Thư viện

Vấn đề nhân quyền ở Việt Nam và sự vu khống bịa đặt

Trong những năm qua, các thế lực thù địch luôn vu khống, bịa đặt, cho rằng Đảng và Nhà nước ta vi phạm quyền con người, bóp nghẹt dân chủ, đàn áp tôn giáo… Nhưng thực tế đã chứng minh rằng vấn đề dân chủ và nhân quyền ở Việt Nam ngày càng được thực hiện tốt hơn, đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới.

1. Sự vu khống trắng trợn

Những năm gần đây, các thế lực thù địch liên tiếp vu cáo Việt Nam là một trong những nước vi phạm nhân quyền. Tại Hội nghị thường niên của LHQ về vấn đề nhân quyền, đại diện của một số nước phương Tây thường cho rằng Việt Nam thuộc nhóm nước vi phạm nhân quyền nhất thế giới.
Quốc hội Mỹ lấy ngày 11/5 là ngày nhân quyền cho Việt Nam.

Hàng năm, Bộ Ngoại giao Mỹ công bố bản báo cáo về nhân quyền của gần 200 quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam. Năm 2001, bản báo cáo về Việt Nam đã có 49 trang, năm 2002 có gần 23 trang đã cho rằng “thành tích về nhân quyền của Việt Nam vẫn ít ỏi và tiếp tục có những vi phạm nghiêm trọng”.

Hai năm qua, Thượng nghị viện Mỹ vẫn để ngỏ vấn đề thông qua “Đạo luật nhân quyền Việt Nam” (HR 2833) mặc dù chúng ta đã kiên quyết đấu tranh yêu cầu chính quyền Mỹ huỷ bỏ đạo luật sai trái này, song chính giới Mỹ vẫn chưa đáp ứng. Trong năm 2003 các thế lực cực hữu ở Mỹ hoạt động ráo riết hơn, tiếp tục vu khống trắng trợn Việt Nam vi phạm nhân quyền. Cụ thể là:

Ngày 3/4/2003, Hạ nghị sĩ Mỹ C.Xmít – Phó chủ tịch Uỷ ban đối ngoại Hạ viện Mỹ cùng một số hạ nghị sĩ khác đã chính thức trình lên Hạ viện Mỹ “Dự luật nhân quyền Việt Nam” . Do có sự phản đối mạnh mẽ, ngày 16/7/2003, Hạ viện Mỹ đã thông qua một số điều khoản bổ sung Dự luật chi tiêu đối ngoại của Bộ Ngoại giao Mỹ trong năm tài chính 2004 – 2005 (HR 4950), thực chất vẫn là Dự luật nhân quyền Việt Nam được đưa thành phần E trong Dự luật này với những đòi hỏi phi lý, can thiệp thô bạo chủ quyền Việt Nam.

Ngày 13/5/2003, Uỷ ban tự do tôn giáo quốc tế của Mỹ đã công bố bản báo cáo thường niên, trong phần về Việt Nam, in thành sách riêng dày 26 trang đã tiếp tục vu cáo: “tình hình tự do tôn giáo ở Việt Nam xấu đi”, “tăng cường đàn áp người thiểu số theo tôn giáo”, “kiểm soát, can thiệp vào các hoạt động tôn giáo”, “các biện pháp mà Mỹ áp dụng để thúc đẩy tự do tôn giáo ở Việt Nam đã không đạt kết quả cụ thể nào”…

Một số nghị sĩ Mỹ còn vận động chính quyền Mỹ thông qua “đạo luật tự do thông tin Việt Nam 2003”. Đã có 37 nghị sĩ Mỹ viết thư cho lãnh đạo Việt Nam đòi trả tự do cho Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ, Nguyễn Văn Lý; gần 40 tổ chức, cá nhân của Mỹ và phương Tây lên tiếng bênh vực, ủng hộ Phạm Hồng Sơn. Nữ hạ sĩ Mỹ Sanchez đã “hùng hồn” tuyên bố: “không quá 5 năm nữa, tự do và nhân quyền sẽ được trả lại cho dân tộc Việt Nam”.

