn đến nay vẫn còn bị lãng quên.

VĂN HIỀN-NGỌC THÁI
qdnd.vn

Cụ thể hóa các văn bản luật để xử nghiêm hành vi vi phạm pháp luật

Xung quanh “Dự thảo Nghị định quy định các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý hành vi chống người thi hành công vụ”.

Gần đây, sau khi Báo CAND đăng tải loạt bài liên quan đến “Dự thảo Nghị định quy định các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý hành vi chống người thi hành công vụ” mà Chính phủ giao cho Bộ Công an chủ trì soạn thảo, Báo đã nhận được nhiều ý kiến của bạn đọc đề nghị thông tin rõ hơn về những quy định cụ thể cho người thi hành công vụ được nổ súng để phòng ngừa và ngăn chặn hành vi vi phạm pháp luật. Thể theo yêu cầu của bạn đọc, Báo CAND xin tiếp tục thông tin và kết thúc vấn đề này để giúp bạn đọc hiểu thêm.

Trở lại vấn đề, do trước những diễn biến phức tạp về tình trạng chống người thi hành công vụ trong thời gian gần đây, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo và phân công Bộ Công an chủ trì, phối hợp với các bộ: Quốc phòng, Tư pháp, Tài chính, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và các cơ quan có liên quan xây dựng dự thảo Nghị định quy định các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý hành vi chống người thi hành công vụ.

Quan điểm chỉ đạo Thủ tướng Chính phủ là góp phần hoàn thiện cơ sở pháp lý để phòng ngừa, ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm minh, kịp thời các hành vi chống người thi hành công vụ, trong tất cả các lĩnh vực quản lý nhà nước, nhưng cũng không để người thi hành công vụ lạm dụng quyền hạn để xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.

Thực ra, quy định về nổ súng của người thi hành công vụ trong dự thảo Nghị định trên không phải là quy định mới mà chỉ là cụ thể hóa, chi tiết, hướng dẫn thi hành các quy định về vấn đề này ở các văn bản quy phạm pháp luật cao hơn như: Pháp lệnh Bộ đội Biên phòng, Pháp lệnh Cảnh sát biển Việt Nam, Luật Công an nhân dân… và quy định này cũng hoàn toàn thống nhất với quy định về phòng vệ chính đáng trong Bộ luật Hình sự của nước CHXHCN Việt Nam.

Cần phải xử lý nghiêm những hành vi chống người thi hành công vụ.

Và để tăng cường hơn nữa nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội, đồng thời bảo đảm tính mạng, sức khỏe cho người thi hành nhiệm vụ, ngày 30/6/2011, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ.

Pháp lệnh quy định cụ thể một số nội dung như: quy định nổ súng trong khi thi hành công vụ áp dụng cho tất cả những người được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền trang bị vũ khí, công cụ hỗ trợ, không phải chỉ quy định riêng cho lực lượng Công an nhân dân; quy định nổ súng khi thi hành nhiệm vụ bảo đảm an ninh, trật tự có tổ chức phải tuân theo mệnh lệnh của người có thẩm quyền, và sử dụng vũ khí phải đúng mục đích và hạn chế tối đa thiệt hại đối với người, tài sản và môi trường. Khi thi hành nhiệm vụ độc lập, việc nổ súng phải tuân theo 4 nguyên tắc cơ bản sau:

– Phải căn cứ vào từng tình huống, tính chất, mức độ hành vi nguy hiểm của đối tượng để quyết định việc nổ súng.

