Thư viện

Dân chủ, nhân quyền hay “kích động” chống đối?

Làm thất bại chiến lược “Diễn biến hòa bình”

Được sự hậu thuẫn của chính giới một số nước và tổ chức quốc tế thiếu thiện chí với Việt Nam, thời gian qua, các tổ chức phản động lưu vong (PĐLV) người Việt và các thế lực thù địch triệt để lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền gia tăng hoạt động chống phá Nhà nước Việt Nam, nhằm thực hiện mưu đồ tác động, chuyển hóa, đa nguyên, đa đảng, tiến tới xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và chế độ XHCN ở nước ta.

Thực hiện mục tiêu “khuấy động” bầu không khí chống Nhà nước Việt Nam ở trong và ngoài nước, các đối tượng PĐLV câu kết với một số phần tử chống đối chính trị trong nước, đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền xuyên tạc sự thật, vu cáo Việt Nam “vi phạm dân chủ, nhân quyền, đàn áp tự do tôn giáo”. Số đối tượng cầm đầu các tổ chức PĐLV như “Việt Tân”, “Ủy ban bảo vệ nhà báo”, “Phóng viên không biên giới”… phát động chiến dịch phổ biến chương trình có tên “Những kẻ thù của internet” nhân ngày “Thế giới chống kiểm duyệt không gian ảo”, nhằm thu hút sự chú ý của công luận bằng những luận điệu xuyên tạc, rằng chính quyền Việt Nam liên tục theo dõi, đàn áp trên không gian ảo, không cho những người “bất đồng chính kiến” viết nhật kí trên mạng internet; kêu gọi 3 tập đoàn cung ứng dịch vụ internet lớn nhất thế giới là Google, Yahoo và Microsoft “không tiếp tay giúp Chính phủ Việt Nam kiểm soát internet”.

Nguyễn Thị Trâm Oanh (ở Đức) thường xuyên liên lạc, vận động số khiếu kiện chây ỳ, cực đoan mà chúng gọi là “dân oan” ở Đà Nẵng cung cấp các thông tin, tài liệu mà chúng cho rằng chính quyền địa phương đàn áp dân khiếu kiện để Oanh đưa ra công luận quốc tế. Bảo Khánh, phóng viên đài “Vietnam Sydney Radio” ở Ô-xtrây-li-a thường xuyên liên lạc với hình thức “phỏng vấn” các đối tượng chống đối trong nước như Nguyễn Khắc Toàn, Trần Anh Kim, Lê Thanh Tùng, Vi Đức Hồi, Trần Khải Thanh Thủy… đề nghị thu thập, cung cấp các thông tin, tài liệu mà chúng cho rằng đó là “bằng chứng” khẳng định việc chính quyền Việt Nam đàn áp tự do tôn giáo, vi phạm nhân quyền, phục vụ hoạt động tuyên truyền chống Việt Nam.

Các đối tượng còn vận động chính giới các nước, một số tổ chức quốc tế tăng cường can thiệp, gây sức ép với Việt Nam về vấn đề dân chủ, nhân quyền để can thiệp vào lộ trình cải cách tư pháp, hội nhập quốc tế, từ đó từng bước chuyển hướng thể chế chính trị của Việt Nam vận hành theo hướng có lợi cho chúng. Với chiêu bài quen thuộc: Cáo buộc chính quyền Việt Nam “vi phạm dân chủ, nhân quyền”, họ kêu gọi chính giới Mỹ xem xét đưa Việt Nam trở lại danh sách các nước cần quan tâm đặc biệt về tự do tôn giáo (CPC); đề nghị sớm thông qua “Dự luật nhân quyền Việt Nam 2009-S1159”. Một số đối tượng và tổ chức phản động còn lớn tiếng đề nghị tăng cường gây sức ép, ra các “đạo luật”, “dự luật”, “nghị quyết”… buộc chính quyền Việt Nam “thực thi quyền tự do ngôn luận, nới lỏng kiểm soát internet, đối xử công bằng với người dân tộc thiểu số, công nhận và bảo trợ an toàn cho một số tổ chức phản động, đối tượng chống đối trong nước.

Nhằm che giấu cơ quan chức năng Việt Nam phát hiện, ngăn chặn, vạch trần âm mưu, bộ mặt thật, các đối tượng và tổ chức PĐLV thường dùng thủ đoạn chuyển tiền thông qua việc trao các giải thưởng quốc tế về nhân quyền, trả tiền “nhuận bút” để hỗ trợ kinh phí, khích lệ các đối tượng trong nước gia tăng hoạt động chống đối. Đầu năm 2009, chúng vận động tổ chức “Giám sát nhân quyền quốc tế” trao giải thưởng “Nhân quyền 2008” cho một số đối tượng ở trong nước với tổng giải thưởng 12.000USD. Một số phóng viên báo, đài phản động thường xuyên gửi tiền “nhuận bút” cho hơn 20 đối tượng chống đối ở trong nước vì đã trả lời phỏng vấn, cung cấp bài viết có nội dung phản động cho chúng sử dụng làm tư liệu hoạt động chống phá Việt Nam. Số cầm đầu tổ chức “Việt Tân” ở thành phố Houston, Mỹ còn vận động gửi “quà chúc Tết” tới “các nhà dân chủ” trong nước để khích lệ số này “nhiệt tình hơn nữa” trong các hoạt động chống đối.

Dù các thế lực thù địch, phản động có bằng các thủ đoạn và luận điệu xuyên tạc, vu cáo như thế nào cũng không thể phủ nhận được sự thật. Đó là, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam luôn coi con người là mục tiêu, động lực của mọi chính sách phát triển kinh tế – xã hội (KT-XH); luôn nhất quán bảo đảm và thúc đẩy các quyền con người. Hiến pháp 1992 của Việt Nam bảo đảm mọi công dân có quyền bình đẳng về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, bình đẳng trước pháp luật; quyền tham gia quản lí công việc của nhà nước và xã hội; quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; quyền tự do đi lại và cư trú trên đất nước Việt Nam; quyền khiếu nại và tố cáo; quyền lao động, học tập, chăm sóc sức khỏe… không phân biệt giới tính, sắc tộc, tôn giáo. Trên cơ sở hiến pháp, pháp luật Việt Nam tiếp tục cụ thể hóa các quyền này, phù hợp với các chuẩn mực pháp lí quốc tế về nhân quyền.

Việc thực hiện “Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo” được Chính phủ Việt Nam thông qua tháng 5-2002 trên cơ sở Chiến lược Phát triển KT-XH giai đoạn 2001-2010 góp phần giảm tỉ lệ hộ nghèo (theo chuẩn nghèo quốc gia) trên toàn quốc từ 58,1% năm 1993 xuống còn 14,82% năm 2007, và Việt Nam trở thành một trong những quốc gia đầu tiên đạt mục tiêu thiên niên kỉ về xóa đói giảm nghèo. Mọi chính sách phát triển của Việt Nam luôn lấy con người làm trung tâm: Phát triển kinh tế vì con người; tăng trưởng kinh tế gắn với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội; tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, giáo dục, nâng cao dân trí, bảo vệ và cải thiện môi trường…

Việt Nam đã gia nhập hầu hết các công ước nhân quyền quốc tế chủ chốt và luôn ủng hộ hoạt động của Hội đồng Nhân quyền; hợp tác đầy đủ với các cơ chế nhân quyền Liên hợp quốc. Bạn bè quốc tế đều công nhận và trên thực tế, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu về thúc đẩy quyền con người, cụ thể là các quyền dân sự và chính trị; quyền của các nhóm dễ bị tổn thương… Chúng ta đã và đang kết hợp hài hòa giữa các giá trị phổ quát của các quyền con người và hoàn cảnh đặc thù riêng của quốc gia, tăng cường hợp tác quốc tế, mở rộng đối thoại trong lĩnh vực quyền con người; nâng cao nhận thức và năng lực của người dân trong việc thụ hưởng các quyền.

Đảng, Nhà nước ta luôn xác định các quyền con người không thể tách rời độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia. Bằng cuộc đấu tranh bất khuất, kiên cường qua nhiều thế kỉ, dân tộc Việt Nam đã khẳng định, quyền thiêng liêng, cơ bản nhất của con người là quyền được sống trong độc lập, tự do, quyền được tự quyết định vận mệnh của mình…

Cùng với thực hiện các chính sách nhất quán của Nhà nước trong việc bảo đảm và thúc đẩy các quyền con người, các lực lượng chức năng của Việt Nam đã chủ động đấu tranh vạch mặt các cá nhân, tổ chức lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền chống Nhà nước Việt Nam, góp phần bảo đảm an ninh quốc gia, giữ vững ổn định chính trị xã hội. Tuy nhiên, mưu đồ lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền hòng vu cáo Việt Nam, thực hiện mưu đồ xóa bỏ chế độ XHCN ở nước ta của các thế lực phản động không hề thay đổi, thậm chí còn gia tăng trong thời gian tới.

Cùng với đề cao cảnh giác, phát hiện kịp thời, đấu tranh, vô hiệu hóa âm mưu, thủ đoạn mới của các đối tượng PĐLV, chúng ta cần triệt để khai thác, sử dụng các tiện ích của mạng internet và các phương tiện truyền thông đại chúng đẩy mạnh tuyên truyền, làm cho quần chúng nhân dân, chính giới các nước, thành viên các tổ chức quốc tế, bà con Việt kiều hiểu rõ về thực chất, thành tựu nhân quyền đất nước ta đã đạt được, từng bước xóa bỏ quan niệm sai lầm, sự hoài nghi của về tình hình dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam trước những luận điệu vu cáo, xuyên tạc sự thật. Các cơ quan, ban, ngành liên quan chủ động tham mưu, đề xuất xây dựng chiến lược tuyên truyền về dân chủ, nhân quyền; chủ động trao đổi thông tin với đại sứ quán các nước, không để các tổ chức và đối tượng PĐLV cung cấp cho chính giới, quốc hội các nước những thông tin sai sự thật về tình hình nhân quyền Việt Nam. Chúng ta cũng chủ trương đẩy mạnh đấu tranh ngoại giao, vạch trần bản chất chống Nhà nước Việt Nam của các cá nhân, tổ chức PĐLV, đề nghị chính giới, Chính phủ các nước, các tổ chức quốc tế không bao che, dung túng, hậu thuẫn cho các cá nhân, tổ chức PĐLV hoạt động chống Nhà nước Việt Nam.

NGỌC GIÁP và ANH QUÂN
qdnd.vn

“Thế giới đối mặt thách thức phức tạp về nhân quyền”

Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh tại khóa họp. (Ảnh: Tố Uyên/Vietnam+)

Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Bình Minh, Trưởng đoàn đại biểu Việt Nam, nêu rõ mặc dù nhân quyền đã trở thành một ưu tiên hàng đầu của cộng đồng quốc tế, nhưng thế giới vẫn phải đối mặt với các thách thức ngày càng phức tạp, khó lường về nhân quyền.

Ttrong phiên họp cấp cao khóa họp lần thứ 22 của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc tại Geneva ngày 25/2, Bộ trưởng khẳng định điều này càng rõ nét trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế tiếp tục tác động mạnh đến việc đảm bảo nhân quyền tại hầu hết các nước; tình trạng nghèo đói, thất nghiệp, thiếu lương thực, dịch bệnh, ô nhiễm môi trường… tiếp tục nan giải, mà nạn nhân trước tiên là phụ nữ, trẻ em, người nghèo, người khuyết tật và người di cư.

Bộ trưởng Phạm Bình Minh đã nêu bật ý nghĩa đặc biệt của Phiên họp cấp cao Hội đồng nhân quyền năm nay khi diễn ra đúng vào dịp kỷ niệm 65 năm Tuyên ngôn Nhân quyền và 20 năm Tuyên bố và Chương trình hành động Vienne về nhân quyền.

Bộ trưởng cũng bày tỏ lo ngại về các bất ổn về chính trị, nội chiến, xung đột sắc tộc, nhất là tình trạng bạo lực gia tăng ở nhiều nơi đang đặt ra những thách thức nghiêm trọng đối với việc đảm bảo quyền của người dân; kêu gọi tìm kiếm các giải pháp chính trị để chấm dứt bạo lực, đồng thời nhấn mạnh trách nhiệm hàng đầu về bảo vệ nhân quyền thuộc về các quốc gia liên quan.

Trong 7 năm qua, Hội đồng Nhân quyền đã có những đóng góp thiết thực hơn vào việc bảo vệ nhân quyền trên thế giới so với Ủy ban Nhân quyền trước đây.

Tuy nhiên, theo Bộ trưởng, hội đồng cần tăng cường hiệu quả hoạt động để đối phó với các thách thức nhiều mặt về nhân quyền mà dư luận đang hết sức quan tâm.

[Việt Nam dự khóa họp 22 Hội đồng Nhân quyền LHQ]

Bộ trưởng Phạm Bình Minh nhấn mạnh Hội đồng Nhân quyền cần phải thực sự trở thành diễn đàn đối thoại và hợp tác, có cách tiếp cận toàn diện, cân bằng về nhân quyền, tôn trọng các nguyên tắc phổ quát, minh bạch, khách quan, không thiên vị trong mọi hoạt động.

Bộ trưởng Phạm Bình Minh nhấn mạnh chính sách nhất quán đảm bảo quyền con người của Nhà nước Việt Nam xuất phát từ nhận thức coi quyền con người là giá trị chung của nhân loại, có gốc rễ sâu xa từ truyền thống lịch sử, văn hóa hàng nghìn năm của dân tộc, từ nguyện vọng thiết tha của người dân Việt Nam từng bị tước bỏ những quyền và tự do cơ bản nhất khi làm người dân của một nước thuộc địa.

Bộ trưởng cũng nêu bật chính sách, luật pháp, thành tựu về đảm bảo quyền con người ở Việt Nam, đặc biệt về tăng trưởng kinh tế, xóa đói giảm nghèo, đảm bảo an sinh xã hội và các quyền cơ bản của người dân trên mọi lĩnh vực, đồng thời khẳng định chính sách tăng cường đóng góp và hợp tác quốc tế của Việt Nam trong lĩnh vực quyền con người, đặc biệt Đối thoại Nhân quyền với nhiều nước, tham gia hầu hết các công ước quốc tế về nhân quyền, thực hiện tốt Cơ chế Kiểm điểm định kỳ (UPR)…

Bộ trưởng Phạm Bình Minh cũng tái khẳng định việc Chính phủ Việt Nam quyết định ứng cử vào Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2014-2016 nhằm đóng góp nhiều hơn nữa vào các nỗ lực chung của Liên hợp quốc và cộng đồng quốc tế trong việc bảo vệ quyền con người.

Khóa họp thường niên lần thứ 22 Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc đã khai mạc sáng 25/2 tại Geneva và mở đầu là Phiên cấp cao diễn ra trong ba ngày.

76 nước cử Đoàn cấp cao tham dự, trong đó có 1 Tổng thống, 2 Phó Tổng thống, 1 Thủ tướng, 8 Phó Thủ tướng, 43 Bộ trưởng, 3 Quốc vụ khanh và 17 Thứ trưởng./.

(TTXVN)
vietnamplus.vn

Cách nhìn quá lỗi thời, sai lệch

Báo cáo thế giới 2013 của Tổ chức Theo dõi nhân quyền HRW

QĐND – Ngày 31-1, Tổ chức Theo dõi nhân quyền (HRW) có trụ sở tại New York đã công bố bản báo cáo tình hình thế giới dày 660 trang, trong đó phần báo cáo về Việt Nam dài 8 trang.

Một lần nữa, phần nội dung chính trong 8 trang liên quan đến Việt Nam này lại là kết quả của cách nhìn méo mó, thiên kiến và đơn giản là sự sắp xếp, tập hợp những thông tin cắt xén, bịa đặt của các tác giả báo cáo HRW.

Với ngôn từ như trong những bản cáo trạng, các tác giả báo cáo của HRW cao giọng: “Chính phủ Việt Nam đàn áp một cách có hệ thống các quyền tự do ngôn luận, lập hội và nhóm họp ôn hòa và trấn áp những người lên tiếng chất vấn chính sách nhà nước, vạch trần quan chức tham nhũng hoặc kêu gọi thay đổi chế độ độc đảng bằng các giải pháp dân chủ. Công an sách nhiễu, đe dọa các nhà hoạt động và người thân của họ. Nhà cầm quyền tùy tiện bắt bớ các nhà hoạt động, giam giữ biệt lập trong thời gian dài, không cho họ gặp gỡ gia đình hoặc tiếp cận với các nguồn trợ giúp pháp lý, tra tấn và truy tố họ ra trước các tòa án bị chính trị tác động, áp đặt các mức án tù thật nặng với các tội danh mơ hồ về xâm phạm an ninh quốc gia”!