Ngày 15/5/2003, Nghị viện Liên minh Châu Âu đã ra Nghị quyết về tự do ngôn luận và tự do tôn giáo ở Việt Nam, bày tỏ sự ủng hộ công khai đối với cái gọi là “Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất” và một số đối tượng cơ hội chính trị, chống đối, kêu gọi chính phủ Việt Nam huỷ bỏ Nghị định 31-NĐ/CP…
Ngày 24/6/2003, Bộ Ngoại giao Mỹ đã tổ chức họp báo công bố báo cáo về “các hoạt động thúc đẩy dân chủ và nhân quyền: thành tích của Mỹ năm 2002 – 2003” đề cập tới 22 nước, trong đó đánh giá Việt Nam là nước “có những vi phạm nghiêm trọng dân chủ, nhân quyền”.

Ngày 4/9/2003, Nghị viện Liên minh Châu Âu thông qua báo cáo về tình hình nhân quyền thế giới. Trong phần về Việt Nam, báo cáo này vu cáo nước ta vi phạm tự do tôn giáo, đề nghị Liên minh châu Âu tổ chức thảo luận rộng rãi hơn với các tổ chức phi chính phủ quốc tế để đưa ra một chính sách “chắc chắn và phù hợp” về vấn đề nhân quyền ở Việt Nam.

Ngày 17/9/2003, Chủ tịch Uỷ ban tự do tôn giáo quốc tế Hoa Kỳ đã xuyên tạc và cho rằng: “Việt Nam tiếp tục vi phạm tiêu chuẩn quốc tế về các quyền con người, việc này sẽ cản trở các quan hệ giữa Mỹ với Việt Nam trong tương lai. Uỷ ban này còn khuyến nghị Bộ Ngoại giao Mỹ đưa Việt Nam vào danh sách những quốc gia đáng lo ngại về tự do tôn giáo và có biện pháp trừng phạt nhằm thúc đẩy tự do và nhân quyền tại Việt Nam.

Ngày 1/10/2003, Uỷ ban tự do tôn giáo quốc tế Hoa Kỳ tổ chức họp báo đã vu cáo Việt Nam “đàn áp tôn giáo và vi phạm nhân quyền”. Nhiều tài liệu được phân phát tại phòng họp báo, nội dung đòi Mỹ phải xem xét một chính sách mới đối với Việt Nam, tập trung vào vấn đề nhân quyền bằng tất cả biện pháp ngoại giao; đề nghị Ngoại trưởng Mỹ xác định “Việt Nam là nước đặc biệt quan tâm”; tăng cường chương trình tiếng Việt trên đài châu Á tự do, đài tiếng nói Hoa Kỳ…

Ngày 19/11/2003, Hạ viện Mỹ đã thông qua Nghị quyết HR 427. Nghị quyết này tập trung vào những nội dung: vu cáo Việt Nam “không tôn trọng tự do tôn giáo, tịch thu chùa chiền, bắt các tổ chức Phật giáo phải tham gia Giáo hội Phật giáo Việt Nam do Nhà nước dựng lên; đàn áp, bắt bớ, quản chế các nhân vật Phật giáo, bất đồng chính kiến; do vi phạm tự do tôn giáo nên Việt Nam đã bị Uỷ ban tự do tôn giáo của Mỹ đề nghị đưa vào danh sách các nước cần đặc biệt quan tâm về tự do tôn giáo. Đề nghị Quốc hội Mỹ chúc mừng hàng ngũ lãnh đạo của cái gọi là “Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất” vừa được bầu. Yêu cầu chính phủ Việt Nam trả tự do cho những người bị cầm tù, quản chế vì vấn đề tín ngưỡng trong đó có Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ. Đề nghị Quốc hội Mỹ và Tổng thống Mỹ ban hành đạo luật nhân quyền Việt Nam. Chấp nhận yêu cầu của Uỷ ban tự do tôn giáo quốc tế Mỹ đưa Việt Nam vào danh sách các nước đặc biệt quan tâm về tự do tôn giáo…

Cũng với những nội dung trên, ngày 25/11/2003, Nghị viện châu Âu cũng thông qua một nghị quyết gọi là”tình hình tự do tôn giáo tại Việt Nam”.