– Chỉ nổ súng khi không còn biện pháp nào khác để ngăn chặn hành vi của đối tượng và sau khi đã cảnh báo mà đối tượng không tuân theo. Nếu việc nổ súng không kịp thời sẽ đe dọa trực tiếp đến tính mạng, sức khỏe cho bản thân hoặc người khác hoặc có thể gây ra những hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác thì được nổ súng ngay;

– Không nổ súng vào đối tượng khi biết rõ người đó là phụ nữ, người tàn tật, trẻ em, trừ trường hợp những người này sử dụng vũ khí, vật liệu nổ tấn công hoặc chống trả, đe dọa tính mạng, sức khỏe của người thi hành công vụ hoặc người khác;

– Trong mọi trường hợp nổ súng, người sử dụng súng cần hạn chế thiệt hại do việc nổ súng gây ra.

Pháp lệnh Quản lý vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ quy định cụ thể 7 trường hợp được nổ súng, gồm:

1. Đối tượng đang sử dụng vũ lực, vũ khí, vật liệu nổ trực tiếp đe dọa đến tính mạng người thi hành công vụ hoặc người khác;

2. Đối tượng đang sử dụng vũ khí, vật liệu nổ tấn công hoặc đe dọa sự an toàn của công trình quan trọng liên quan đến an ninh quốc gia, mục tiêu quan trọng được bảo vệ theo quy định của pháp luật;

3. Đối tượng đang thực hiện hành vi cướp súng của người thi hành công vụ;

4. Đối tượng đang sử dụng vũ khí gây rối trật tự công cộng có thể gây hậu quả rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng;

5. Đối tượng đang đánh tháo người bị giam, người bị dẫn giải do phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, tái phạm nguy hiểm; người bị giam, giữ, bị dẫn giải, bị áp giải do phạm tội đặc biệt nghiêm trọng đang chạy trốn hoặc chống lại;

6. Được phép bắn vào phương tiện giao thông cơ giới đường bộ, phương tiện giao thông đường thủy nội địa để dừng phương tiện đó trong các trường hợp sau (trừ phương tiện giao thông của các cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự nước ngoài, cơ quan đại diện tổ chức quốc tế):

*Đối tượng điều khiển phương tiện đó tấn công hoặc đe dọa trực tiếp đến tính mạng người thi hành công vụ hoặc người khác;

*Khi biết rõ phương tiện đó do đối tượng phạm tội điều khiển cố tình chạy trốn, trừ trường hợp trên phương tiện có chở khách hoặc có con tin;

*Khi biết rõ trên phương tiện cố tình chạy trốn có đối tượng phạm tội hoặc vũ khí, vật liệu nổ trái phép, tài liệu phản động, bí mật nhà nước, ma túy số lượng lớn, tài sản đặc biệt quý hiếm, bảo vật quốc gia, trừ trường hợp trên phương tiện có chở khách hoặc có con tin;

7. Động vật đang đe dọa đến tính mạng và sức khỏe của người thi hành công vụ hoặc người khác.

Như vậy, dự thảo Nghị định quy định các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý hành vi chống người thi hành công vụ mà Thủ tướng Chính phủ giao cho Bộ Công an chủ trì soạn thảo là thực hiện cụ thể hơn các văn bản nêu trên, để khi Nghị định ban hành vừa chặt chẽ, vừa đúng luật và không bị lạm quyền khi thi hành.

(Kỳ sau: Tiếp tục hoàn thiện quy định của pháp luật nhằm phòng ngừa, đấu tranh hiệu quả với tội phạm)

Nguyễn Hưng
cand.com.vn

Người tố cáo được nhận thông báo kết luận về nội dung tố cáo

Bộ Công an lấy ý kiến về Dự thảo Nghị định quy định về tố cáo và giải quyết tố cáo trong CAND:
Luật Tố cáo có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2011, có các điều, khoản giao Chính phủ quy định về tố cáo và giải quyết tố cáo trong QĐND và CAND nhằm quy định rõ thẩm quyền, trình tự, thủ tục giải quyết tố cáo đối với cán bộ, chiến sỹ Công an có hành vi vi phạm pháp luật trong khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ; trách nhiệm của cơ quan, thủ trưởng, cán bộ, chiến sỹ Công an trong việc bảo vệ người tố cáo, giải quyết tố cáo trong CAND.