Đây quả thật là đỉnh cao óc tưởng tượng lệch lạc của những người viết báo cáo HRW!

Gần như ngay lập tức, những người có lương tri, hiểu lẽ phải đã có những ý kiến phản hồi, cho thấy tính không chính xác trong những điều mà báo cáo của HRW nêu ra liên quan đến Việt Nam.

Trang BBC tiếng Việt thứ sáu, ngày 1-2 đưa tin một số nhà nghiên cứu về Việt Nam trong Nhóm nghiên cứu về Việt Nam (Vietnam Studies Group) đã tranh luận về báo cáo của HRW, không đồng tình với một số nội dung mà báo cáo nêu ra.

Trang này dẫn lời ông Ben Kerkvliet, một học giả nổi tiếng từ Đại học Quốc gia Australia, khẳng định rằng những nhận định của HRW không giống tư liệu ông thu thập được ở Việt Nam: “Nhiều nhà chỉ trích không bị đàn áp, nhiều cuộc biểu tình diễn ra mà không bị công an can thiệp”; “Công nhân, nông dân thường xuyên biểu tình chống tham nhũng, điều kiện làm việc, thu hồi đất… mà không bị sách nhiễu, đánh đập, tạm giữ, bắt giữ hay vào tù”.

Tiến sĩ Thomas Jandl từ Đại học Hoa Kỳ cho rằng, ở Việt Nam, phê phán chính sách thông qua các tổ chức phi chính phủ là điều được cho phép. Lẽ dĩ nhiên, những phê phán đó phải mang tính xây dựng, không làm tổn hại đến lợi ích của quốc gia.

Mặc dù cố tình bóp méo trên hầu hết các nội dung về quyền con người ở Việt Nam nhưng các tác giả bản báo cáo của HRW cũng không thể chối bỏ nổi một thực tế hiển nhiên là quyền tự do ngôn luận ở Việt Nam đã được tôn trọng khi phải thừa nhận ngay trong báo cáo rằng: “Quyền ngôn luận cá nhân, báo chí công và thậm chí ngôn luận chính trị ở Việt Nam có những dấu hiệu cho thấy được tự do hơn”.

Báo cáo HRW phải dẫn ra một ví dụ về ý kiến thẳng thắn được đưa ra trên diễn đàn Quốc hội Việt Nam họp hồi tháng 11-2012 để thừa nhận điều này, dù cố vớt vát bằng một câu quy chụp khá vô duyên và không có cơ sở rằng “vẫn tồn tại làn sóng ngầm của bàn tay đàn áp có chủ trương nhằm vào những người có phát ngôn đi quá giới hạn”!

Mang danh một báo cáo về nhân quyền, thế nhưng báo cáo của HRW lại có những chi tiết cứ như báo cáo của cơ quan cảnh sát, rằng “sau hàng loạt vụ bắt giữ các quan chức doanh nghiệp nhà nước và các đại gia nhiều vây cánh” (thực tế, những người này vi phạm pháp luật Việt Nam và bị bắt), rồi suy diễn ra một cách rất hồ đồ rằng (ở Việt Nam), các “phe phái” đang “tranh nhau giành quyền kiểm soát bộ máy kinh tế chính trị, dẫn đến một cuộc tranh giành quyền lực hiện vẫn đang tiếp diễn”!

Thật là nực cười cho đầu óc tưởng tượng của các vị “tác giả” báo cáo HRW!

Liên quan đến vấn đề tôn giáo ở Việt Nam, báo cáo HRW, như thường lệ, vẫn bóp méo thực tế, đưa ra đánh giá bịa đặt rằng: “Chính quyền hạn chế tự do tôn giáo bằng các quy định pháp luật, quy định đăng ký hoạt động, đồng thời sách nhiễu và đe dọa các nhóm tôn giáo không được công nhận…”.

Phụ họa cho luận điệu sai trái này, ra vẻ bám sát thực tế, báo cáo HRW dẫn ra một số trường hợp, trong đó có vụ án “hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân” ở tỉnh Phú Yên, như sau: “Trong tháng Hai và tháng Ba (năm 2012-TG), Công an tỉnh Phú Yên bắt giữ ít nhất 18 thành viên của một chi phái tín ngưỡng có gốc Phật giáo, tự đặt tên là Hội đồng Công luật Công án Bia Sơn”.

Hỡi ôi! Có cái gọi là “chi phái tín ngưỡng” nào lại dự kiến hành động lật đổ chính quyền (để thành lập nhà nước Đại Nam Kinh), rồi lập ra cả một bộ máy chính quyền trung ương, có cả quốc kỳ, quốc ca, thủ đô, thậm chí sắc phong cho 72 tướng lĩnh!

Chính sách tự do tôn giáo ở Việt Nam, từ lâu đã được chủ trương và thể chế hóa trong các văn kiện của Đảng, chủ trương, chính sách của Nhà nước. Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (1991) Đảng Cộng sản Việt Nam đã ghi rõ: “Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Đảng và Nhà nước ta tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân, thực hiện bình đẳng, đoàn kết lương, giáo và giữa các tôn giáo. Khắc phục mọi thái độ hẹp hòi, thành kiến, phân biệt đối xử với đồng bào có đạo, chống những hành động vi phạm tự do tín ngưỡng”. Quan điểm này tiếp tục được bổ sung và hoàn thiện trong các kỳ đại hội tiếp theo, được đề cập trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011).

Không giới hạn ở quan điểm chủ trương, tự do và phát triển tôn giáo đã được cụ thể hóa trên thực tế. Hiện cả nước Việt Nam có 12 tôn giáo với trên 22 triệu tín đồ, 80 nghìn chức sắc tôn giáo, nhà tu hành, 32 tổ chức và trên 25.000 nơi thờ tự. Việc xây dựng mới, tôn tạo, tu bổ nơi thờ tự được tạo điều kiện thuận lợi diễn ra khắp nơi trên đất nước. Các dịp lễ trọng, sinh hoạt tôn giáo trở thành ngày hội chung của toàn dân, lôi kéo hàng vạn người tham gia…

Chính sách tự do tôn giáo của Việt Nam đã nhận được sự ủng hộ của đông đảo của dư luận quốc tế. Trong chuyến thăm cấp nhà nước tới Cộng hòa I-ta-li-a mới đây, Tổng Bí thư Đảng cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng đã có cuộc gặp Giáo hoàng Benedict XVI tại Tòa thánh Vatican trong bầu không khí thẳng thắn, cởi mở, hiểu biết lẫn nhau…

Những thực tế hiển nhiên đó bác bỏ mạnh mẽ những luận điệu xằng bậy về tôn giáo ở Việt Nam trong báo cáo của HRW!

Một trong những nội dung chính luôn lặp đi lặp lại trong các báo cáo của HRW là tố cáo Việt Nam “đàn áp” các nhà hoạt động nhân quyền và báo cáo lần này cũng không phải là ngoại lệ. Báo cáo đã cố tình xuyên tạc hành động của các cá nhân, tổ chức có hoạt động vi phạm pháp luật Việt Nam, coi đó như các nhà “vận động nhân quyền”.

Nhưng có một thực tế khác mà báo cáo đã lờ đi, đó là Việt Nam luôn cương quyết trừng trị những người có hành vi vi phạm pháp luật, nhưng cũng rất khoan dung đối với những người lầm đường lạc lối.

Trên tinh thần nhân đạo, mới đây Việt Nam đã trả tự do cho công dân Mỹ gốc Việt Nguyễn Quốc Quân (tên Mỹ là Richard Nguyễn) là một ví dụ. Một ngày trước hôm HRW phát hành báo cáo xuyên tạc tình hình nhân quyền ở Việt Nam, ngày 30-1, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Mỹ, bà Victoria Nuland, trong buổi tiếp xúc với báo giới, đã xác nhận rằng Mỹ cảm thấy hài lòng về việc công dân Mỹ Richard Nguyễn được trả tự do và đấy là một “tin vui”…

Tất cả những lý lẽ cũng như dẫn chứng nêu trên cho thấy Báo cáo tình hình thế giới 2013 của HRW, phần liên quan đến Việt Nam, hoàn toàn không chính xác, là một sự xúc phạm nhân dân Việt Nam. Đó là cách đánh giá lỗi thời, sai lệch và cần phải bị lên án.

TƯỜNG MINH
qdnd.vn

Dân chủ, nhân quyền – những điều không thể áp đặt

(ĐCSVN) – Dân chủ và nhân quyền là những vấn đề lớn trong lịch sử nhân loại, trong đời sống xã hội của mỗi quốc gia và đã trở thành một nội dung cơ bản trong quan hệ quốc tế. Ngày nay, dân chủ và nhân quyền còn là những vấn đề chính trị nhạy cảm phức tạp, nhất là khi Mỹ tự cho mình quyền lãnh đạo thế giới, đem các giá trị về dân chủ và nhân quyền của mình đi áp đặt và can thiệp vào nội bộ các nước khác. 

Hiện nay, vấn đề dân chủ và nhân quyền đang được Mỹ và một số nước phương Tây triển khai như cuộc chơi lớn trên cấp độ quốc tế. Cái cách thức mà họ đang đẩy tới cuộc tấn công về dân chủ, nhân quyền làm cho không ít người lo ngại rằng trận địa này sẽ trở thành một “điểm nóng xung đột” gay gắt nhất về tư tưởng và văn hóa trong tương lai. Đối với những người đang tự trao cho mình sứ mệnh vạch chương trình nghị sự cho cả thế giới, thì dân chủ, nhân quyền không chỉ là những chủ trương có tính nhất thời, mà là một quốc sách lâu dài. Nó không chỉ là một mắt xích trong một chiến lược, mà bản thân nó là một chiến lược để áp đặt các giá trị Mỹ, giá trị phương Tây cho toàn thể nhân loại. Mỹ và một số nước phương tây mặc nhiên coi những giá trị dân chủ, nhân quyền của mình là giá trị chung của nhân loại. Hễ ở đâu, quốc gia nào làm điều gì trái với ý họ là họ lên giọng phán xét ngay đó là “sự vi phạm dân chủ, nhân quyền”. Trong canh bạc dân chủ, nhân quyền của họ, bao giờ cũng thấy thấp thoáng, ẩn chứa những toan tính chính trị.

Thực tế sau chiến tranh cho thấy, Irắc vẫn tiếp tục bị nhấn chìm trong những vụ bạo loạn đẫm máu. Vũ khí Mỹ có thể lật đổ một chính quyền nhưng không thể xây dựng được quan niệm, giá trị và văn hóa theo kiểu Mỹ trên mảnh đất Babilon cổ kính. Những va đập giữa lối tư duy truyền thống của các cộng đồng sắc tộc Irắc, với thực tế “Tây hóa” đang ngày một dữ dội hơn, khiến mọi sự ở quốc gia này trở nên thêm rối lẫn. Những thủ lĩnh chống đối cực đoan nhờ thế mà tập hợp được nhiều hơn những lực lượng không đồng tâm, đồng tính, đồng tình với Chính phủ ở Baghdad và liên tục lớn tiếng đe dọa gây nên những vụ bạo lực kinh hoàng hơn.

Một bức tranh tương tự cũng đang diễn ra ở Afghanistan. Cuộc bầu cử Quốc hội mới đây ở Afghanistan được coi như thành công, nhưng không có dấu hiệu về sự hòa hoãn của Taliban với chính quyền Kabul do Mỹ và phương Tây hậu thuẫn. Thậm chí còn có nguy cơ các thủ lĩnh Taliban sẽ lọt được vào các cơ cấu chính quyền địa phương và dần dà tranh thủ lòng dân bằng mọi cách. Từ đầu năm 2005 đến nay đã có tới 1000 người trong đó có 7 cứng cử viên và 6 nhân viên bầu cử thiệt mạng. Nói một cách thẳng thắn, trên mảnh đất Afghanistan rất khó gieo những “hạt giống chính trị” xa lạ với truyền thống Hồi giáo lâu đời. Mỹ có lẽ không phải là nước đầu tiên và cuối cùng sẽ phải đối mặt với kết cục u ám đó.

Các cuộc “cách mạng sắc mầu” vừa xảy ra ở Grudia, Cưrơgưxtan Ukraina cho thấy không thể khờ khạo tin rằng, những phong trào xã hội gọi là đấu tranh cho dân chủ và nhân quyền, được sự trợ giúp của các trung tâm tiền bạc phương Tây, lại thực sự hoạt động ích nước lợi nhà, chứ không phải vì quyền lợi trước mắt và lâu dài của những kẻ cung cấp tài chính cho họ. Thực tế lại thêm một lần nữa cho thấy đến hôm nay các quốc gia này vẫn chưa thoát khỏi những rối loạn nội bộ đến mức chẳng thể nào an cư được chứ nói chi đến chuyện phát triển. Vì vậy những thể chế hình thành theo những công thức đã được định sẵn từ hải ngoại, không biết cất tiếng theo giọng nói của chính mình rất khó đi tới những triển vọng sáng sủa.

Từ thực tiễn sinh động của nền chính trị thế giới hiện nay cho chúng ta nhận thức chung rằng, dân chủ và nhân quyền là tổ hợp những vấn đề tế nhị và nhạy cảm, vì các căn nguyên sâu xa của nó bắt rễ trong phong cách sống cũng như nấc thang giá trị của từng dân tộc. Các vấn đề đó cần phải được bồi đắp và gây dựng từ từ theo từng giai đoạn phù hợp với trình độ phát triển của mỗi quốc gia. Dân chủ, nhân quyền không phải là thứ có thể đem “xuất khẩu” áp đặt cho bất cứ quốc gia nào. Không còn là hiện tượng hiếm hoi khi tại nhiều nước nghèo, đưa dân chủ vô hạn độ vào đồng nghĩa với vô chính phủ, dẫn đến tranh chấp, xung đột, nghèo đói. Mọi luận điệu cho rằng: “dân chủ”, “nhân quyền” cao hơn chủ quyền đều là những lập luận ngụy biện cho chính sách cường quyền muốn can thiệp, xâm lược các quốc gia độc lập có chủ quyền mà thôi.

Thế giới mà chúng ta đang sống vừa thống nhất vừa đa dạng, phức tạp với bản sắc riêng của từng dân tộc. Tuy rất đặc thù, nhưng dân chủ và nhân quyền, cũng như các lĩnh vực khác đã và đang dần trở thành một bộ phận của đời sống quốc tế. Vì thế, thay vì áp đặt theo kiểu “sen đầm quốc tế về dân chủ và nhân quyền” nên đưa nó vào trong tiến trình của các cuộc đối thoại quốc tế trên nguyên tắc bình đẳng, tôn trọng độc lập chủ quyền của các quốc gia./.

TS. Thái Văn Long
Viện QHQT – Học viện CTQGHCM
dangcongsan.vn

Khẳng định vai trò của Hiến pháp năm 1992

Làm thất bại chiến lược “Diễn biến hòa bình”

QĐND – Hiến pháp có vị trí đặc biệt quan trọng trong hệ thống pháp luật và đời sống chính trị của mỗi quốc gia. Hiến pháp được coi là đạo luật cơ bản, đạo luật gốc của Nhà nước. Các quy định của Hiến pháp là cơ sở pháp lý cho việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật.

Ở Việt Nam, kể từ khi thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) đến nay, chúng ta đã có 4 bản Hiến pháp, đó là Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm l980 và Hiến pháp năm 1992 (đã được sửa đổi bổ sung vào năm 2001). Các bản Hiến pháp sau đều có sự kế thừa và phát triển của các bản Hiến pháp trước. Để chuẩn bị cho việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992, hiện nay toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đang tiến hành tổng kết việc thi hành Hiến pháp năm 1992. Trên cơ sở đánh giá khách quan, đúng đắn về vai trò, sứ mệnh của Hiến pháp, đã có rất nhiều ý kiến tâm huyết của các tầng lớp nhân dân gửi đến Ủy ban dự thảo sửa Hiến pháp, các cơ quan chức năng, các cơ quan thông tin đại chúng đánh giá những mặt tích cực, những hạn chế của Hiến pháp năm 1992. Từ đó xác định những tư tưởng, nội dung của Hiến pháp cần tiếp tục kế thừa; những vấn đề cần sửa đổi, bổ sung trong Hiến pháp để đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước phù hợp với tình hình mới. Tuy nhiên, gần đây đã xuất hiện một số ý kiến lạc lõng phát biểu trên blog và báo điện tử nước ngoài cho rằng, “chẳng cần phải tổng kết việc thi hành Hiến pháp”, “không nên kế thừa Hiến pháp năm 1992”, “phải xây dựng một bản Hiến pháp hoàn toàn mới”…

Trước hết, phải khẳng định rằng, trải qua mấy nghìn năm lịch sử, nhân dân Việt Nam lao động cần cù, sáng tạo, chiến đấu anh dũng để dựng nước và giữ nước, đã hun đúc nên truyền thống đoàn kết, nhân nghĩa, kiên cường, bất khuất của dân tộc và xây dựng nên nền văn hiến Việt Nam. Thế nhưng, phải đến khi Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời chúng ta mới tổ chức xây dựng được bản Hiến pháp đầu tiên vào năm 1946.