Ngoài ra các tổ chức nhân quyền (Amnesty International, Human Right Watch…) tổ chức các hoạt động “hội thảo, hội nghị”, biểu tình, trao giải thưởng nhân quyền cho các phần tử cơ hội chính trị ở Việt Nam, mở đợt vận động đòi thả một số phần tử đang thi hành án…

2. Các tổ chức phản động lưu vong người Việt Nam ngày càng gia tăng cả về cường độ và tần số hoạt động chống phá, vu cáo ta vi phạm nhân quyền

Trong những năm qua, ở bên ngoài hàng trăm tổ chức phản động, với đủ loại danh xưng như: “chính phủ”, “mặt trận”, “phong trào”, “đảng”, “liên minh”… ra đời, với đủ loại chính cương, điều lệ, tuyên ngôn, tuyên cáo, giải pháp, lý thuyết, học thuyết, chủ thuyết “tái thiết Việt Nam thời hậu cộng sản”. Phần lớn những tổ chức này chủ trương không theo con đường hoạt động vũ trang, gây bạo loạn trong nước như các tổ chức “Mặt trận quốc gia thống nhất giải phóng miền Nam” của Hoàng Cơ Minh, “Chí nguyện đoàn hải ngoại phục quốc Việt Nam” của Võ Đại Tôn, “Liên đảng cách mạng Việt Nam” của Hoàng Cơ Minh, “Mặt trận nhân dân hành động của Đặng Văn Minh… đã làm, mà chúng chuyển hướng sang hoạt động lợi dụng chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền” để kích thích mầm mống đa nguyên về chính trị, tác động phân hoá nội bộ ta theo phương thức “diễn biến hoà bình” với tham vọng từng bước làm thay đổi thể chế chính trị ở Việt Nam.

Thời gian gần đây, các tổ chức phản động người Việt lưu vong gia tăng về cường độ và tần số hoạt động chống phá Việt Nam, vu cáo chúng ta vi phạm nhân quyền. 2 năm qua (2002 và 2003) chúng tập trung vào một số chiến dịch lớn sau:

– Chiến dịch lên án Việt Nam vi phạm nhân quyền. Chúng tổ chức các hoạt động xuất bản các tài liệu với nội dung xuyên tạc chính quyền Việt Nam đã bắt giữ một số nhân vật “bất đồng chính kiến”, “người tù lương tâm”; cho rằng phải có những hoạt động phản đối đồng loạt và mạnh mẽ hơn nữa, phải cho thế giới thấy “bản chất” của chế độ ta; kêu gọi người dân trong nước ủng hộ cho cái gọi là “những chiến sĩ tự do” đang bị giam giữ như: Nguyễn Văn Lý, Lê Chí Quang, Nguyễn Khắc Toàn, Phạm Hồng Sơn.

– Chiến dịch treo cờ ba sọc ở một số bang và thành phố của Mỹ, núp dưới hình thức mới là biểu tượng cộng đồng.

– Chiến dịch kêu gọi các lực lượng phản động ở trong và ngoài nước “kéo đổ” tượng Hồ Chí Minh ở các công viên, phá hoại Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Bọn phản động nguỵ quân, nguỵ quyền cũ ở hải ngoại đã tiến hành “Đại hội toàn quân lực Việt Nam Cộng hoà” lần thứ 2 tại Little Sài Gòn (Calofornia – Mỹ) với sự có mặt khoảng 300 tên đại diện cho hơn 140 đoàn từ nhiều nước như Mỹ, Canađa, Nhật, Úc, châu Âu… Mục đích của chúng là: “Tập hợp các cựu quân nhân của Việt Nam Cộng hoà thành một khối thống nhất các hoạt động trên phạm vi toàn cầu, duy trì các lực lượng bên ngoài nhằm chống lại Nhà nước Việt Nam. Tại Đại hội, chúng đã thông qua một số nội dung: xưng danh tổ chức mới với tên gọi “Tập thể chiến sĩ Việt Nam Cộng hoà hải ngoại”. Địa bàn hoạt động là tất cả các nước có người Việt Nam định cư, lấy California làm trụ sở chính. Tôn chỉ là không chấp nhận lập trường của Đảng Cộng sản Việt Nam, không hoà hợp, hoà giải với Đảng Cộng sản Việt Nam. Lấy quốc kỳ và quốc ca của chế độ cũ là biểu tượng. Liên kết bình đẳng với các lực lượng ngầm ở trong nước, chống phá Việt Nam cả kinh tế và chính trị, dùng người Việt trong nước làm nòng cốt để lật đổ chế độ cộng sản. Dùng lá phiếu tại Mỹ để buộc Chính phủ Mỹ gây áp lực với Việt Nam, đồng thời vận động sự hậu thuẫn ủng hộ quốc tế lên án Việt Nam vi phạm nhân quyền…