Nhằm hoàn thiện khuôn khổ pháp lý và đưa Luật Tố cáo đi vào thực tiễn, Bộ Công an vừa xây dựng “Dự thảo Nghị định quy định về tố cáo và giải quyết tố cáo trong CAND”. Để làm rõ những vấn đề liên quan đến dự thảo Nghị định này, phóng viên Báo CAND đã có cuộc trao đổi với Thiếu tướng Ma Văn Kỳ, Phó Chánh Thanh tra Bộ Công an.

PV: Đề nghị đồng chí cho biết, Dự thảo Nghị định quy định nội dung tố cáo, giải quyết tố cáo đối với hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ, chiến sỹ Công an trong khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ như thế nào?

Thiếu tướng Ma Văn Kỳ, Phó Chánh Thanh tra Bộ Công an. Ảnh: Nguyễn Hưng.

Thiếu tướng Ma Văn Kỳ: Dự thảo Nghị định này quy định về tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ, chiến sỹ Công an trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ. Chủ thể có quyền tố cáo gồm: công dân hoặc cán bộ, chiến sỹ Công an. Về thẩm quyền giải quyết tố cáo, dự thảo Nghị định cũng quy định Thủ trưởng các cấp trong CAND, từ Bộ trưởng Bộ Công an đến Trưởng Công an cấp phường đều có trách nhiệm giải quyết tố cáo đối với cán bộ, chiến sỹ do mình quản lý trực tiếp. Nếu người bị tố cáo là người đứng đầu hoặc cấp phó của người đứng đầu đơn vị Công an sẽ do Thủ trưởng Công an cấp trên trực tiếp giải quyết.

Dự thảo Nghị định quy định trách nhiệm của Thủ trưởng Công an các cấp trong việc bố trí trụ sở, hoặc địa điểm và cán bộ tiếp công dân để tiếp nhận thông tin tố cáo theo quy định của pháp luật; trách nhiệm của Thanh tra Công an các cấp trong việc tiếp nhận, đề xuất xử lý thông tin tố cáo. Trường hợp hành vi bị tố cáo có dấu hiệu tội phạm thì chuyển đơn tố cáo và các tài liệu có liên quan kèm theo (nếu có) cho cơ quan điều tra có thẩm quyền để xử lý theo quy định của pháp luật. Nếu quá thời hạn mà tố cáo không được giải quyết, hoặc có căn cứ cho rằng việc giải quyết tố cáo không đúng pháp luật thì chuyển đến Thủ trưởng cấp trên trực tiếp của người giải quyết tố cáo xem xét, xử lý theo quy định của Luật Tố cáo.

PV: Về nội dung tố cáo, giải quyết tố cáo đối với hành vi vi phạm trong quản lý nhà nước về an ninh trật tự được quy định như thế nào, thưa đồng chí?

Thiếu tướng Ma Văn Kỳ: Theo quy định, lực lượng Công an có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính đối với các hành vi vi phạm trong lĩnh vực quản lý nhà nước về an ninh trật tự. Dự thảo Nghị định quy định theo hướng: Thủ trưởng cơ quan Công an các cấp có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính về an ninh trật tự, có trách nhiệm giải quyết tố cáo đối với các hành vi vi phạm pháp luật trong quản lý nhà nước về an ninh trật tự theo chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền được phân cấp quản lý. Các cơ quan, đơn vị Công an khác liên quan có trách nhiệm phối hợp. Trường hợp tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong quản lý nhà nước mà nội dung có liên quan đến chức năng quản lý nhà nước của cơ quan khác ngoài CAND thì phải trao đổi với cơ quan chức năng liên quan để thống nhất phân công trách nhiệm chủ trì, phối hợp giải quyết.