Hiến pháp năm 1992 được xây dựng trên cơ sở sửa đổi Hiến pháp năm 1980 một cách cơ bản và toàn diện, đáp ứng yêu cầu của giai đoạn cách mạng mới – giai đoạn đổi mới toàn diện đất nước do Đại hội lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam đề xướng từ năm 1986 và đến năm 1992 đã đạt được những thành tựu bước đầu rất quan trọng.

So với Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992, nhất là phần sửa đổi, bổ sung năm 2001 đã có rất nhiều đổi mới và phát triển, tạo cơ sở pháp lý cho việc xây dựng Nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Điều 2 và Điều 3 của Hiến pháp khẳng định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.

Quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.

“Nhà nước bảo đảm và không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của nhân dân, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; nghiêm trị mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân”.

Trên cơ sở các nguyên tắc tổ chức quyền lực Nhà nước được quy định trong Hiến pháp, bộ máy Nhà nước ta tiếp tục được đổi mới, hoàn thiện. Hiến pháp năm 1992 là cơ sở pháp lý cho việc xóa bỏ các quan hệ kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp, xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, mở cửa, hội nhập quốc tế. Sự đổi mới điều chỉnh quan trọng trong Hiến pháp năm 1992 là lập lại chế định Chủ tịch nước là cá nhân một người và thành lập Ủy ban Thường vụ Quốc hội là cơ quan thường trực của Quốc hội; lập Hội đồng Quốc phòng và An ninh do Chủ tịch nước làm Chủ tịch. Ủy ban Thường vụ Quốc hội gồm có Chủ tịch Quốc hội, các Phó chủ tịch Quốc hội và các ủy viên. Thành viên của Ủy ban Thường vụ Quốc hội không thể đồng thời là thành viên Chính phủ. Ủy ban Thường vụ Quốc hội thực hiện 12 nhiệm vụ, quyền hạn, trong đó có quyền công bố và chủ trì việc bầu cử đại biểu Quốc hội; tổ chức việc chuẩn bị, triệu tập và chủ trì các kỳ họp Quốc hội; giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh; ra pháp lệnh về những vấn đề Quốc hội giao…

Hiến pháp năm 1992 quy định Quốc hội bầu Hội đồng Dân tộc và các ủy ban của Quốc hội và lần đầu tiên quy định “mỗi ủy ban có một số thành viên làm việc theo chế độ chuyên trách”.

Hiến pháp năm 1992 là nền tảng chính trị – pháp lý cho việc đề cao và phát huy nhân tố con người trong đời sống Nhà nước và xã hội. Các quyền con người, quyền công dân mà Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) ghi nhận đã từng bước được thể chế hóa qua hoạt động lập pháp của Quốc hội, tạo thành một hệ thống các quyền và nghĩa vụ cơ bản của con người và công dân Việt Nam… Điều 8 của Hiến pháp khẳng định: “Các cơ quan Nhà nước, cán bộ, viên chức Nhà nước phải tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền”.

Đặc biệt, Hiến pháp năm 1992 đã thể chế hóa đường lối đổi mới về kinh tế của Đảng. Những quy định của Hiến pháp đã tạo nền tảng cho sự đổi mới và hoàn thiện thể chế kinh tế, góp phần tạo lập được một trật tự các quan hệ kinh tế mới làm chỗ dựa vững chắc cho đổi mới các yếu tố của thượng tầng kiến trúc, đưa đất nước ra khỏi tình trạng khó khăn về kinh tế, giữ vững ổn định và phát triển xã hội, góp phần xây dựng và phát triển nền kinh tế đất nước trong 20 năm qua.

Như vậy, không thể phủ nhận vai trò của Hiến pháp năm 1992.

Tuy nhiên, do đặc thù của Hiến pháp năm 1992 là Hiến pháp của thời kỳ đầu đổi mới và đến nay, đất nước ta đã có nhiều thay đổi trong bối cảnh quốc tế có những biến đổi to lớn và sâu sắc. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020, Báo cáo chính trị của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, trên cơ sở tổng kết sâu sắc thực tiễn và lý luận 25 năm đổi mới, đã xác định rõ mục tiêu, định hướng phát triển toàn diện, bền vững đất nước trong giai đoạn cách mạng mới nhằm xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Vì vậy, cần phải nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 cho phù hợp với yêu cầu tình hình mới. Nhưng việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 phải dựa trên cơ sở tổng kết việc thi hành Hiến pháp năm 1992 và các đạo luật có liên quan; tiếp tục kế thừa những quy định của Hiến pháp năm 1992 và các Hiến pháp của nước ta trước đây còn phù hợp; chỉ sửa đổi, bổ sung những vấn đề thực sự cần thiết, thiết thực, phù hợp với tình hình mới. Hiện nay, Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp đang tổ chức tổng kết việc thi hành Hiến pháp năm 1992 và xây dựng dự thảo sửa đổi Hiến pháp. Theo kế hoạch, bản dự thảo này sẽ được công bố rộng rãi để lấy ý kiến góp ý của toàn thể nhân dân trước khi trình Quốc hội xem xét, thông qua.

Hằng Nga
qdnd.vn

Bộ mặt thật của “những tổ chức đấu tranh đòi dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam”

Một số phần tử ở trong nước và tổ chức phản động nước ngoài đang lợi dụng chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền” để chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ ta. Chiêu bài đó được một số thế lực thù địch ở nước ngoài phụ họa. Đây là việc làm sai trái cần đấu tranh, phê phán và vạch mặt kịp thời để mọi người thấy được bản chất xấu xa, bộ mặt thật của họ, nhằm góp phần bảo vệ Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

Gần đây, một số người đã nhen nhóm tổ chức ra những cái gọi là “Đảng Dân chủ nhân dân”, “Đảng Thăng tiến”, Tổ chức 8406, Hội kêu oan, Hội nối vòng tay lớn…, ra Tuyên ngôn tự do, dân chủ cho Việt Nam, v.v và v.v..

Vậy họ là ai? Đó là một số người có quan điểm chính trị cơ hội một cách rõ ràng, hệ thống, có tham vọng chính trị lớn, trong đó có cả những kẻ đội lốt tôn giáo; một số người bất mãn, dao động về chính trị; một số người có nhận thức mơ hồ, không phân biệt được phải trái, đúng sai, bị kích động, lôi kéo, ngày càng lún sâu vào con đường lầm lạc.

Nhìn chung, mục tiêu chủ yếu của họ vẫn là những hoạt động nhằm phủ định chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; tấn công vào Cương lĩnh, đường lối đổi mới trong xây dựng chủ nghĩa xã hội của Đảng ta. Họ tìm mọi cách bóp méo, xuyên tạc đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước ta; bôi nhọ quá khứ cách mạng, xuyên tạc lịch sử, hòng chia rẽ nội bộ Đảng, chia rẽ Đảng với Nhà nước; cô lập, “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang; kích động một số trí thức, văn nghệ sĩ, sinh viên, học sinh nhẹ dạ cả tin; kích động một số người từng tham gia hoạt động cách mạng trước đây có tâm trạng bất mãn; chia rẽ tôn giáo, dân tộc, chia rẽ miền Bắc với miền Nam… hòng phá vỡ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Mục đích cơ bản của họ là làm suy yếu Đảng, tiến tới xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng đối với xã hội; thực hiện đa nguyên, đa đảng, lập các đảng phái phản động nhằm đưa đất nước đi theo con đường khác.

Để đạt mục tiêu đó, họ thực hiện sự kết hợp giữa các lực lượng trong và ngoài nước, nhưng hướng chính là khơi dậy từ bên trong, tiến tới xây dựng lực lượng chống đối từ trong nước, tạo dựng ngọn cờ, chờ thời cơ để thành lập các tổ chức phản động, công khai đối lập với Đảng Cộng sản. Họ chủ trương tiến dần từng bước: từ nhen nhóm hoạt động bí mật chuyển dần sang hoạt động công khai, từ hoạt động bất hợp pháp chuyển dần sang hoạt động nửa hợp pháp rồi hợp pháp. Họ tạo dựng mối liên hệ giữa các nhóm phản động trong nước, cũng như giữa các nhóm này với những tổ chức phản động của một số người Việt Nam lưu vong và các thế lực thù địch ở nước ngoài để vừa phát triển lực lượng, vừa phối hợp hành động, vừa tạo thêm thanh thế, vừa có thêm viện trợ tài chính, vừa để bảo vệ lẫn nhau.

Gần đây nhất, họ tìm mọi cách phủ nhận những thành tựu to lớn của nhân dân, dân tộc ta qua 20 năm đổi mới, xuyên tạc, bóp méo, bôi đen bức tranh xã hội, hòng gây tâm lý hoang mang, mất niềm tin trong nhân dân vào Đảng, Nhà nước và chế độ. Họ đặt ra những điều kỳ quặc như: “Có bao giờ nhân dân Việt Nam lại sống trong cảnh tủi nhục, đau thương như hiện nay không?”. “Có bao giờ dân tộc Việt Nam lại bị chia rẽ, nghi kỵ nhau, hận thù nhau sau những năm tháng cai trị của một chế độ như bây giờ không”? Từ đó, họ đưa ra những điều xuyên tạc, vu cáo trắng trợn: “Hơn nửa thế kỷ áp đặt chủ nghĩa cộng sản lên đất nước ta, Đảng Cộng sản đã thực hiện chính sách cai trị bằng thủ đoạn và bạo lực. Nhân dân chỉ được phép cúi đầu sợ hãi và sống trong mòn mỏi, tuyệt vọng”. Họ nhắm mắt nói bừa rằng, tất cả những quyền thiêng liêng của dân tộc được nói trong “Tuyên ngôn độc lập” “đều bị chà đạp thô bạo ngay sau đó, khi mà chính quyền cộng sản được dựng lên!”

Họ đã lợi dụng các quyền tự do, dân chủ để nhen nhóm tổ chức ra những đảng phái; thảo ra những “điều lệ”, “tuyên ngôn”, “cương lĩnh” và đề ra những hình thức, phương pháp hoạt động, hòng phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thủ tiêu vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, chống phá Nhà nước, chế độ, gây mất ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Đó chính là bộ mặt thật của cái gọi là “những tổ chức đấu tranh đòi dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam” và đó cũng chính là những hành động vi phạm pháp luật. Việc xét xử nghiêm minh những người vi phạm pháp luật là việc làm bình thường, theo đúng quy định của pháp luật Nhà nước Việt Nam và phù hợp với luật pháp quốc tế.

Một số thế lực thù địch ở nước ngoài tìm cách tiếp tay, kích động những phần tử chống phá cách mạng Việt Nam, chống phá Nhà nước và chế độ ta. Khi các phần tử này bị xử lý theo pháp luật thì họ kêu la, hò hét rằng, Nhà nước ta vi phạm dân chủ, nhân quyền, vi phạm tự do tín ngưỡng, đàn áp tôn giáo, đàn áp những người bất đồng chính kiến. Đó là sự xuyên tạc thô bạo, đổi trắng thay đen nhằm che giấu những âm mưu đen tối của họ.

Vừa qua, Bộ Ngoại giao Mỹ đưa ra bản phúc trình thường niên về tình hình nhân quyền tại các nước trên thế giới năm 2006. Bản phúc trình đề cập đến việc thực thi nhân quyền cũng như những hạn chế của nó tại 196 quốc gia. Đánh giá chung về tình hình nhân quyền ở Việt Nam năm 2006, bản phúc trình đưa ra nhận định mơ hồ, vô văn cứ: “Thành tích nhân quyền của Chính phủ Việt Nam vẫn chưa đạt yêu cầu”. Rằng, “vẫn có việc bắt giữ người vì hoạt động chính trị và đánh đập các nghi phạm”.

Ngày 5-4-2007 vừa qua, đi cùng đoàn Hạ nghị sĩ Mỹ đến thăm Việt Nam có bà L.Xan-chét. Bà ta đã diễn màn kịch về nhân quyền do một nhóm người Việt Nam lưu vong quá khích, lỗi thời trong cái gọi là Đảng Việt Tân dàn dựng trước. Những lời nói và việc làm của bà ta nhằm “kích động” các phần tử đang chống đối lại nhân dân Việt Nam. Phó Chủ tịch Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội, bà Tôn Nữ Thị Ninh, người trực tiếp tham gia đoàn Quốc hội Việt Nam làm việc với đoàn Hạ nghị sĩ Mỹ, phê phán việc làm này như sau: bà L. Xan-chét đến Việt Nam không phải để tìm hiểu và trao đổi ý kiến, mà để thực hiện một chương trình “can dự” riêng, theo sự xúi giục của một nhóm cử tri cực đoan tại bang Ca-li-phoóc-ni-a (Mỹ) vẫn đang chìm đắm trong quá khứ. Bà ta đã trở thành con tin của nhóm cử tri lỗi thời.

Để tiếp tay cho việc làm thiếu thiện chí của bà L. Xan-chét, trong phiên điều trần về vấn đề nhân quyền của Tiểu ban Tài chính Hạ viện Mỹ vừa qua, dân biểu F.U-ôn-tơ đã đặt câu hỏi: Vì sao ông Đại sứ M. Mơ-rin không lên tiếng về tình trạng vi phạm nhân quyền tại Việt Nam, cụ thể là vụ bắt giữ và xét xử cha Lý?

Phải chăng vì những sức ép trên mà ngài Đại sứ Mỹ tại Việt Nam M. Mơ-rin mới lên tiếng kêu gọi Nhà nước ta cởi mở hệ thống chính trị độc đảng và trả tự do cho những người bất đồng chính kiến, trong đó có linh mục Công giáo Nguyễn Văn Lý? Ông ta còn lên giọng kẻ cả rằng: “Vì sự hội nhập quốc tế và phát triển sâu rộng hơn của Việt Nam, Chính phủ Việt Nam cần trả tự do cho những người này và các cá nhân khác ngay…”. Tiếp đó, ủy ban Tự do tôn giáo quốc tế của Mỹ khuyến nghị Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Mỹ C. Rai-xơ đưa Việt Nam trở lại danh sách “những quốc gia đặc biệt quan tâm về tôn giáo” (CPC). Quả là những đòi hỏi ngang ngược và phi lý. Thử hỏi, nếu có những kẻ nhen nhóm tổ chức ra những lực lượng chống lại cái gọi là “dân chủ” như ở nước Mỹ, gây mất ổn định chính trị – xã hội, hòng lật đổ chế độ đương thời, thì liệu Chính phủ Mỹ có chịu ngồi yên?

Chúng ta đều biết, bất cứ một nền dân chủ nào cũng gắn với kỷ cương, pháp luật của Nhà nước. Bất cứ sinh hoạt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội nào của mỗi công dân trong một xã hội tự do, dân chủ đều không được làm ảnh hưởng đến an ninh chính trị – xã hội và quyền tự do, dân chủ của những công dân khác cũng như của cộng đồng. Do đó, mọi người phải sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật; tất cả những hành động vi phạm pháp luật đều phải bị xét xử. Trong những nơi lưu giữ phạm nhân ở nước ta hiện nay, có người nguyên là tu sĩ, chức sắc tôn giáo và cũng có những người vốn không phải là tu sĩ, tín đồ nào, thậm chí có những người trước đây là cán bộ, đảng viên, nhưng tất cả đều bị xử lý theo pháp luật, vì họ là những người phạm pháp, chứ không phải vì lý do nào khác.

Thật ra, chiêu bài dân chủ, nhân quyền, tôn giáo được một số thế lực chính trị ở Mỹ sử dụng từ lâu. Muốn trấn áp một dân tộc, quốc gia không chịu khuất phục trước quyền uy của mình, họ thường quy chụp cho cái mũ “vi phạm dân chủ, nhân quyền, tôn giáo” để tạo cớ gây khó dễ mà thôi.