Theo TS. Nguyễn Viết Thông – Phó Trưởng Ban TT-VHTW
Tạp chí Thông tin LLCT

cpv.org.vn

Bàn thêm về vấn đề nhân quyền

1. Nhân quyền – theo dòng lịch sử

Con người với bản năng và những “tính rất người”, luôn hướng tới những cái thật, cái đúng (chân), cái tốt lành (thiện) và cái đẹp (mỹ). Trong quá trình chung sống với cộng đồng, quan hệ giữa người với người, khát vọng có “quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc” trở thành điểm tương đồng của tất cả mọi người. Song khát vọng chung nhất ấy đã bị chà đạp, kìm nén khi xã hội loài người phân chia thành những giai cấp khác nhau; có tập đoàn người này áp bức, thống trị tập đoàn người khác, thông qua những quy định, sắc lệnh (luật pháp) của nhà nước do giai cấp thống trị nắm giữ và điều hành. Cũng từ đó mới xuất hiện cuộc đấu tranh cho khát vọng chung, mới xuất hiện “nhân quyền” và cuộc đấu tranh cho nhân quyền. Thời điểm đó là năm nào còn là “ẩn số” song chỉ biết rằng “khi đồ đồng chiếm ưu thế thì ở Ai Cập đã xảy ra quá trình hình thành của xã hội giai cấp và nhà nước chủ nô”1. Còn trên lưu vực Lưỡng Hà (phía Nam I-rắc ngày nay) thì “đầu thiên niên kỷ thứ III trước Công nguyên, những nhà nước đầu tiên ra đời làm công cụ cần thiết để cưỡng bức nô lệ phải phục tùng và bảo đảm địa vị thống trị trong xã hội của bọn quyền quý chủ nô xuất thân từ quý tộc của bộ lạc”2. Trong xã hội đó, địa vị của nô lệ hết sức thấp hèn. Nô lệ được gọi là “igu-nu-đu” (“không ngước mắt”); tức là luôn luôn phải cụp mắt xuống trước mặt chủ nô. Họ bị coi như hàng hóa khác để đem bán, làm vật tế thần và vua quá cố. Về kinh tế, những đóng góp tự nguyện của họ vào kho chung của toàn bộ lạc trước kia, nay đã biến thành sưu nặng nề, thành lao động phục vụ cho tầng lớp trên của xã hội. Sự mất nhân quyền đã dẫn đến các cuộc đấu tranh liên tiếp của nô lệ, trong đó tuyên bố của Spác-ta-quýt về quyền của nô lệ chống áp bức bóc lột của chủ nô là tuyên bố nhân quyền đầu tiên, có dấu ấn lớn nhất dưới chế độ chiếm hữu nô lệ.

Sau khi các nhà nước chiếm hữu nô lệ tan rã, người nô lệ vừa được giải phóng – nông dân lại rơi vào chế độ áp bức bóc lột mới – chế độ phong kiến. Nhân quyền và đấu tranh cho nhân quyền trở nên gay gắt hơn.

Mãi đến giữa thế kỷ thứ XVIII, giai cấp tư sản giải phóng tiểu nông khỏi sự bóc lột và thống trị của các lãnh chúa phong kiến. Đây là ngọn cờ nhân quyền lớn nhất của thời đại cách mạng tư sản. Không phải ngẫu nhiên mà nhân loại hân hoan chào đón “Tuyên ngôn Độc lập” của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ và “Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền” của Pháp.