Đối với cán bộ, chiến sỹ Công an có hành vi vi phạm pháp luật trong quản lý nhà nước thuộc lĩnh vực nào thì người có thẩm quyền trong cơ quan quản lý về lĩnh vực đó giải quyết. Thủ trưởng cơ quan, đơn vị Công an nơi quản lý cán bộ, chiến sỹ Công an bị tố cáo có trách nhiệm phối hợp khi có yêu cầu. Các vụ việc tố cáo có nội dung rõ ràng, chứng cứ cụ thể, có cơ sở xử lý ngay thì tiến hành xác minh, áp dụng biện pháp cần thiết để đình chỉ, kịp thời lập biên bản và ra quyết định xử lý hành vi vi phạm.

PV: Người có thẩm quyền giải quyết tố cáo trong CAND có thông báo công khai kết luận cho người tố cáo biết không, thưa đồng chí?

Thiếu tướng Ma Văn Kỳ: Dự thảo Nghị định quy định, lực lượng CAND chọn hình thức công khai kết luận nội dung tố cáo, quyết định xử lý hành vi bị tố cáo đối với cán bộ, chiến sỹ Công an bằng việc công bố tại cuộc họp cơ quan – nơi cán bộ, chiến sỹ đó công tác, gồm đầy đủ các thành phần quy định trong Luật Tố cáo để bảo đảm cho công tác bảo vệ bí mật nhà nước về cơ cấu tổ chức và biện pháp nghiệp vụ của lực lượng Công an. Người tố cáo được nhận thông báo kết luận nội dung tố cáo nếu có yêu cầu.

Đối với kết luận nội dung tố cáo, quyết định xử lý hành vi vi phạm bị tố cáo trong quản lý nhà nước về an ninh trật tự thì việc công khai kết luận nội dung tố cáo, quyết định xử lý hành vi bị tố cáo thực hiện theo hai hình thức: đó là niêm yết tại trụ sở làm việc, nơi tiếp công dân của cơ quan Công an giải quyết tố cáo hoặc thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng. Việc quy định như trên phù hợp với quy định của Luật Tố cáo và Nghị định số 76/2012/NĐ-CP ngày 3/10/2012 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Tố cáo.

PV: Đồng chí có thể cho biết, trách nhiệm bảo vệ người tố cáo được quy định như thế nào trong Nghị định này?

Thiếu tướng Ma Văn Kỳ: Nội dung về bảo vệ người tố cáo trong Luật Tố cáo và Nghị định số 76/2012/NĐ-CP ngày 3/10/2012 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Tố cáo đã quy định tương đối cụ thể, chi tiết và có thể áp dụng trực tiếp cho lực lượng CAND nên dự thảo Nghị định này chỉ quy định về trách nhiệm của người có thẩm quyền giải quyết tố cáo trong CAND; trách nhiệm của Thủ trưởng, cán bộ, chiến sỹ Công an các cấp khi nhận được yêu cầu của người tố cáo phải áp dụng các biện pháp theo quy định của pháp luật để bảo vệ người tố cáo và người thân thích của người tố cáo.

PV: Xin cảm ơn đồng chí Thiếu tướng!

Nguyễn Hưng – Phương Thảo (thực hiện)
cand.com.vn

Vai trò lãnh đạo của Đảng trong bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN

Đại Tá, Tiến Sỹ Nguyễn Văn Vĩnh
Nội dung Điều 69 trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 cần đưa thêm vào nội dung “vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”.

Nội dung điều 69 trong chương IV – Bảo vệ Tổ quốc của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã ghi: “Điều 69: Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, giữ vững an ninh quốc gia là sự nghiệp của toàn dân.

Nhà nước củng cố và tăng cường nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân; lực lượng vũ trang nhân dân giữ vai trò nòng cốt; phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước để bảo vệ vững chắc Tổ quốc, góp phần bảo vệ hòa bình ở khu vực và trên thế giới.

Cơ quan, tổ chức, công dân phải thực hiện đầy đủ nhiệm vụ quốc phòng và an ninh do luật định”.