Có thể nói, tôn giáo là một hiện tượng xã hội rất tế nhị, nhạy cảm, bám rễ sâu trong đời sống tư tưởng, tình cảm của nhiều dân tộc và của nhiều thế hệ. Tôn giáo không chỉ quan hệ đến “việc đạo mà cả việc đời”, không chỉ liên quan đến “thế giới bên kia”, mà còn liên quan trực tiếp đến đời sống hiện thực. Trong điều kiện lịch sử hiện nay, sự tồn tại của tôn giáo trong đời sống xã hội vẫn còn là một tất yếu. Tôn trọng niềm tin tôn giáo là tôn trọng quyền con người, quyền công dân của đồng bào tôn giáo. Song, tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng phải gắn với việc chống lại những kẻ lợi dụng quyền ấy vào mục đích phi tôn giáo. Tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng là tôn trọng niềm tin, nghi thức thờ phụng, những sinh hoạt tôn giáo phù hợp với giáo lý kinh thánh, với truyền thống văn hóa dân tộc, góp phần nâng cao đạo đức, nhân cách của con người, chứ không thể chấp nhận những hành vi lợi dụng, đội lốt tôn giáo để làm những điều phi pháp, phản văn hóa, phi nhân tính, đi ngược lại những lời răn dạy của Chúa và những yêu cầu chính đáng của đồng bào tôn giáo, mà điển hình là những việc làm của cha Nguyễn Văn Lý vừa qua. Mỗi tín đồ tôn giáo vừa là thành viên của cộng đồng, vừa là công dân của đất nước, được hưởng quyền tự do tín ngưỡng chính đáng của mình, đồng thời có nghĩa vụ tôn trọng và chấp hành pháp luật, làm tròn trách nhiệm của công dân đối với Nhà nước, thực hiện sống “tốt đời đẹp đạo”. Đây là điều mà mỗi công dân, mỗi tín đồ tôn giáo ở nước ta đều ý thức rõ, nên đã và đang thực hiện tốt trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng và trong sự nghiệp đổi mới đất nước.

Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đều hiểu rằng, chúng ta còn phải cố gắng nhiều hơn nữa để nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, để nhân dân phát huy quyền dân chủ của mình trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Song, về thực chất, nước ta đã thực hiện và bảo vệ dân chủ, nhân quyền tốt hơn hẳn một số nước vẫn rao giảng về dân chủ, nhân quyền.

Từ một nước thuộc địa, dân bị nô lệ, chúng ta đã giành được cái nhân quyền lớn nhất là quyền tự quyết định vận mệnh của mình. Từ một nước nghèo, lạc hậu, chúng ta đã phấn đấu xóa đói, giảm nghèo, nâng trình độ phát triển kinh tế lên ngày một khá hơn. Từ một nước có mặt bằng dân trí thấp, Việt Nam đã là một quốc gia có trình độ văn hóa phổ thông cao hơn mức trung bình của thế giới và là quốc gia đạt chỉ số phát triển con người (HDI) vào hàng cao so với nhiều quốc gia khác. Bên cạnh đó, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt; hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường; chính trị – xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được giữ vững; vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao. Rõ ràng, sức mạnh tổng hợp của đất nước đã tăng lên nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục phát triển đi lên với triển vọng tốt đẹp.

Gần đây, báo chí nước ngoài đã phản ánh nhiều điều “mắt thấy tai nghe” của du khách quốc tế sau khi tới Việt Nam: Việt Nam ngày nay không chỉ đã khắc phục được những tàn tích của chiến tranh, mà còn chứng tỏ là một quốc gia thiên đường cho du khách quốc tế. Sẽ là hết sức sai lầm nếu ai đó luôn gắn hình ảnh Việt Nam với chiến tranh và sự nghèo đói, mất tự do, dân chủ. Ngược lại, có đến mới biết Việt Nam xinh đẹp và trù phú ra sao. Du lịch chính là cầu nối sự hiểu biết cho những ai vẫn tồn tại quan điểm lệch lạc về Việt Nam. AON, một trong những công ty bảo hiểm lớn nhất toàn cầu, đã xếp Việt Nam vào danh sách những quốc gia có địa điểm du lịch an toàn nhất thế giới. Chính vì vậy, hằng năm số lượng người Việt Nam sống xa Tổ quốc về thăm đất nước luôn luôn tăng; số lượng người nước ngoài đến Việt Nam tham quan, du lịch và ký kết hợp tác làm ăn cũng ngày càng nhiều, thậm chí có không ít người đến hẳn Việt Nam sinh sống và làm việc. Điều đó chứng tỏ, dân chủ, nhân quyền, tôn giáo, tín ngưỡng ở Việt Nam luôn được tôn trọng. Mọi người có đủ quyền tự do, dân chủ để cảm thấy mình thoải mái khi sống ở Việt Nam.

Như vậy, nhân quyền không phải là một khái niệm trừu tượng, lại càng không phải là một khái niệm theo hình mẫu áp đặt của ai đó. Chúng ta không tuyệt đối hóa những gì chúng ta đã đạt được, nhưng chúng ta có quyền tự hào chính đáng về sự phát triển vừa lớn lao, vừa cơ bản trong tiến trình đi lên của dân tộc. Điều này ngày càng có nhiều người Mỹ thừa nhận, trong đó có cả những người bình thường, những học giả, có cả những chính khách. Do đó, sự nhận xét sai lệch về tình hình dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam của một số Hạ nghị sĩ Mỹ không thể đại diện cho tiếng nói của một nước Mỹ chân chính.

Đến nay, quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ đã đạt được những tiến bộ quan trọng theo hướng xây dựng khuôn khổ quan hệ đối tác hữu nghị, hợp tác nhiều mặt, trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau và cùng có lợi. Vì vậy, điều cần làm hiện nay là hai bên cùng nhau đối thoại thẳng thắn, cởi mở về những vấn đề dân chủ, nhân quyền, tôn giáo nhằm tăng cường hiểu biết giữa hai bên và không để những khác biệt làm ảnh hưởng đến sự phát triển của quan hệ hai nước trên các lĩnh vực. Mặt khác, Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hành động xuyên tạc và lợi dụng các vấn đề dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo hòng can thiệp vào công việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh và ổn định chính trị của Việt Nam.

Trần Duy Hương
xaydungdang.org.vn

Cảnh giác với “tin bẩn”

Làm thất bại chiến lược “Diễn biến hòa bình”

Hằng ngày, qua các phương tiện truyền thông chúng ta được tiếp cận với lượng thông tin khổng lồ. Sự phát triển của công nghệ thông tin đã giúp các phương tiện truyền thông không ngừng lớn mạnh và len lỏi vào từng ngóc ngách của cuộc sống. Trong thế giới thông tin mênh mông có rất nhiều thông tin có ích, giúp chúng ta hiểu biết về thế giới mà chúng ta đang sống, thậm chí giúp con người định vị được cuộc sống và sống đẹp hơn. Nhưng, bên cạnh đó có không ít thông tin “bẩn” do các tổ chức hoặc cá nhân phản động chống Đảng Cộng sản, cơ hội chính trị tung ra nhằm mục đích xuyên tạc, bôi nhọ chế độ, Đảng Cộng sản, nhà nước và cá nhân các nhà lãnh đạo. Mục đích của việc tung ra những loại “tin bẩn” ấy, không gì hơn, là gây ra sự nghi ngờ lẫn nhau, tạo ra và kích động mâu thuẫn nội bộ trong nước, trong cộng đồng, giữa các cộng đồng, giữa các giai tầng… trong xã hội. Đó chính là một phần của chiến lược lật đổ trong hòa bình mà các thế lực tiến hành chống phá các nước xã hội chủ nghĩa, trong đó Việt Nam là một trọng điểm. Chiến lược này mang tên diễn biến hòa bình.

Các lực lượng chống đối thường xuyên công khai trên các phương tiện truyền thông hoặc thì thầm truyền miệng theo kiểu “mưa dầm thấm lâu”, “nhai đi nhai lại” những “tin bẩn”, khiến người ít hiểu biết tưởng là “chân lí”, lầm lẫn giữa thật và giả. Đó là kiểu tuyên truyền “Gơ-ben” được ưa dùng trong chiến tranh thế giới thứ hai. Việc tiếp nhận và xử lí những thông tin đó, tin hay không tin, hoàn toàn phụ thuộc vào sự hiểu biết và bản lĩnh của mỗi người.

Cách đây 3 năm, vào năm 2006, tạp chí Forbes của Mỹ đã đặt nhà lãnh đạo Cu-ba Phi-đen Ca-xtơ-rô (Fidel Castro) vào vị trí thứ 7 trong danh sách bình chọn các nhà lãnh đạo mà tạp chí này cho là giàu nhất thế giới. Theo đó, Phi-đen có tài sản 900 triệu USD, gần gấp đôi Nữ hoàng Anh Elizabeth II. Tin này đã khiến không ít người bàng hoàng. Chẳng cần thanh minh nhiều, chính Phi-đen đã phát biểu trên đài truyền hình Cu-ba, rằng đó là một “lời vu khống đáng ghê tởm”. Ông nói: “Nếu họ có thể chứng minh tôi có tài khoản 900 triệu, 1 triệu, 500 nghìn, 100 nghìn, thậm chí chỉ 01USD ở nước ngoài, tôi sẽ từ chức”. Ông nói: “Thật lố bịch khi nói tôi có tới 900 triệu USD – món tài sản không người thừa kế. Số tiền đó để làm gì khi mà tôi sắp sang tuổi 80?”. Một năm trước đó, Forbes cũng loan tin Phi-đen có 550 triệu USD. Thống đốc Ngân hàng Trung ương Cu-ba Phran-xi-xcô Xô-be-rôn (Francisco Soberon) nhận xét thống kê củaForbes là một “lời nói dối độc địa”, do cơ quan tình báo Mỹ tung ra nhằm bôi nhọ Phi-đen, người đã dành cả cuộc đời mình cho sự nghiệp cách mạng ở Cu-ba nhưng cũng là người có cuộc sống vô cùng đạm bạc. Trên cương vị lãnh đạo cao nhất của Cu-ba khi ấy, ông chỉ nhận khoản lương tương đương 53 USD/tháng.

Người ta cố tình tung ra tin về “sự giàu có không ngờ” của Phi-đen với mục đích làm cho người dân Cu-ba cũng như những người cộng sản trên toàn thế giới nghi ngờ về sự liêm khiết của nhà lãnh đạo cách mạng Cu-ba, hòng khiến người dân Cu-ba bất bình với Phi-đen và Đảng Cộng sản Cu-ba, thúc đẩy họ nổi dậy lật đổ chính quyền cách mạng ở Cu-ba. Đó là một mục tiêu chiến lược mà Mỹ đã bắt đầu thực hiện ngay từ khi cách mạng Cu-ba thành công cách đây hơn 50 năm và vẫn đang tiếp tục. Tuy nhiên, người dân Cu-ba không dễ bị lừa bởi, hơn ai hết, họ hiểu rõ Phi-đen và vẫn dành nguyên niềm tin yêu của mình cho vị lãnh tụ cách mạng Cu-ba và Đảng Cộng sản Cu-ba cũng như tiếp tục tin vào con đường cách mạng Cu-ba.

Đó là một ví dụ về một dạng “tin bẩn” mà các lực lượng chống cộng thường tung ra và lặp đi lặp lại nhiều lần như hỏa mù, khiến những người cả tin tưởng thật. Trong nhiều năm qua, bằng đủ các hình thức truyền tin, dựa vào sức mạnh tiền bạc và các phương tiện truyền thông, người ta bịa đặt hoặc xuyên tạc sự thật về các vấn đề nhạy cảm liên quan tới chế độ, hoặc dựng chuyện về các cá nhân nhằm bôi nhọ, kích động mâu thuẫn nội bộ đối phương; tạo sự nghi ngờ lẫn nhau và dẫn tới “tự diễn biến”, gây bạo loạn, lật đổ.

Con bài này từ lâu cũng được các thế lực chống đối áp dụng chống phá Việt Nam. Các loại “tin bẩn” được họ tung ra hằng ngày. Chẳng hạn, một số trang web tung ra danh sách một số chính khách và cựu chính khách của Việt Nam có “tài sản khổng lồ” trong nước và tiền gửi ở ngân hàng nước ngoài. Rồi họ đặt câu hỏi sao những người này giàu thế và tự phán xét rằng, chỉ có thể “do tham nhũng, vơ vét của dân”. Thông tin này cũng khiến những người cả tin bị hoang mang rồi biến thành những câu chuyện xầm xì. Trường hợp này cũng giống với việc họ gán cho Phi-đen khoản tài sản 900 triệu USD. Những ai tỉnh táo thì đều hiểu rằng, đó là sự bôi nhọ vẫn thường được tung ra trước các sự kiện lớn của đất nước, như Đại hội Đảng các cấp, bầu cử ở các cấp…

Bên cạnh những “tin bẩn” được tung ra kiểu đó, còn có cả những văn kiện chính thức cũng mang tính bịa đặt, xuyên tạc. Gần đây nhất, Hạ viện Mỹ đã thông qua nghị quyết HR 672, chỉ trích Việt Nam “bóp nghẹt tự do Internet”. Một nghị quyết khác cũng vừa được Nghị viện châu Âu thông qua cuối tuần trước với những nhận định hoàn toàn sai trái về tình hình Việt Namtrong lĩnh vực nhân quyền. Cả hai nghị viện đều phủ nhận những thành tựu của Việt Nam trong lĩnh vực bảo vệ và bảo đảm quyền con người trong thời gian qua, vốn đã được cộng đồng quốc tế đánh giá cao tại phiên bảo vệ Báo cáo quốc gia của Việt Nam theo Cơ chế Kiểm điểm Định kỳ (UPR) của Hội đồng Nhân quyền LHQ trong tháng 9 vừa qua. Việc tiếp tục chỉ trích Việt Nam một cách thiếu căn cứ chứng tỏ họ tự đặt mình trên mọi quy tắc ứng xử quốc tế hay những quy tắc thông thường nhất là thiểu số phục tùng đa số, mà ở Mỹ hay châu Âu cũng vẫn cổ vũ và áp dụng.

Thông tin độc hại, thông tin bịa đặt và xuyên tạc vẫn không ngừng được tung ra và đang tồn tại trong đời sống xã hội, vẫn được truyền miệng một cách tinh vi và xảo quyệt. Chúng đang ngấm ngầm tác động vào chúng ta hằng ngày. Ngăn chặn những thông tin loại đó không dễ. Việc nhận diện loại thông tin này phụ thuộc rất nhiều vào công tác tuyên truyền, giáo dục. Người có nền tảng kiến thức tốt, có hiểu biết, có tinh thần xây dựng tốt thì thường có bản lĩnh tốt khi tiếp nhận các thông tin khác nhau, phân biệt rõ cái đúng, cái sai. Vì thế, gần đây trong cuộc trả lời chất vấn tại quốc hội, Bộ trưởng Bộ Thông tin và truyền thông Lê Doãn Hợp đã kêu gọi giáo dục nâng cao trách nhiệm cá nhân, trách nhiệm gia đình, trách nhiệm xã hội và trách nhiệm của các đoàn thể, đặc biệt là các tổ chức đoàn thanh niên trong tiếp nhận thông tin từ mạng Internet, bởi số lượng bạn trẻ tiếp cận Internet rất lớn, gần 21 triệu người, so với số lượng độc giả báo in là 6 triệu.

KIM TÔN
qdnd.vn

Hoàn thiện hệ thống chính trị, bộ máy nhà nước và chế độ dân chủ

(ĐCSVN) – “Việc phúc quyết Hiến pháp là vấn đề rất hệ trọng đối với một quốc gia. Để thực hiện được vấn đề này phải có những điều cần và đủ sao cho việc phúc quyết đó khi được tiến hành phải thể hiện được ý chí và bảo vệ được quyền lợi của quốc gia, của dân tộc và của đại đa số các tầng lớp nhân dân.”Nhân dịp năm mới, Tiến sĩ luật học- Nguyễn Đình Quyền, Phó Chủ nhiệm Ủy ban tư pháp của Quốc hội đã chia sẻ với Phóng viên Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam xung quanh các nội dung cơ bản trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992.

Phóng viên (bên phải) trao đổi với đồng chí Nguyễn Đình Quyền, Phó Chủ nhiệm
Ủy ban tư pháp của Quốc hội xung quanh các nội dung cơ bản trong Dự thảo
sửa đổi Hiến pháp năm 1992.

Phóng viên: Theo đồng chí, mục tiêu và yêu cầu sửa đổi Hiến pháp năm 1992 lần này được đặt ra như thế nào?