Bản Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ được một ủy ban gồm 5 người, đứng đầu là Giéc-phéc-xơn soạn thảo và được Hội nghị Lục địa lần thứ 2 long trọng công bố ngày 4 tháng 7 năm 1776. Nội dung cơ bản của Tuyên ngôn là lời tuyên bố các quyền tự do dân chủ tư sản và khẳng định nền độc lập của các bang ở Bắc Mỹ. Bản Tuyên ngôn nêu rõ: “Mọi người sinh ra đều bình đẳng. Tạo hóa đã ban cho họ những quyền bất khả xâm phạm, trong đó có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.

Bản “Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền” của Pháp được Hội đồng lập hiến thông qua ngày 26 tháng 8 năm 1789 gồm 17 điều khoản. Đó là một Cương lĩnh thấm nhuần tư tưởng của các nhà triết học Pháp thế kỷ XVIII, kết tinh lại trong khẩu hiệu nổi tiếng “Tự do, bình đẳng, bác ái”. Lần đầu tiên trong lịch sử nước Pháp và châu Âu, chủ quyền tối cao được tuyên bố thuộc về nhân dân cùng với những quyền tự do dân chủ khác. Quyền lực của nhà vua cùng chế độ đẳng cấp bất bình đẳng trong xã hội phong kiến bị bãi bỏ.

Một cách khách quan, các bản Tuyên ngôn trên là những văn kiện có tính chất dân chủ tự do cao, là một tiến bộ lớn lao, ghi nhận những mong muốn của dân chúng. Tuy nhiên, cả hai bản tuyên ngôn đó đều có những hạn chế đáng kể. Trong bản Tuyên ngôn của Mỹ không có điều khoản thủ tiêu chế độ nô lệ, không nghiêm cấm việc buôn bán nô lệ nên các chủ nô vẫn mặc sức tự do buôn bán nô lệ, nô lệ vẫn chỉ là một “công cụ”, một thứ “hàng hóa biết nói” mà thôi. Trong bản Tuyên ngôn của Pháp và cả của Mỹ mặc dầu những quyền tự do và bình đẳng đã được ghi trong văn bản, nhưng các tuyên ngôn đều xác lập dứt khoát cơ sở của chế độ mới là chế độ tư bản, duy trì công khai quan hệ bóc lột của tập đoàn thống trị đối với quần chúng nhân dân. Rõ ràng rằng, về thực chất, cuộc cách mạng tư sản hoàn toàn không có ý định xóa bỏ bóc lột mà chỉ thay đổi giai cấp và phương thức bóc lột phong kiến sang tư sản, tư bản chủ nghĩa mà thôi. Như vậy, đại bộ phận quần chúng nhân dân và giai cấp công nhân lại rơi vào một chế độ áp bức bóc lột mới rất văn minh mà không kém dã man – chế độ tư bản chủ nghĩa; nghĩa là sự vi phạm nhân quyền lại tiếp tục gia tăng. Theo quy luật lịch sử, tất yếu dẫn đến cuộc cách mạng mới chống lại các chính sách mất dân chủ, nhân quyền trong các nhà nước tư sản.

Ngày 7-11-1917, dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, Cách mạng Tháng Mười Nga thành công, mở đầu thời đại mới của xã hội loài người từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội (CNXH), chủ nghĩa cộng sản (CNCS). Mục tiêu chính của cách mạng là xóa bỏ ách áp bức bóc lột của giai cấp tư sản đối với giai cấp công nhân và nhân dân lao động; thủ tiêu chế độ người bóc lột người, giải phóng con người một cách triệt để. Cuộc đấu tranh cho tương lai tươi sáng đó đã mở ra một triển vọng vô cùng sán lạn cho loài người, đưa cuộc đấu tranh nhân quyền lên một đỉnh cao mới, đến mức vấn đề nhân quyền tưởng chừng sẽ không còn phải đặt ra đối với chế độ chính trị mới – chế độ XHCN nói chung và các nước XHCN nói riêng. Tiếc thay, do sự quanh co của lịch sử, nhiều nước XHCN ở Đông Âu và cả Liên Xô – quê hương của Cách mạng Tháng Mười Nga bị tan rã, hệ thống XHCN lâm vào khủng hoảng, thoái trào. Điều đó đã phần nào làm giảm đi niềm tin của nhiều người vào CNXH, CNCS, song không có nghĩa là bản chất tốt đẹp, tính dân chủ, nhân quyền cao của nó bị phủ định. Hy vọng rằng, từ những bài học đau lòng ấy, các Đảng Cộng sản, các nước XHCN còn lại sẽ thực hiện thành công mục tiêu, lý tưởng của Cách mạng Tháng Mười, xây dựng thành công CNCS trên toàn thế giới và lúc đó hiển nhiên vấn đề nhân quyền không còn phải đặt ra trong mọi chương trình nghị sự của nhân loại.