Nội dung Điều 69 trong chương IV – Bảo vệ Tổ quốc của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 trình bày như trên về cơ bản là đúng và khá rõ. Nội dung cơ bản của điều 69 này đã làm rõ được ba vấn đề chủ yếu mà những vấn đề này đã, đang được thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa chứng minh là đúng đắn, hợp quy luật, đó là: Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa và giữ vững an ninh quốc gia là sự nghiệp của toàn dân; Nhà nước ta là người giữ vai trò xây dựng, củng cố, tăng cường và phát triển nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân, đồng thời Nhà nước ta cũng là người thực hiện và phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước để bảo vệ Tổ quốc; mọi cơ quan, tổ chức và công dân của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải có trách nhiệm thực hiện đầy đủ nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Tuy nhiên, với những nội dung đã được trình bày ở Điều 69 nói trên thì vẫn còn thiếu một nội dung hết sức cơ bản, quan trọng và cần thiết đó là: chưa đề cập tới vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Do đó, sẽ là thiếu sót, chưa khoa học, thậm chí còn là sai lầm, khuyết điểm nếu không đề cập tới vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản ViệtNam trong bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Thực tiễn cách mạng Việt Nam hơn 80 năm qua, kể từ khi Đảng ta ra đời ngày 3/2/1930 cho tới nay đã chứng minh rằng, mọi kết quả, thành tựu, thắng lợi giành được trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta nói chung, trong bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa nói riêng đều gắn liền với sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa và giữ vững an ninh quốc gia được thể hiện nổi bật ở chỗ: Đảng đề ra đường lối chiến lược, sách lược bảo vệ Tổ quốc, đường lối thực hiện nhiệm vụ quốc phòng và an ninh, đường lối xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân; Đảng là người lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối về mọi mặt đối với Quân đội nhân dân và Công an nhân dân – những lực lượng làm nòng cốt trong bảo vệ Tổ quốc, giữ vững an ninh quốc gia; Đảng còn là người chăm lo giáo dục, bồi dưỡng, đào tạo cán bộ, đảng viên và nhân dân, giúp họ có phẩm chất, năng lực, trí tuệ, bản lĩnh để có đủ điều kiện bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; Đảng còn là người tổ chức, xây dựng và phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc để bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa và giữ vững an ninh quốc gia.

Vì vậy, có thể khẳng định rằng, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam luôn là một trong những nhân tố hết sức cơ bản, chủ yếu quyết định mọi thắng lợi của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, giữ vững an ninh quốc gia trong những năm trước đây, hiện nay, cũng như trong thời gian tới; nhất là đối với thời kỳ nước ta tiếp tục đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, vì mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh và đưa đất nước tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội.

Vì vậy, nội dung Điều 69 trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 cần đưa thêm vào nội dung “vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”.

Mặt khác, nội dung Điều 69 trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 trình bày cũng chưa được thật chặt chẽ, đầy đủ, nhất là chưa thấy được vai trò của yếu tố thời đại trong bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay.

Vì vậy, nội dung Điều 69 trong chương IV – Bảo vệ Tổ quốc của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 nên trình bày lại như sau cho đúng hơn, chặt chẽ hơn và đầy đủ hơn, đó là:

“Điều 69:

1. Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, giữ vững an ninh quốc gia là nhiệm vụ cơ bản, trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước và toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là lực lượng nòng cốt.

2. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý tập trung thống nhất của Nhà nước đối với việc củng cố và tăng cường nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân, trong đó lấy lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt; kết hợp và phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước với sức mạnh của thời đại để bảo vệ vững chắc Tổ quốc, góp phần bảo vệ hòa bình ở khu vực và trên thế giới.

3. Mọi cơ quan, tổ chức và công dân phải thường xuyên thực hiện đầy đủ nhiệm vụ quốc phòng và an ninh do luật định”

N.V.V.
cand.com.vn