Đồng chí Nguyễn Đình Quyền: Thứ nhất, theo tôi bản Hiến pháp lần này cần có tên gọi là “Hiến pháp năm 1992 sửa đổi”, bởi vì những vấn đề cốt lõi nhất của một bản Hiến pháp, những tư tưởng, nguyên lý, nguyên tắc về thể chế chính trị, bộ máy nhà nước, mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân, giữa Đảng và Nhà nước đều được kế thừa từ Hiến pháp năm 1992. Điểm khác nhau cơ bản giữa bản dự thảo sửa đổi Hiến pháp lần này và Hiến pháp năm 1992 ở điểm nó được hoàn thiện hơn về mọi phương diện để phúc đáp một cách toàn diện yêu cầu của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tôi thấy trên một số báo, truyền hình, bài viết có sử dụng thuật ngữ Hiến pháp là “đạo luật gốc”, “đạo luật mẹ” nhưng theo tôi nên sử dụng đúng thuật ngữ của ngành luật Hiến pháp đó là: “đạo luật cơ bản” của Nhà nước.

Thứ hai, mục đích và yêu cầu của bản dự thảo sửa đổi Hiến pháp lần này là tiếp tục khẳng định và làm sâu sắc hơn nữa, hoàn thiện hơn nữa về chủ quyền nhân dân. Hay nói cách khác là hoàn thiện hơn nữa nguyên lý ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Hiến pháp của Mỹ, Hiến pháp dân quyền của Pháp cũng có những quy định tương tự về vấn đề này. Tuy nhiên, chủ quyền nhân dân trong Hiến pháp của nước ta được thể hiện trên các phương diện về chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội, mối quan hệ giữa nhà nước và công dân, nguyên tắc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước và đặc biệt là trách nhiệm của các cơ quan trong việc thực hiện quyền lực Nhà nước. Chủ quyền nhân dân được thực hiện thông qua hai hình thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp. Hiến pháp năm 1992 đã thể hiện khá rõ về chế độ dân chủ đại diện, nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Dân chủ trực tiếp cũng đã được thể hiện nhưng chưa hoàn thiện, chưa sâu sắc và lần sửa đổi này chúng ta có nhiệm vụ phải làm cho hoàn thiện và sâu sắc hơn. Thứ ba, ở nước ta quyền lực Nhà nước là thống nhất và thuộc về nhân dân, nhưng có sự phân công phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Dự thảo sửa đổi Hiến pháp lần này làm rõ hơn phạm vi, nội hàm của quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp để tránh việc trùng dẫm dẫn đến làm giảm hiệu lực, hiệu quả hoạt động của nhau; chỉ ra chủ thể của việc thực hiện các quyền này và điều quan trọng là hoàn thiện hơn nữa về sự phối hợp và nhất là vấn đề kiểm soát quyền lực, để sao cho quyền lực mà nhân dân giao cho các cơ quan Nhà nước phải được bảo đảm thực hiện một cách công khai, minh bạch, có trách nhiệm, vì dân và đặt dưới sự giám sát của nhân dân. Điểm nhấn về vấn đề này là hoàn thiện hơn nữa các phương diện thể hiện trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước trong mối quan hệ với công dân.

Thứ tư, việc hoàn thiện hơn nữa mọi thiết chế dân chủ trong mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân là một yêu cầu khách quan, cần thiết trong sửa đổi Hiến pháp lần này, phúc đáp yêu cầu của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Thiết chế dân chủ phải được thể hiện rõ trên mọi phương diện và nhất là phương diện trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước.

Thứ năm, một trong những nội dung cơ bản của dự thảo sửa đổi Hiến pháp lần này đó là hoàn thiện hơn nữa những quy định về quyền con người, quyền công dân. Hiến pháp năm 1992 quy định về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Các quyền và nghĩa vụ phát sinh trong mối quan hệ với Nhà nước, theo đó quyền luôn đi liền với nghĩa vụ của công dân. Tuy nhiên, con người sinh ra có những quyền tự nhiên như quyền được sống, quyền sống trong môi trường lành mạnh, quyền lao động… mà không cần phải gắn với một nghĩa vụ nào cả. Về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được hoàn thiện theo hướng thể hiện rõ hơn trên các phương diện, nhất là việc bảo đảm những điều kiện thực hiện từ phía các cơ quan Nhà nước. Điểm nhấn cơ bản trong phần này của bản dự thảo sửa đổi Hiến pháp đó là kế thừa cách quy định của Hiến pháp năm 1946 đã đưa Chương về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân ngay sau Chương thứ nhất về chế độ chính trị. Các bản Hiến pháp nói chung có hai nội dung cơ bản nhất đó là chính thể và mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân được thể hiện ở quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Do đó, việc sắp xếp bố cục trong bản dự thảo sửa đổi Hiến pháp cũng thể hiện việc đề cao quyền con người, quyền công dân trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

Trên đây là toàn bộ mục tiêu và yêu cầu của việc sửa đổi Hiến pháp lần này, trong đó trọng tâm là hoàn thiện về hệ thống chính trị, nhất là bộ máy Nhà nước; bảo đảm phân công rạch ròi về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp; hoàn thiện và sâu sắc hơn về nền dân chủ, mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân.

Phóng viên: Thưa đồng chí, về bản chất, nhà nước ta là “Nhà nước của dân, do nhân dân và vì nhân dân”. Do vậy, ngoài hình thức sử dụng quyền của mình thông qua các cơ quan Nhà nước thì nhân dân có thể trực tiếp thực hiện thông qua việc phúc quyết hoặc trưng cầu dân ý đối với những vấn đề lớn, hệ trọng của đất nước. Vấn đề này được thể hiện trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 như thế nào?


Đồng chí Nguyễn Đình Quyền, Phó chủ nhiệm Ủy ban tư pháp của Quốc hội

Đồng chí Nguyễn Đình Quyền: Phúc quyết Hiến pháp và trưng cầu dân ý là chế định pháp luật để bảo đảm phương diện nhân dân thực hiện quyền dân chủ trực tiếp của mình. Trên thế giới, tùy thuộc vào chế độ chính trị, nền dân chủ, bản chất giai cấp, truyền thống văn hóa, lịch sử, dân tộc… mà ở mỗi quốc gia nội hàm của quyền dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện cũng rất khác nhau. Ở Việt Nam, qua mỗi giai đoạn phát triển, mỗi thời kỳ của cách mạng các quyền này cũng có sự thay đổi theo hướng ngày càng hoàn thiện hơn. Việc quy định và thực hiện quyền dân chủ trực tiếp và dân chủ gián tiếp phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, như chế độ chính trị, cách thức tổ chức bộ máy Nhà nước, nền dân chủ, tính pháp quyền, trình độ dân trí, ý thức pháp luật, kỷ cương xã hội… Việc hoàn thiện các quyền này cả trên quy định của Hiến pháp và pháp luật cũng như trên thực tiễn thể hiện sự văn minh, sự phát triển của một xã hội, một Nhà nước; sự phát triển đó không chỉ phụ thuộc vào chính thể mà còn phụ thuộc vào từng giai đoạn phát triển của chính thể đó. Ở Việt Nam, từ khi thành lập Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa cho đến nay, dân chủ trực tiếp và dân chủ gián tiếp luôn được khẳng định, kế thừa và phát triển qua từng giai đoạn phát triển của đất nước và thể hiện rõ nhất qua bốn bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980 và Hiến pháp năm 1992. Việc sửa đổi lần này tất yếu phải được hoàn thiện hơn kể cả về mặt quy định và các biện pháp bảo đảm thực hiện từ phía nhà nước. Phúc quyết Hiến pháp và trưng cầu dân ý là nội dung quan trọng của việc hoàn thiện này. Trên thế giới, các quốc gia theo hệ thống luật án lệ như Anh, Mỹ, Canada, Australia, New Zealand… thường hay sử dụng hình thức trưng cầu dân ý nhiều hơn so với các nước theo hệ thống luật châu Âu lục địa như Việt Nam. Chế định trưng cầu dân ý khác với việc lấy ý kiến nhân dân. Trưng cầu dân ý là việc người dân trực tiếp quyết định một vấn đề gì đó theo trình tự, thủ tục do luật định còn việc lấy ý kiến nhân dân thì quyền quyết định thuộc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, như việc lấy ý kiến nhân dân về bản dự thảo sửa đổi Hiến pháp thì quyền quyết định thuộc Quốc hội. Trong trưng cầu dân ý hoặc phúc quyết Hiến pháp thì ý kiến của người dân là quyết định chứ không chỉ mang ý nghĩa nghiên cứu, tham khảo, tiếp thu. Việc phúc quyết Hiến pháp là vấn đề rất hệ trọng đối với một quốc gia. Để thực hiện được vấn đề này phải có những điều cần và đủ sao cho việc phúc quyết đó khi được tiến hành phải thể hiện được ý chí và bảo vệ được quyền lợi của quốc gia, của dân tộc và của đại đa số các tầng lớp nhân dân. Tư tưởng và hướng sửa đổi về nội dung này trong Hiến pháp làm sao để có thể thể chế hóa cụ thể trong luật để đưa vào cuộc sống khi cần thiết.

Phóng viên: Trong dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 có bổ sung mới một số nội dung về Hội đồng Hiến pháp, Hội đồng bầu cử Quốc gia, Kiểm toán Nhà nước… Đồng chí có thể cho biết mục đích, ý nghĩa và tầm quan trọng của việc bổ sung này?

Đồng chí Nguyễn Đình Quyền:Thực ra những thiết chế trên đây không phải là những vấn đề mới ở nước ta. Trong các kỳ bầu cử Đại biểu Quốc hội, Đại biểu Hội đồng nhân dân, theo quy định của Hiến pháp và pháp luật chúng ta đã thành lập các tổ chức bầu cử bao gồm Hội đồng bầu cử, Ủy ban bầu cử, Tổ bầu cử. Tuy nhiên, các tổ chức này sau khi hoàn thành nhiệm vụ thì không tiếp tục duy trì và hoạt động nữa. Tham khảo kinh nghiệm hoạt động của một số nước thì thấy Hội đồng bầu cử quốc gia thường là những cơ quan hoạt động thường xuyên để đảm nhiệm những vấn đề liên quan đến bầu cử ở cả Quốc hội và các Hội đồng địa phương. Các tổ chức này cũng làm luôn những vấn đề liên quan đến trưng cầu dân ý và phúc quyết Hiến pháp. Ở một số quốc gia, còn thành lập những Viện nghiên cứu về bầu cử, trưng cầu, phúc quyết trong Hội đồng bầu cử quốc gia để tổng kết, nghiên cứu, kiến nghị hoàn thiện hơn nữa các chế định này qua mỗi lần bầu cử sao cho dân chủ hơn, hiệu quả hơn và phản ánh một cách chính xác, đầy đủ nhất ý chí và nguyện vọng của đa số các tầng lớp nhân dân. Thông qua đó, Hội đồng bầu cử quốc gia sẽ kiến nghị những vấn đề về hoạch định chính sách trong việc hoàn thiện các chế định này. Tuy nhiên, ở Việt Nam chúng ta chưa có tổ chức chuyên nghiên cứu và hoàn thiện về chế định bầu cử, trưng cầu dân ý và phúc quyết Hiến pháp một cách độc lập. Do đó, việc bổ sung Hội đồng bầu cử quốc gia là cần thiết để góp phần hoàn thiện hơn nữa chế độ dân chủ ở Việt Nam.

Về Hội đồng bảo hiến, có rất nhiều quan điểm khác nhau xung quanh vấn đề này. Riêng tôi thì không mặn mà gì lắm về việc thành lập Hội đồng bảo hiến, vì cơ chế bảo hiến trong hệ thống pháp luật của chúng ta hiện nay cũng đã khá đầy đủ, nhất là về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, hậu quả pháp lý của việc hủy bỏ các văn bản pháp luật trái với quy định, tinh thần và nội dung của Hiến pháp. Vấn đề ở chỗ lâu nay chúng ta thực hiện chưa được tốt; việc kiểm tra, thanh tra, giám sát để phát hiện hủy bỏ những văn bản pháp luật trái với Hiến pháp làm chưa được nhiều. Do đó, theo tôi, phải tiếp tục kiện toàn về mặt tổ chức, cán bộ và xác định rõ hơn trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước trong việc phát hiện, xử lý các văn bản trái với quy định của Hiến pháp. Tham khảo kinh nghiệm của một số nước cho thấy, Tòa án Hiến pháp hoặc Hội đồng bảo hiến thường phát triển mạnh ở những quốc gia có nhiều đảng phái chính trị và bộ máy nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc phân quyền. Khi các đảng phái tranh giành quyền lực trong việc nắm giữ bộ máy Nhà nước, nhất là việc tranh giành đó lên đến cực điểm hoặc các nhánh quyền hành pháp, lập pháp, tư pháp có xung đột thì vai trò của Tòa án Hiến pháp hoặc Hội đồng bảo hiến được phát huy, bảo đảm cho sự tranh giành, xung đột đó không làm phương hại đến lợi ích quốc gia, lợi ích của cộng đồng dân cư, lợi ích của nhân dân. Ở nước ta, quá trình cách mạng dựng nước và giữ nước cũng như xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày nay luôn bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng đối với Nhà nước và xã hội, là yếu tố quan trọng cho mọi thắng lợi của cách mạng; Nhà nước ta thực hiện khối đại đoàn kết toàn dân với nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp thì không nhất thiết phải có một Tòa án để phán xử về vấn đề liên quan đến phân chia quyền lực trong Hiến pháp. Tôi ủng hộ hơn về việc hoàn thiện cơ chế bảo hiến. Theo đó, Ủy ban pháp luật của Quốc hội phải tăng cường trách nhiệm làm tốt hơn chức năng bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của hệ thống pháp luật; Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội tổ chức và tăng cường giám sát việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật; các cơ quan khác của Nhà nước phải thường xuyên kiểm tra, thanh tra, xử lý văn bản ban hành trái với quy định của Hiến pháp. Cần sớm hoàn thiện cơ chế, thủ tục của việc phát hiện hủy bỏ, bãi bỏ các văn bản trái với Hiến pháp. Để làm được vấn đề này, chúng ta cần tổng kết thật kỹ lưỡng việc thực hiện cơ chế bảo hiến trong thời gian qua để thấy được những gì đã làm được, chưa làm được, những bất cập về cơ chế chính sách hoặc cách thức tổ chức thực hiện. Vấn đề là Hiến pháp phải được chấp hành một cách nghiêm chỉnh, bảo vệ lợi ích của người dân và xác định rõ, tăng cường được trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước trong thực thi quyền lực.

Về kiểm toán, trên thế giới đây là tổ chức ra đời và hoạt động đã lâu, đó là một kênh kiểm soát của Nhà nước để bảo đảm từng đồng tiền của người dân nộp thuế vào ngân sách Nhà nước phải được sử dụng công khai, minh bạch, có hiệu quả không bị lãng phí, không bị tham nhũng, không bị tha hóa. Nhà nước là người thay mặt nhân dân sử dụng các nguồn đóng góp của dân từ ngân sách phải bảo đảm đúng pháp luật và đặt dưới sự giám sát của nhân dân. Kiểm toán chính là một chế định để bảo đảm cho việc kiểm soát chi tiêu của Nhà nước được tuân thủ theo đúng pháp luật, công khai, minh bạch và có hiệu quả. Ở nước ta, trong nhiều năm Kiểm toán nhà nước là hệ thống các cơ quan thuộc Chính phủ. Theo luật hiện nay Kiểm toán chịu trách nhiệm trước Quốc hội và trước Chính phủ. Theo tôi, đây là quy định nửa vời. Kiểm toán cần phải được tổ chức độc lập với Chính phủ, các cơ quan của Chính phủ thì mới bảo đảm tính khách quan trong việc kiểm soát chi tiêu và sử dụng ngân sách Nhà nước. Cơ quan Kiểm toán phải do Quốc hội thành lập. Tổng Kiểm toán Nhà nước phải do Quốc hội bầu trong số các vị Đại biểu Quốc hội. Quốc hội các nước rất ngặt nghèo với Chính phủ, các cơ quan của Chính phủ, các cơ quan tổ chức khác trong việc chi tiêu và sử dụng ngân sách Nhà nước. Tôi tin rằng việc hoàn thiện hơn nữa vai trò, địa vị pháp lý, chức năng, nhiệm vụ và nhất là trách nhiệm của Kiểm toán Nhà nước trong việc kiểm soát chi tiêu, sử dụng ngân sách Nhà nước sẽ là kênh quan trọng giúp Quốc hội trong việc giám sát việc thực hiện ngân sách Nhà nước có hiệu quả hơn.