2. Nhân quyền và chủ quyền quốc gia

Là niềm mơ ước, là giá trị chung của toàn nhân loại, nhưng nhân quyền là vấn đề của quốc gia, thuộc quyền xử lý của quốc gia gắn chặt với lợi ích quốc gia và độc lập chủ quyền của từng quốc gia-dân tộc. Một quốc gia không có hoặc chưa có chủ quyền dân tộc thì không thể nói đến nhân quyền, đến “quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc” của người dân. Ngược lại, nếu “nước độc lập mà dân không hạnh phúc, tự do, thì độc lập chẳng có ý nghĩa gì”; hơn nữa nền độc lập đó không thể bền vững. Như vậy, độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia và nhân quyền có mối quan hệ biện chứng, trong đó độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia là vấn đề trước hết, là điều kiện tiên quyết và làm tiền đề cơ bản để thực hiện đầy đủ quyền con người – nhân quyền.

Chúng ta thừa nhận rằng, ngày nay hòa bình và hội nhập quốc tế đang là xu thế chung của nhân loại. Nhiều vấn đề không thể còn giải quyết ở từng quốc gia-dân tộc. Sự phụ thuộc và mối quan hệ mật thiết giữa các quốc gia, dân tộc, các giai cấp ngày càng gia tăng, do thành tựu của hợp tác kinh tế, khoa học công nghệ, của đấu tranh dân tộc, đấu tranh giai cấp, đấu tranh với thiên nhiên và đấu tranh với các nạn dịch và tham gia giải quyết các vấn đề mang tính toàn cầu. Tuy nhiên, nên thấy rằng đó là một quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh, cạnh tranh. Nói theo triết học đó là sự thống nhất của mâu thuẫn, thống nhất trong mâu thuẫn, trong đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc, trong rất nhiều sự khác biệt phức tạp về trình độ phát triển, về văn hóa, về tôn giáo… Những mâu thuẫn cơ bản của thời đại vẫn tồn tại và có bước phát triển mới, dưới hình thức mới, thậm chí cả nội dung mới, tiềm ẩn những nguy cơ khó lường đối với toàn cầu. Trong từng khu vực, từng quốc gia khác nhau lại nổi lên những vấn đề rất khác nhau hoặc là xung đột vũ trang, tranh chấp lãnh thổ, xung đột tôn giáo, sắc tộc… Sự đa dạng đó cộng với những đặc thù riêng biệt về văn hóa, lịch sử, truyền thống, kinh tế, đặc biệt là đường lối chính trị và lợi ích quốc gia, dân tộc khác nhau nên chủ trương và phương pháp xử lý mọi vấn đề trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội… và cả vấn đề nhân quyền sẽ rất khác nhau. Xét cho cùng việc thực hiện quyền con người sẽ được thông qua sự bảo đảm của quốc gia-dân tộc, tựu trung là ở Hiến pháp, pháp luật và các chính sách của quốc gia đó. Vì lẽ đó, không thể có một thứ “nhân quyền toàn cầu”, “nhân quyền không biên giới” và càng không thể có cái gọi là “nhân quyền cao hơn chủ quyền quốc gia”, “nhân quyền đặt trên tổ quốc” được.

Đã rõ như ban ngày, ấy vậy mà vẫn còn nhiều người không thừa nhận, đặc biệt là các nước phương Tây, trong đó Mỹ là số một. Thực chất ý đồ của họ là gì? Đó chính là Mỹ muốn dùng chiêu bài này làm cái cớ để can thiệp vào công việc nội bộ của các nước khác. Muốn thông qua “nhân quyền” để rũ tung, phá nát an ninh chính trị của các nước có chủ quyền; để áp đặt “nhân quyền kiểu Mỹ” lên nước khác, tiến tới “Mỹ hóa toàn cầu”. Thực chất đây là “con chủ bài”; một mũi tiến công rất nguy hiểm của Mỹ trên mặt trận chính trị, tư tưởng, văn hóa…; là công cụ để thực hiện chủ nghĩa bá quyền; là “vũ khí hòa bình” kết hợp với răn đe bằng quân sự để tiến tới thôn tính, “xâm lược” các quốc gia có chủ quyền.