Việc bổ sung các quy định về Hội đồng bảo hiến, Hội đồng bẩu cử quốc gia và Kiểm toán Nhà nước trong bản dự thảo sửa đổi Hiến pháp lần này có ý nghĩa quan trọng trong việc hoàn thiện hơn nữa nền dân chủ xã hội chủ nghĩa trong điều kiện của việc xây dựng nhà nước pháp quyền và nhất là hoàn thiện hơn nữa trách nhiệm của Nhà nước với nhân dân.

Phóng viên: Đề nghị đồng chí làm rõ nội dung sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 khẳng định sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam và làm rõ về phương thức lãnh đạo như thế nào?

Đồng chí Nguyễn Đình Quyền: Theo tôi, sự lãnh đạo của Đảng là một tất yếu khách quan và được kế thừa, phát triển qua các bản Hiến pháp. Sửa đổi Hiến pháp lần này được nâng ở tầm cao hơn theo hướng Đảng lãnh đạo toàn diện Nhà nước và xã hội nhưng không làm thay công việc của bộ máy Nhà nước. Có thể nói đây là định hướng lớn nhất trong việc tiếp tục đổi mới, hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng. Hiện nay, tại một số địa phương vẫn còn lẫn lộn giữa lãnh đạo chỉ đạo của cấp ủy Đảng và quản lý điều hành của các cơ quan Nhà nước. Sự trùng dẫm này, trong một số trường hợp sẽ làm giảm hiệu lực, hiệu quả hoặc có thể dẫn đến vô hiệu hóa hiệu lực của nhau. Do đó, việc tiếp tục hoàn thiện nội hàm sự lãnh đạo của Đảng (trong Hiến pháp chỉ có thể quy định mang tính nguyên tắc) sẽ bảo đảm nâng cao và tăng cường hơn nữa hiệu lực và hiệu quả sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, đồng thời cũng làm rõ hơn trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước trong việc hoạch định chính sách, pháp luật cũng như tổ chức thực hiện, tuân thủ các chính sách pháp luật đó. Muốn vậy hoạt động và nhất là trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước phải công khai, rõ ràng, minh bạch và trách nhiệm hơn. Sự lãnh đạo của Đảng là tuyệt đối, toàn diện nhưng phải được đổi mới hơn nữa trong điều kiện xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, theo đó, Hiến pháp, luật là độc tôn, là tối thượng.

Phóng viên: Xin đồng chí cho biết về sự cần thiết phải thành lập một cơ quan chuyên trách để làm nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp?

Đồng chí Nguyễn Đình Quyền:Theo tôi, nếu đã tổng kết nghiên cứu kỹ và có cơ chế hữu hiệu hơn so với việc bảo vệ Hiến pháp hiện nay thì việc ra đời một cơ quan chuyên trách cũng là cần thiết, nhưng nếu cơ quan chuyên trách ra đời chỉ để thực hiện cơ chế bảo hiến như hiện nay thì theo tôi không cần thiết. Vấn đề ở chỗ chúng ta phải nghiên cứu để tiếp tục hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp, đồng thời hãy tổ chức thực hiện cho thật tốt những quy định của pháp luật liên quan vấn đề này cũng là tốt lắm rồi. Không phải cứ nhất thiết phải có cơ quan chuyên trách về bảo hiến thì Hiến pháp mới được bảo vệ.

Phóng viên: Trân trọng cảm ơn đồng chí! Kính chúc đồng chí và gia đình năm mới an khang, thịnh vượng.

Thanh Hoa (thực hiện)
dangcongsan.vn

“Độc tài, độc đoán, mất dân chủ” – luận điệu xuyên tạc bản chất Đảng Cộng sản Việt Nam của các thế lực thù địch

Vẫn những điệp khúc cũ rích, các thế lực thù địch rêu rao rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam là tổ chức chính trị “độc tài, độc đoán, mất dân chủ”(!) Lý do mà chúng đưa ra là: chỉ có sự “cạnh tranh”, “đối trọng” nhiều đảng thì xã hội mới có dân chủ thực sự! Phải chăng là như vậy?

Trước hết, chúng ta cần khẳng định rõ: Đảng Cộng sản Việt Nam (CSVN) mang bản chất khoa học và cách mạng. Đảng ta không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của đất nước và dân tộc. Điều này đã được kiểm chứng và khẳng định cả về lý luận và thực tế trong hơn 80 năm qua từ ngày có Đảng. Đảng CSVN mang bản chất khoa học, bởi vì Đảng ra đời, tồn tại và phát triển hợp theo quy luật của xã hội; đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước. Đảng CSVN mang bản chất cách mạng, bởi vì Đảng lĩnh trách nhiệm lãnh đạo toàn dân tộc đấu tranh giành độc lập, thống nhất đất nước; mang lại tự do, hạnh phúc cho nhân dân nhằm đạt mục tiêu của CNXH; đồng thời, đóng góp vào phong trào cách mạng thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, v.v.

Vấn đề dân chủ của một đất nước không phụ thuộc vào số lượng các chính đảng. Có khi một quốc gia chỉ có một đảng nhưng vẫn bảo đảm và phát huy được dân chủ cho toàn xã hội; có khi một quốc gia có nhiều đảng nhưng đất nước vẫn không có dân chủ. Đảng CSVN là đảng duy nhất hiện nay đóng vai trò cầm quyền ở đất nước Việt Nam. Sự cầm quyền của Đảng CSVN là sự lựa chọn của lịch sử vận động phát triển của cách mạng Việt Nam; là kết quả của sự hy sinh, phấn đấu của toàn Đảng qua các thời kỳ cam go của cách mạng; được nhân dân Việt Nam tin yêu, trao trọng trách dẫn đường phát triển cho dân tộc. Đảng dứt khoát không chấp nhận đa nguyên chính trị và đa đảng đối lập là hoàn toàn phù hợp với điều kiện của xã hội nước ta trong bước đường phát triển, là sự phản ánh bản chất của một đảng mác-xít – lê-nin-nít chân chính. Đó là một đảng mang trong lòng sự phát triển theo các nguyên tắc của một đảng chính trị tiên phong, trong đó đậm nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ; một đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, với vận mệnh của dân tộc; một đảng phát triển trên nền tảng dân chủ và chỉ phát triển vững mạnh khi có chế độ sinh hoạt dân chủ thực sự.

Thực tế cho thấy trong thế giới hiện thời, các đảng chính trị có vai trò rất quan trọng đối với đời sống chính trị, kinh tế, xã hội… của mỗi quốc gia, dân tộc, trong đó có vấn đề dân chủ. Dân chủ là khát vọng ngàn đời của con người và cũng là động lực, mục tiêu của sự phát triển trong công cuộc trường chinh đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng con người thoát khỏi áp bức, bóc lột, bất công. Dân chủ hoàn toàn phụ thuộc vào bản chất của một chính đảng và chất lượng thực tế của đảng ấy khi nó hoạt động trong lòng xã hội.

Nói như vậy, không phải cứ có Đảng Cộng sản (một đảng mặc dù mang trong lòng mình bản chất khoa học và cách mạng) là nghiễm nhiên bảo đảm dân chủ cho xã hội. Điều kiện tiên quyết bảo đảm và phát huy dân chủ cho toàn xã hội trong điều kiện một đảng cầm quyền, là đảng cầm quyền ấy phải có nhận thức đúng, hoạt động theo quy luật khách quan và được xây dựng thực sự trong sạch, vững mạnh. Do đó, Đảng CSVN luôn phấn đấu để thể hiện bản chất của mình trong thực tế, làm cho Đảng luôn luôn trở thành tổ chức tiên phong dẫn dắt sự phát triển của toàn dân tộc. Trên con đường đẩy mạnh CNH,HĐH, hội nhập quốc tế và trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, yêu cầu về dân chủ hóa trong đời sống chính trị, kinh tế, xã hội… của đất nước ngày càng cao. Vì vậy, Đảng CSVN hết sức coi trọng công tác xây dựng Đảng, nhằm không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu để lãnh đạo đất nước thực hiện thắng lợi Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) và Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương (khóa XI). Việc Đảng ta triển khai nghiêm túc đợt kiểm điểm, tự phê bình và phê bình theo Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” thời gian qua là một việc làm cụ thể để củng cố, tăng cường bản chất khoa học và cách mạng của một đảng mác-xít – lê-nin-nít chân chính.

Đảng CSVN đã và đang là tổ chức chính trị hạt nhân lãnh đạo các tổ chức trong hệ thống chính trị xây dựng nền dân chủ. Cương lĩnh, đường lối của Đảng được thể chế hóa thành luật pháp của Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Sinh hoạt dân chủ rõ nhất của Nhà nước ta được thể hiện sinh động trong các hoạt động của Quốc hội. Hiện nay, việc toàn dân đang tích cực tham gia đóng góp ý kiến vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, nhằm xây dựng bản Hiến pháp đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong tình hình mới, là một minh chứng cho điều đó.

Với tinh thần phát huy dân chủ, để “lòng dân, ý Đảng” hòa quyện, tạo sự đồng thuận, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc nhằm thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, nhân dân ta đã được Đảng và Nhà nước tạo mọi điều kiện thuận lợi để đóng góp ý kiến xây dựng và thực hiện đường lối phát triển đất nước. Trí tuệ của Đảng CSVN không chỉ ở trong bản thân Đảng mà còn là sự tổng hợp, kết tinh từ xã hội. Là chính đảng duy nhất cầm quyền, cho nên Đảng ta rất cần sự đóng góp trí tuệ của nhân dân, để Đảng luôn thực sự “là đạo đức, là văn minh”, ngang tầm yêu cầu nhiệm vụ mà lịch sử và nhân dân đã giao phó. Tuy nhiên, đó phải là những ý kiến góp ý bằng cái tâm trong sáng, với ý thức xây dựng, vì sự phát triển của đất nước, chứ không phải là những “ý kiến” của những kẻ giả danh dân chủ, giả danh nhân dân để phá hoại mối đoàn kết trong Đảng, đoàn kết giữa Đảng với nhân dân và khối đại đoàn kết toàn dân tộc, nhằm xóa bỏ sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng ta. Đường lối, quan điểm, chủ trương của Đảng CSVN được kết tinh từ trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân, lại được thực tế phong trào cách mạng của nhân dân kiểm chứng, phản ánh lại cho Đảng để Đảng biết phát huy những ưu điểm và khắc phục những hạn chế, sai lầm. Có như vậy, sự cầm quyền của Đảng mới được bền vững. Ở đây, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân được thể hiện rõ: vừa luôn có những ý kiến tâm huyết đóng góp, vừa thay mặt các tầng lớp nhân dân kiểm tra, giám sát quá trình hoạt động của Đảng. Chính vì vậy, là Đảng duy nhất cầm quyền nhưng Đảng ta không sa vào “đảng trị”, không chuyên quyền, độc đoán… như các thế lực thù địch thường rêu rao, mà Đảng ta sống và hoạt động trong lòng xã hội, trong lòng nhân dân, được nhân dân kiểm tra, giám sát và chung ý, chung lòng, vì mục tiêu của sự nghiệp phát triển dân tộc. Với sự góp ý xây dựng và sự kiểm tra, giám sát của nhân dân, Đảng CSVN duy nhất cầm quyền chắc chắn sẽ tránh được sự chủ quan, phiến diện trong việc đề ra đường lối, chủ trương, biện pháp và chỉ đạo hoạt động thực tiễn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.

Cùng với đó, Đảng ta hết sức coi trọng công tác dân vận, nhằm thắt chặt hơn mối quan hệ máu thịt giữa Đảng và dân. Dân vận là vấn đề lớn; nó càng cực kỳ quan trọng đối với việc bảo đảm và phát huy dân chủ đối với xã hội trong điều kiện một Đảng cầm quyền. Hệ quả của vị trí và vai trò cầm quyền của Đảng đã chế định một thực tế là tuyệt đại đa số những ng­ười có chức, có quyền là đảng viên. Điều đó dễ làm cho họ xa dân, hách dịch, cửa quyền đối với dân. Trên thực tế, khi vận hành cơ chế thực thi quyền lực của xã hội trong vai trò cầm quyền, đã có một số tổ chức đảng và đảng viên không chú trọng bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của dân, làm ảnh hưởng không nhỏ đến uy tín của Đảng. Đã có sự ngộ nhận hoặc lạm dụng vai trò “cầm quyền” của Đảng, mà không thấy được cái quyền Đảng CSVN cầm là quyền từ nhân dân ủy thác cho Đảng; nhân dân luôn đứng ở vị trí tối thư­ợng trong hệ thống quyền lực của đất nước. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa Đảng ta là “độc đoán”, “mất dân chủ”. Trái lại, đó chỉ là những biểu hiện của sự nhận thức và thực hành dân chủ chưa đúng với bản chất của một đảng cầm quyền; là sự vận dụng chưa đúng quan điểm của Đảng về tư tưởng Hồ Chí Minh trong thực hiện công tác dân vận. Điều này đã được Hồ Chí Minh cảnh báo từ rất sớm. Người chỉ rõ, quan liêu là bệnh thường hay mắc phải trong điều kiện Đảng cầm quyền; quan liêu cộng với tham ô, lãng phí là “giặc nội xâm”, “thứ giặc ở trong lòng”, nó “nguy hiểm hơn bọn Việt gian, mật thám”.

Để Đảng ta tiếp tục phát huy tốt bản chất cách mạng, gắn bó mật thiết với nhân dân, không rơi vào chuyên quyền, độc đoán, cần kiên quyết khắc phục, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện quan liêu, xa dân, tham nhũng, lãng phí theo Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về xây dựng Đảng. Trước hết, coi trọng thực hiện tốt  nguyên tắc tập trung dân chủ ngay trong bản thân đảng cầm quyền. Chỉ khi nào Đảng ta thực hiện tốt nguyên tắc đó thì mới đủ sức phát huy dân chủ ở ngoài xã hội. Trên thực tế hoạt động của Đảng CSVN cầm quyền những năm qua, vẫn còn tình trạng một số tổ chức đảng không bảo đảm thực hiện tốt nguyên tắc này, vừa thiếu tập trung đúng đắn, vừa thiếu dân chủ thực sự. Một Đảng “là đạo đức, là văn minh” theo quan điểm của Hồ Chí Minh là phải bảo đảm thực hành dân chủ rộng rãi ở trong Đảng, phải làm cho mọi đảng viên bày tỏ hết ý kiến của mình cho Đảng; khi đã thảo luận dân chủ và ra nghị quyết rồi thì phải nói và làm theo nghị quyết (tập trung). Như thế, theo Hồ Chí Minh, quyền dân chủ hóa ra quyền phục tùng chân lý. Một Đảng cầm quyền phải thật sự chú trọng phòng tránh, khắc phục bệnh cửa quyền, chủ quan, duy ý chí, mệnh lệnh. Có như thế, Đảng CSVN mới không chỉ đại diện cho lợi ích của giai cấp công nhân, mà còn đại diện cho lợi ích của nhân dân lao động và toàn dân tộc.

Sự bảo đảm dân chủ cũng là kết quả từ việc Đảng CSVN tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của mình để bảo đảm và phát huy dân chủ trong xã hội. Hiện nay, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng phải đặt trọng tâm vào đổi mới phương thức lãnh đạo đối với Nhà nước. Trong kết cấu quyền lực của xã hội Việt Nam sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, thì tất cả mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân. Nhân dân nắm mọi quyền lực thông qua Nhà nước do dân lập nên. Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng đường lối, quan điểm, các nghị quyết; lãnh đạo thể chế hoá, cụ thể hoá đường lối, quan điểm, các nghị quyết của Đảng thành Hiến pháp, pháp luật, kế hoạch, các chương trình công tác lớn của Nhà nước; bố trí cán bộ cho hệ thống bộ máy nhà nước và thường xuyên kiểm tra việc tổ chức thực hiện. Đảng lãnh đạo nhưng không bao biện, làm thay Nhà nước, mà lãnh đạo để Nhà nước phát huy mạnh mẽ vai trò chủ động, sáng tạo trong quản lý đất nước và xã hội.

Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị phải bảo đảm nguyên tắc: Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị, đi đôi với phát huy trách nhiệm của tổ chức và người đứng đầu của tổ chức trong hệ thống chính trị về công tác cán bộ. Liệu điều này có mâu thuẫn với việc bảo đảm và phát huy dân chủ cho xã hội không? Về nguyên tắc, điều này không có gì mâu thuẫn với vai trò lãnh đạo của Đảng cầm quyền. Với vai trò như vậy, Đảng CSVN là người chịu trách nhiệm cuối cùng, là người chịu trách nhiệm lớn nhất đối với chất lượng của đội ngũ cán bộ và của hệ thống chính trị. Vấn đề là ở chỗ, trong thực tế hoạt động lãnh đạo công tác cán bộ, Đảng thể hiện cụ thể bằng những cách thức như thế nào cho phù hợp với từng thời kỳ. Phải tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Lãnh đạo của Đảng chú trọng vào việc xây dựng, ban hành cơ chế, chính sách, tạo điều kiện cho các tổ chức, đoàn thể này hoạt động theo đúng định hướng chính trị, đúng pháp luật. Trong điều kiện hiện nay, tính hiệu quả, thiết thực càng cần được chú ý để thực sự phát huy vai trò làm chủ của nhân dân; làm cho Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân phát huy tinh thần tự chủ, sáng tạo trong hoạt động, tránh căn bệnh hành chính hoá. Một đảng duy nhất, đóng vai trò cầm quyền, nhưng cũng phải tôn trọng tính chất hiệp thương chính trị của Mặt trận.

Muốn bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng bằng những phương thức thích hợp, có hiệu quả, Đảng phải đằm mình vào cuộc sống sôi động, phong phú trên con đường phát triển của dân tộc Việt Nam. Đó cũng là biểu hiện sinh động để khẳng định: Đảng CSVN không “độc tài, độc đoán, mất dân chủ” như các thế lực thù địch thường xuyên tạc, hòng phủ nhận vai trò lãnh đạo độc tôn của Đảng đối với đất nước.

QUANG THẮNG
tapchiqptd.vn

Không thể xuyên tạc về quyền của dân trong xây dựng Hiến pháp

Làm thất bại chiến lược “Diễn biến hòa bình”

QĐND – Với 100% số đại biểu có mặt tán thành, Quốc hội khóa XIII vừa thông qua Nghị quyết về việc lấy ý kiến nhân dân về dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Nghị quyết đã nhấn mạnh việc lấy ý kiến nhân dân nhằm mục đích phát huy quyền làm chủ, huy động trí tuệ, tâm huyết của nhân dân và tạo sự đồng thuận của nhân dân trong việc xây dựng Hiến pháp để Hiến pháp thể hiện được ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Thế nhưng trên một số diễn đàn vẫn còn có những tiếng nói lạc lõng cho rằng “việc lấy ý kiến nhân dân chỉ là hình thức” và “Đảng Cộng sản Việt Nam đã độc đoán sửa đổi Hiến pháp”…

Tờ trình của Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 về việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân đóng góp dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã khẳng định: Sửa đổi Hiến pháp là công việc hệ trọng của quốc gia. Nhân dân có vai trò rất quan trọng trong việc xây dựng Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp. Mục đích của lấy ý kiến nhân dân về dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 nhằm phát huy quyền làm chủ và tạo sự đồng thuận của nhân dân trong việc xây dựng Hiến pháp để Hiến pháp thể hiện được ý chí, nguyện vọng của nhân dân; Huy động được trí tuệ, tâm huyết của nhân dân tham gia tích cực vào xây dựng dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992; Nâng cao nhận thức và ý thức trách nhiệm của mỗi cá nhân, cơ quan, tổ chức đối với Hiến pháp và việc thi hành Hiến pháp.

Toàn cảnh Kỳ họp thứ tư, Quốc hội khóa XIII. Ảnh: internet.

Nội dung lấy ý kiến nhân dân là toàn bộ nội dung của dự thảo sửa đổi Hiến pháp, bao gồm: Lời nói đầu; chế độ chính trị; quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường; bảo vệ Tổ quốc; tổ chức bộ máy nhà nước; hiệu lực của Hiến pháp và quy trình sửa đổi Hiến pháp; kỹ thuật trình bày các quy định của Hiến pháp.

Việc lấy ý kiến nhân dân được thực hiện thông qua nhiều hình thức như góp ý trực tiếp hoặc bằng văn bản gửi đến các cơ quan, tổ chức; tổ chức các hội nghị, hội thảo, tọa đàm; phản ánh trên các phương tiện thông tin đại chúng và các hình thức phù hợp khác.

Theo kế hoạch ban đầu của Ủy ban thường vụ Quốc hội trình Quốc hội tại kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa XIII, dự kiến thời gian lấy ý kiến nhân dân về dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 là hai tháng (tháng 3 và tháng 4 năm 2013). Tuy nhiên, do mục đích, yêu cầu và nội dung dự thảo sửa đổi Hiến pháp lần này, để có đủ thời gian triển khai sâu rộng việc lấy ý kiến trong các tầng lớp nhân dân, bảo đảm để việc lấy ý kiến nhân dân thực sự chất lượng, hiệu quả, tránh hình thức, tại kỳ họp thứ 4 vừa qua, Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã đề nghị Quốc hội và được Quốc hội nhất trí cao cho phép tổ chức lấy ý kiến nhân dân trong thời gian 3 tháng, bắt đầu từ ngày 2 tháng 1 năm 2013 và kết thúc vào ngày 31 tháng 3 năm 2013.

Trước đó, tại Hội nghị lần thứ hai, Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (khóa XI) đã thảo luận, thống nhất cao về quan điểm, tư tưởng chỉ đạo, các định hướng lớn, phương châm và phương pháp tiến hành; xác định việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992. Thông báo của Hội nghị khẳng định: “Sửa đổi, bổ sung Hiến pháp là công việc hệ trọng cần được tiến hành chặt chẽ, khoa học, dưới sự lãnh đạo của Đảng; động viên sự tham gia của các chuyên gia, nhà khoa học và lấy ý kiến rộng rãi của các tầng lớp nhân dân”.

Như vậy, cả Đảng Cộng sản Việt Nam và Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đều đánh giá cao vai trò đặc biệt quan trọng của nhân dân trong việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp. Thực tế trong lịch sử lập hiến của nước ta, việc xây dựng, ban hành Hiến pháp năm 1959, năm 1980, năm 1992 và sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992 (vào năm 2001) đều tiến hành tổ chức lấy ý kiến nhân dân. Các ý kiến tâm huyết của nhân dân đều được Ban soạn thảo tiếp thu, đưa vào dự thảo.

Việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 được kế thừa kinh nghiệm xây dựng các bản Hiến pháp trước đây, trong đó có kinh nghiệm quan trọng nhất là phải phát huy đầy đủ và sâu sắc dân chủ xã hội chủ nghĩa. Tờ trình của Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 trình Quốc hội cho rằng: “Để việc lấy ý kiến nhân dân về dự thảo sửa đổi Hiến pháp bảo đảm chất lượng, hiệu quả, thực sự là đợt sinh hoạt chính trị – pháp lý quan trọng, rộng lớn trong nhân dân và cả hệ thống chính trị, Ủy ban đề nghị Quốc hội ban hành Nghị quyết về việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân về dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992”.

Thực tế đã rõ ràng như vậy mà vẫn còn có ý kiến lạc lõng trên một số diễn đàn cho rằng, “việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 là độc quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam”, “Đảng Cộng sản Việt Nam đã làm thay công việc của Quốc hội”…

Ai cũng biết rằng, việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp là một việc làm bình thường, đúng pháp luật, phù hợp với tình hình và nhiệm vụ mới của đất nước. Thực tiễn cho thấy, nước ta đã trải qua 4 lần sửa đổi, bổ sung Hiến pháp và cả 4 lần đều thu được kết quả tốt đẹp góp phần đưa đất nước tiến lên theo đúng mục tiêu đặt ra là nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Nghị quyết của Quốc hội về việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân đóng góp dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã khẳng định: Tổ chức lấy ý kiến nhân dân với các hình thức thích hợp, tạo điều kiện thuận lợi để các tầng lớp nhân dân cả ở trong nước và người Việt Nam ở nước ngoài tham gia vào việc xây dựng Hiến pháp. Việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân phải được tiến hành dân chủ, khoa học, công khai; bảo đảm tiến độ, chất lượng, thiết thực và tiết kiệm. Ý kiến đóng góp của nhân dân phải được tập hợp, tổng hợp đầy đủ, chính xác; phải được nghiên cứu tiếp thu nghiêm túc để hoàn thiện, nâng cao chất lượng dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Nâng cao trách nhiệm của các cơ quan thông tin đại chúng trong việc tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia đóng góp ý kiến; phản ánh trung thực, kịp thời ý kiến tham gia của nhân dân.

Việc sửa đổi bổ sung Hiến pháp là công việc nội bộ của Đảng Cộng sản Việt Nam, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nhân dân Việt Nam, Hiến pháp và các văn bản pháp luật của Việt Nam luôn tôn trọng luật pháp quốc tế, tôn trọng chủ quyền và biên giới quốc gia của các nước, tôn trọng quyền tự quyết của các dân tộc, không can thiệp vào công việc nội bộ các nước, đồng thời góp phần xây dựng và bảo vệ nền hòa bình của khu vực và thế giới.

Nhân dân Việt Nam hiểu và tôn trọng những thành quả mà Đảng, Bác Hồ và toàn thể nhân dân đã giành được từ trong khổ đau lầm than và nô lệ. Chúng ta quyết không chấp nhận những kẻ cố tình quay lưng lại với con đường cách mạng Việt Nam, cố tình xuyên tạc, nói xấu và đi ngược lại lợi ích của dân tộc và của nhân dân Việt Nam trong tiến trình bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước.

Tại kỳ họp Quốc hội vừa qua, nhiều đại biểu Quốc hội đã đề nghị để việc lấy ý kiến nhân dân vào dự thảo Hiến pháp mới không bị lợi dụng, xuyên tạc, cần có quy định cấm về hành vi xuyên tạc, bôi xấu trong việc lấy ý kiến. Mọi ý kiến của nhân dân phải được tiếp thu tối đa, chỗ nào tiếp thu cần nói rõ, chỗ nào không tiếp thu cũng cần giải thích rõ để nhân dân hiểu.

ĐỖ PHÚ THỌ
qdnd.vn

Điều 4 Hiến pháp 1992 và nền dân chủ của chúng ta

Lợi dụng chủ trương của Đảng và Nhà nước ta trong việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992, các thế lực thù địch trong và ngoài nước đang dấy lên làn sóng xuyên tạc, vu cáo, bôi nhọ Đảng, Nhà nước, lãnh tụ và chế độ xã hội ta. Một trong những trọng điểm mà họ tập trung chống phá là phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã được ghi trong bản Hiến pháp năm 1992.

altChủ tịch Quốc hội (nay là Tổng Bí thư) Nguyễn Phú Trọng dự ngày hội đại đoàn kết tại huyện Ninh Giang, Hải Dương (Nguồn: qdnd.vn)

Họ cho rằng: “Điều 4 Hiến pháp 1992 phá hủy nền tảng của chính bản Hiến pháp”. Bởi lẽ: “Điều 2 Hiến pháp 1992viết “Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam là nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân…”, trong khi Điều 4 lại khẳng định: “Đảng Cộng sản (ĐCS) Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”, tức là nước Cộng hoà XHCN Việt Nam theo một chế độ Đảng trị= Đảng chủ”. Hơn nữa, theo họ: “Điều 83 của Hiến pháp viết “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực cao nhất của nước Cộng hoà XHCN Việt Nam… Như vậy, cơ quan cao nhất ở đây “không thuộc về ĐCS Việt Nam như Điều 4”.

Về đường lối kinh tế,họ nói: “Điều 15 của Hiến pháp viết: “Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN… dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng…”. Như vậy, Điều 15 trái với Điều 4ghi: “ĐCS Việt Nam theo chủ nghĩa Mác – Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh”. Vì chủ nghĩa Mác – Lê-nin phủ nhận kinh tế thị trường = tư bản, xóa bỏ sở hữu tư nhân” và họ hỏi: “Vì sao theo chủ nghĩa Mác – Lê-nin lại phát triển kinh tế tư bản?”, v.v.

Tựu trung lại, họ kêu gọi: “cần phải xóa bỏ Điều 4 Hiến pháp 1992” mà thực chất là xóa bỏ vai trò lãnh đạo của ĐCS Việt Nam, đơn giản chỉ là như vậy!

Có lẽ không cần phải phân tích những sai trái trong từng lập luận của họ. Bởi vì, mọi người có thể thấy rõ tất cả những lập luận trên chỉ là sự sao chép tư duy chính trị dân chủ đa nguyên mà các phần tử hành nghề chống cộng ở ngoài nước đã đưa đầy rẫy trên mạng internet cùng với sự ngụy biện thô thiển mà thôi.

Người làm chính trị, khoa học hay văn hóa, nghệ thuật trước hết phải thực sự nghiêm túc, chân thành, trung thực… Thế nhưng, những lập luận ngụy biện, vòng vo rằng: “Điều 4 Hiến pháp 1992 phá hủy nền tảng của chính bản Hiến pháp” chẳng những không có sức thuyết phục về trí tuệ mà còn thể hiện lập luận hoàn toàn ngụy biện, không đáng tin cậy.

Với họ, đã là Nhà nước pháp quyền XHCN thì Quốc hội – cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, không chịu sự lãnh đạo của bất cứ chính đảng nào! Ở lập luận này, trước hết, họ đã bộc lộ sự thiếu hiểu biết của mình. Họ không thấy rằng: trong tất cả các nền dân chủ hiện đại bao giờ cũng có đảng chính trị lãnh đạo, cầm quyền. Sự khác nhau chỉ là ở mục tiêu và phương thức lãnh đạo mà thôi. Ở Hoa Kỳ, Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hòa thay nhau lãnh đạo. Ở Cộng hòa Liên bang Đức cũng như vậy, phần lớn thế kỷ XX do Đảng Dân chủ Thiên chúa và Đảng Dân chủ xã hội cầm quyền. Ở Úc thì Đảng Lao động và Liên Đảng Quốc gia – Tự do thay nhau cầm quyền… Thử hỏi: Nếu ở Hoa Kỳ, Đức, Úc thì họ có phê phán chế độ đó là không dân chủ với lập luận: “Nhà nước pháp quyền, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân…”, sao lại có đảng cầm quyền? Vì sao đã là Nghị viện – cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực cao nhất của quốc gia sao quyền lãnh đạo lại vẫn thuộc về đảng này đảng nọ? Thật ra, họ chỉ muốn loại trừ ĐCS Việt Nam ra khỏi vai trò lãnh đạo, cầm quyền mà thôi, còn những đảng khác lãnh đạo, cầm quyền thì vẫn hợp lý!

Lại nói về lập luận của họ về Điều 17 của Hiến pháp 1992. Điều này quy định: “Phát huy mọi năng lực sản xuất, mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế gồm kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài…”. Theo họ, thì chính sự khẳng định: “ĐCS Việt Nam lãnh đạo Nhà nước và xã hội Việt Nam đang xây dựng nền kinh tế TBCN (ở Điều 17 này) đã “giết chết chủ nghĩa Mác – Lê-nin là tôn giáo và cương lĩnh của Đảng như Điều 4”.

Trong lập luận trên, họ đã thể hiện mâu thuẫn trong tư duy và sự thiếu trung thực. Bởi vì, họ cho rằng: ĐCS Việt Nam “đang xây dựng nền kinh tế TBCN”, là “giết chết chủ nghĩa Mác – Lê-nin”. Ở đây họ đóng vai trò là người bảo vệ chủ nghĩa Mác – Lê-nin; thế nhưng, ngay ở câu đó lại nói: “chủ nghĩa Mác – Lê-nin là tôn giáo”. Và ở một đoạn khác họ cho rằng: “nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường – khái niệm “định hướng XHCN” hoàn toàn vô nghĩa”.

Xin nói rằng, bình luận “định hướng XHCN hoàn toàn vô nghĩa” của họ là hoàn toàn sai lầm. Bởi vì, không có một nền kinh tế nào nằm ngoài một không gian chính trị, nằm ngoài một quốc gia với một nhà nước và một đảng chính trị cầm quyền.

Những ai hiểu biết về lịch sử tư tưởng kinh tế thì đều biết rằng, chủ nghĩa tự do cổ điển (Classical liberalism) về kinh tế thị trường còn gọi là “bàn tay vô hình” do Adam Smith đề xướng cho rằng: tự cơ chế thị trường sẽ bảo đảm được sự hài hòa lợi ích giữa các nhóm xã hội… Tuy nhiên, trên thực tế ở các nước TBCN cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX đã xuất hiện suy thoái và khủng hoảng nghiêm trọng. Đó là cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 – 1933 ở hệ thống TBCN, mở đầu ở nước Mỹ.

Không ai khác, chính Tổng thống Mỹ Phranh-klin Ru-dơ-ven (Franklin Roosevelt) đã nhận thấy khiếm khuyết của kinh tế thị trường tự do. Ông đã chủ trương chuyển sang thực hiện chính sách kinh tế thị trường có sự can thiệp của nhà nước; mà về mặt học thuật, đại diện cho lý luận kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước là John Maynard Keynes. Thế nhưng, vào những năm 80 (thế kỷ XX), ở hệ thống TBCN lại ra đời học thuyết: “Chủ nghĩa tự do mới” mà nội dung của nó là hạn chế sự can thiệp của nhà nước theo phương châm “thị trường nhiều hơn, nhà nước ít hơn”… Tiếp đó, vào đầu thập niên 90 (thế kỷ XX), một lần nữa CNTB hiện đại lại điều chỉnh mô hình kinh tế thị trường. Mô hình mới được gọi là “Con đường thứ ba” mà nội dung của nó là kết hợp giữa chủ nghĩa tự do mới với các ưu tiên dành cho chính sách xã hội, như: đầu tư vào lĩnh vực đào tạo, việc làm, y tế, giáo dục,… Còn ở Trung Quốc, như mọi người đều biết, nền kinh tế của quốc gia này được gọi là “nền kinh tế thị trường XHCN”. Vì vậy, từ lý luận và thực tế cho thấy, định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường Việt Nam không phải là ngoại lệ, hơn nữa còn là một tất yếu đối với chế độ ta.

Định hướng XHCN đối với nền kinh tế thị trường Việt Nam dựa trên các nguyên tắc và quy luật phổ biến của kinh tế thị trường, đồng thời phát huy chức năng của nhà nước pháp quyền XHCN để tác động vào thị trường hướng vào mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Cụ thể hơn, đó là việc bảo đảm công bằng xã hội, hạn chế sự phân cực giàu – nghèo, bất công xã hội.

Xin hỏi tất cả những ai kêu gọi xóa bỏ định hướng XHCN trong nền kinh tế thị trường nhằm mục đích gì? Nếu ai đó nói rằng, nền kinh tế của Việt Nam chưa hoàn thiện về thể chế, về cơ chế, chính sách, còn tình trạng tham nhũng, lãng phí, còn tình trạng lợi ích cục bộ, phân hóa giàu – nghèo, lợi ích nhóm thì đó là một nhận định khách quan, có trách nhiệm. Song nếu cho rằng, khái niệm “định hướng XHCN hoàn toàn vô nghĩa” thì thực sự đó là một ý đồ chính trị đen tối.

Thiết tưởng hiện nay, Việt Nam rất cần sự “định hướng XHCN”; bởi pháp luật chưa hoàn chỉnh, lại thiếu cơ chế quản lý hữu hiệu, vẫn còn những khoảng trống pháp lý, những sơ hở, khiếm khuyết về cơ chế, những quy định cụ thể, đặc biệt là thiếu sự nghiêm minh trong việc xử lý các hành vi vi phạm pháp luật dẫn đến thất thoát của cải, tài nguyên quốc gia, tiền đóng thuế của người dân.

Nói tới Điều 4 Hiến pháp 1992 là nói tới những cơ sở lịch sử, chính trị và pháp lý về vai trò lãnh đạo, cầm quyền của ĐCS Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội ta. Về lịch sử, ai cũng biết hơn 80 năm qua, ĐCS Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện là lực lượng duy nhất tổ chức vận động, lãnh đạo, đồng thời là người đi tiên phong, không sợ hy sinh, gian khổ trong cuộc Cách mạng Tháng Tám, giành lại độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, xây dựng nước Việt Nam hiện đại với chế độ dân chủ – cộng hòa. Lần đầu tiên trong lịch sử, các quyền công dân và quyền con người của người dân được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1946 và được bảo đảm trong thực tế. Tiếp đó, ĐCS Việt Nam là lực lượng duy nhất lãnh đạo nhân dân Việt Nam tiến hành các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm bảo vệ thành quả của cách mạng. ĐCS Việt Nam cũng là lực lượng chính trị duy nhất khởi xướng công cuộc đổi mới, hội nhập với cộng đồng quốc tế, tạo nên vị thế mới của Việt Nam trên trường quốc tế.

Về chính trị – tư tưởng, ĐCS Việt Nam đi theo chủ nghĩa Mác – Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh với tinh thần cách mạng và sáng tạo. Mục tiêu của Đảng là: Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH; vừa giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia, vừa xây dựng một xã hội “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, hội nhập quốc tế trên tinh thần: Việt Nam sẵn sàng là bạn, đối tác tin cậy và là thành viên có trách nhiệm với tất cả các quốc gia, vùng lãnh thổ trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập dân tộc và sự tiến bộ xã hội.

Những kẻ đang tuyên truyền cho nền dân chủ phương Tây thường lập luận rằng, chủ nghĩa Mác – Lê-nin là “tôn giáo”, đã lỗi thời và CNXH đã sụp đổ; do đó, Việt Nam cần phải thực hiện chế độ dân chủ đa nguyên… Họ lờ đi hoặc xuyên tạc tư duy mới, đường lối đổi mới của ĐCS Việt Nam về CNXH và con đường đi lên CNXH. Trong đó, ĐCS Việt Nam đã thừa nhận những sai lầm, khuyết điểm của mình trong thời kỳ trước đổi mới, như: chủ quan duy ý chí, xóa bỏ kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường… Đảng ta đã khẳng định cần phải xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; phát huy mạnh mẽ vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể xã hội và hội nhập với cộng đồng quốc tế, v.v.

Về vai trò lãnh đạo của Đảng, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (Bổ sung và phát triển năm 2011) viết: “ĐCS Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động… Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là bộ phận của hệ thống ấy. Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”1.

Về pháp lý, vai trò lãnh đạo của ĐCS Việt Nam đã được quy định tại Điều 4, Hiến pháp nước Cộng hoà XHCN Việt Nam năm 1992. Điều này cũng hoàn toàn phù hợp với pháp luật quốc tế. Tại Điều 1, Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị (năm 1966) ghi: “Tất cả các quốc gia đều có quyền tự quyết. Xuất phát từ quyền đó, các dân tộc tự do quyết định thể chế chính trị của mình, tự do phát triển kinh tế, xã hội và văn hoá”2.

Quy định trên có nghĩa: việc lựa chọn chế độ chính trị nào, thể chế tam quyền phân lập hay phân công phối hợp có sự giám sát của nhân dân; đề cao hệ tư tưởng nào? Giai cấp tư sản hay giai cấp công nhân? CNTB hay CNXH? và việc có ghi hay không ghi vào Hiến pháp, điều đó hoàn toàn là quyền của mỗi dân tộc, không ai có quyền can thiệp, kể cả Liên hợp quốc. Vai trò lãnh đạo, cầm quyền của ĐCS Việt Nam được Quốc hội quyết định ghi vào Hiến pháp 1992 chỉ là văn bản hóa vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng ta trên thực tế hơn một nửa thế kỷ qua mà thôi.

Không phủ nhận rằng, xã hội ta hiện nay còn nhiều vấn đề, thậm chí có những vấn đề bức xúc, như: tình trạng phân hóa giàu – nghèo, quan liêu, tham nhũng chưa bị đẩy lùi, đặc biệt là sự suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên. Tuy nhiên cho đến nay, xã hội ta đã tạo lập được những cơ sở chính trị, tư tưởng, pháp lý vững chắc để giải quyết những vấn đề đó, nhất là quyết tâm chính trị của toàn Đảng ta thể hiện trong Nghị quyết Trung ương 4 (khoá XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” để làm cho Đảng ta ngày càng trong sạch, vững mạnh lãnh đạo nhân dân ta xây dựng thành công CNXH và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN. Bởi vậy, tất cả sự xuyên tạc, hoặc mưu toan áp đặt một mô hình dân chủ nào đó cho xã hội ta, đều là nhằm loại bỏ sự lãnh đạo của ĐCS Việt Nam, tạo cơ hội cho các thế lực thù địch trong và ngoài nước thực hiện dã tâm chuyển hóa xã hội ta trở lại chế độ bóc lột, trở lại chế độ thuộc địa cho ngoại bang mà thôi. Hơn nữa vai trò lãnh đạo, cầm quyền của ĐCS Việt Nam còn là một giá trị của dân tộc ta trong thế kỷ XX – thế kỷ mà dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đứng lên giành được độc lập dân tộc, thống nhất đất nước và xây dựng một xã hội mới hướng đến những tiêu chuẩn chung của nền văn minh nhân loại.

PHƯƠNG NHI
tapchiqptd.vn

1 – ĐCSVN – Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 88 – 89.

2 – Trung tâm nghiên cứu Quyền con người – Các văn kiện quốc tế cơ bản về quyền con người, H. 2002, tr. 250.

Tự do, dân chủ và nhân quyền cần được hiểu và đánh giá trong những bối cảnh cụ thể

Làm thất bại chiến lược “Diễn biến hòa bình”

QĐND – Thời gian gần đây, một số đối tượng ở trong nước cấu kết với các phần tử phản động lưu vong để gây rối, xúi giục và kích động gây rối, chống phá công cuộc phát triển kinh tế-xã hội của nước ta. Việc làm sai trái của thiểu số những người này không chỉ bị lên án ở trong nước mà còn bị cả các học giả ở nước ngoài, trong đó có các chuyên gia người Việt, cực lực phê phán. Phóng viên TTXVN tại Ốt-ta-oa đã phỏng vấn ông An-đru Nguyễn (Andrew Nguyen), một chuyên gia phân tích chính sách tại Ca-na-đa về vấn đề trên. Xin giới thiệu cùng bạn đọc:

Câu hỏi: Là một người thường xuyên về Việt Nam công tác và thăm thân nhân, ông có đánh giá gì về tình hình đất nước trong những năm gần đây?

Trả lời: Trong vòng 5 năm gần đây, năm nào tôi cũng về Việt Nam ít nhất một lần, vừa kết hợp công tác và thăm gia đình. Cá nhân tôi nhận thấy nhiều biến chuyển tích cực tại Việt Nam trong thời gian qua. Vì Việt Nam vẫn là một nước đang phát triển nên còn phải đương đầu với nhiều khó khăn, thách thức về kinh tế, xã hội và giáo dục. Tuy nhiên, chúng ta không thể phủ nhận những thành tựu lớn lao mà Việt Nam đã đạt được trong những năm qua. Trong bối cảnh các nước đang phát triển, kể cả các nước láng giềng của Việt Nam như Thái Lan, Phi-líp-pin gặp phải rất nhiều thách thức về bất ổn chính trị, bạo loạn xã hội, Việt Nam vẫn duy trì mức ổn định cao. Chính ổn định chính trị và xã hội là điều kiện sống còn để một quốc gia có thể tập trung phát triển kinh tế và duy trì công bằng xã hội.

Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đạt mức cao suốt hai thập kỷ qua, ngay cả trong bối cảnh suy thoái kinh tế toàn cầu trong 3 năm qua. Việt Nam vốn là một nước gặp nhiều khó khăn do chiến tranh kéo dài và thiên tai xảy ra hằng năm, nhưng Chính phủ Việt Nam đã chèo lái một cách khôn khéo và hiệu quả con thuyền kinh tế của đất nước, duy trì được mức tăng trưởng kinh tế ấn tượng trong suốt nhiều năm qua, giảm thiểu ảnh hưởng của các đợt suy thoái và khủng hoảng kinh tế khu vực và toàn cầu.

Việt Nam đã đạt thành tích xuất sắc trong xóa đói giảm nghèo và thu hẹp khoảng cách thu nhập của người dân. Thành tựu lớn nhất theo ý kiến tôi là Việt Nam đã từ một trong những nước nghèo nhất thế giới, sau hơn 2 thập kỷ phát triển kinh tế nhanh và ổn định, nay đã gia nhập tốp các nước có thu nhập trung bình, nâng cao đáng kể đời sống của người dân ở mọi miền của đất nước. Thành tích này đã được các tổ chức quốc tế như Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) và Chương trình phát triển của LHQ (UNDP) công khai thừa nhận và biểu dương.

Về đối ngoại, trong thời gian qua, vị thế của Việt Nam đã không ngừng được nâng cao trong khu vực và trên trường quốc tế. Việt Nam đã đảm nhận tốt vai trò thành viên không thường trực tại Hội đồng Bảo an LHQ, Chủ tịch luân phiên của ASEAN, đề ra và thực hiện hàng loạt các sáng kiến đối ngoại song phương và đa phương.

Quan hệ Việt Nam-Ca-na-đa trong những năm gần đây đã không ngừng được củng cố, phát triển nhiều về nhiều mặt. Trong năm 2010, Chủ tịch Quốc hội và Thủ tướng Việt Nam đã đến Ca-na-đa trong khuôn khổ các hoạt động đa phương (G20), để lại nhiều dấu ấn được quốc tế đánh giá cao. Các buổi gặp mặt của các vị lãnh đạo với bà con kiều bào, trong đó cá nhân tôi được tham dự, diễn ra trong bầu không khí ấm cúng thân mật và để lại nhiều ấn tượng tốt đẹp đối với bà con.

Câu hỏi: Đó là đánh giá về tình hình chung của đất nước, vậy ông có nhận xét gì về đời sống tinh thần của người dân tại Việt Nam, nhất là vấn đề tự do tín ngưỡng và tôn giáo?

Trả lời: Tôi đã có dịp đi qua nhiều vùng ở mọi miền của đất nước, cảm nhận chung của tôi là thấy người thân, bạn bè và những người dân khác đều được tự do trong việc lựa chọn tín ngưỡng và tôn giáo. So với thời điểm trước khi tôi đi định cư ở nước ngoài, tại Việt Nam hiện có nhiều chùa chiền, nhà thờ, giáo đường và nơi thờ tự hơn. Chính sách tôn giáo của Việt Nam ngày càng được minh bạch, công khai hóa và hiệu quả hơn. Một ví dụ điển hình là Nhà nước Việt Nam và Tòa thánh Va-ti-căng đã cải thiện quan hệ một cách đáng kể trong 3 năm qua. Theo tôi được biết thì Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã thăm chính thức Va-ti-căng và gần đây Tòa thánh đã cử đại diện không thường trú đầu tiên tại Việt Nam.

Câu hỏi: Gần đây, một số cá nhân sử dụng chiêu bài về dân chủ, nhân quyền và tự do tôn giáo để thực hiện một số hành vi vi phạm pháp luật của Việt Nam, như kích động người dân gây rối trật tự xã hội, vậy quan điểm của ông về vấn đề này như thế nào?

Trả lời: Mục tiêu tối thượng của bất kỳ nhà nước nào, mà tôi tin là trong đó có Nhà nước Việt Nam, là xây dựng một xã hội tự do, dân chủ, tôn trọng nhân quyền. Tuy các khái niệm tự do, dân chủ và nhân quyền có một số giá trị chung cho toàn nhân loại, nhưng cần được hiểu và đánh giá trong những bối cảnh hết sức cụ thể của mỗi quốc gia. Hình thức xử lý đối với các cá nhân trên phụ thuộc vào mức độ vi phạm của họ mà các cơ quan pháp luật của Việt Nam có trách nhiệm xác minh và điều tra. Cá nhân tôi cho rằng nếu họ thực sự vi phạm pháp luật, thì sẽ phải bị xử lý theo đúng các quy định luật pháp Việt Nam bởi vì điều quan trọng nhất là không một ai, một lực lượng nào có thể đứng trên pháp luật. Theo tôi được biết thì Nhà nước Việt Nam đã có những xử lý tương đối linh hoạt và mang tính khoan hồng đối với những cá nhân này. Tôi thiết nghĩ rằng, những người này và một số cá nhân, có hành vi và mục đích tương tự, nếu sớm tỉnh ngộ và hợp tác thiện chí với các cơ quan chức năng của Việt Nam, thì sẽ có lợi hơn cho tình hình chung và cho chính bản thân họ.

Câu hỏi: Vậy theo ông, những người muốn bày tỏ chính kiến của cá nhân mình thì nên thể hiện như thế nào?

Trả lời: Tôi nghĩ rằng, pháp luật của Việt Nam đã có những quy định cụ thể về việc bày tỏ chính kiến của cá nhân. Hình thức thích hợp nhất, theo ý kiến của cá nhân tôi, là thông qua thảo luận, đối thoại trực tiếp với các cơ quan có trách nhiệm. Trên thực tế, các cấp chính quyền, kể cả lãnh đạo cao nhất của Việt Nam đã từng trực tiếp lắng nghe, đối thoại và tiếp thu ý kiến đóng góp của nhiều người, trong đó có người Việt Nam đang định cư tại nước ngoài. Tôi hy vọng rằng, cơ chế đối thoại giữa nhà nước và người dân sẽ ngày càng hoàn thiện và phát huy hiệu quả.

qdnd.vn