Từ năm 1990 lại đây, dưới ngọn cờ “nhân đạo” “hòa bình và thiện chí” Mỹ đã hơn 40 lần sử dụng vũ lực ở ngoài nước Mỹ. Năm 1999, NATO do Mỹ cầm đầu đã phớt lờ luật pháp quốc tế, ngang nhiên bỏ qua Hội đồng bảo an Liên hợp quốc, oanh tạc Liên bang Nam Tư – một quốc gia có chủ quyền suốt 78 ngày, với số bom đạn 21000 tấn. Tệ hơn Mỹ còn sử dụng cả vũ khí mà luật pháp quốc tế cấm sử dụng như “bom ngạt”, “bom uranium” và các loại vũ khí mới có sức công phá cực mạnh như “bom từ”, “bom chì”… Đây là thảm họa “nhân đạo” lớn nhất châu Âu kể từ sau chiến tranh thế giới thứ 2. Chưa dứt làn sóng phê phán, chì trích, thì 4 năm sau (3-2003) một lần nữa, Mỹ-Anh lại bất chấp Liên hợp quốc, tiến công I-rắc với cái cớ “I-rắc có vũ khí hủy diệt hàng loạt”. Oái oăm thay đến nay, sau hơn 2 tháng đào bới các hang cùng, ngõ hẻm trên khắp nước I-rắc mà chưa tìm được một chứng cớ nào, tướng Mỹ G.Conuây – người trực tiếp chỉ huy lực lượng săn lùng vũ khí hủy diệt ở I-rắc của liên quân Mỹ- Anh đã phải mỉa mai rằng “Thật là nực cười! người ta buộc chúng tôi phải làm một công việc mà họ biết chắc là không có kết quả. Đơn giản là ở đây chẳng có thứ vũ khí hủy diệt nào”. Chuyện Mỹ- Anh tiến công I-rắc và “hậu I-rắc” còn là vấn đề “dài dài” tiếp tục còn nhiều lời bàn đi, nói lại song dù gì thì Mỹ cũng đã chiếm được một nước có trữ lượng dầu mỏ nhất nhì thế giới. Cho dù cái cớ khác xa với mục đích thì cũng đã trở thành “chuyện đã rồi”. Theo các nhà quan sát, sau “cú lừa ngoạn mục” ở I-rắc Mỹ sẽ chưa dừng “bài ca truyền thống” này đâu. Nhìn bản đồ quân sự thế giới đương thời, hầu hết nhân dân thế giới, kể cả dân Mỹ đều ngạc nhiên vì số nước có quân Mỹ chiếm đóng quá nhiều (hơn 140 nước) và càng ngạc nhiên hơn khi Mỹ yêu cầu các nước sở tại không được đưa lính Mỹ ra tòa, không xét xử lính Mỹ theo luật pháp của các nước đó dù họ có giết người, cướp của, hãm hiếp dân lành. Thế mới biết cái “nhân quyền kiểu Mỹ” khó hiểu làm sao! Cái thuyết “nhân quyền cao hơn chủ quyền”, “nhân quyền không biên giới” của Mỹ là thế đấy.

3. Xoay quanh những dự luật gọi là “nhân quyền Việt Nam” của Mỹ

Tháng 9 năm 2001, chính vào thời điểm quan hệ Việt – Mỹ có bước phát triển quan trọng – Hiệp định Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ (BTA) được ký thì ông C.Xmít và một số người thiếu thiện chí với Việt Nam trong ủy ban đối ngoại Hạ viện Mỹ đưa ra dự luật “Nhân quyền Việt Nam”. Dự luật này đã được Hạ viện Mỹ tán đồng nhưng sau đó đã không được Thượng viện Mỹ xem xét. Chưa đầy 2 năm sau, ngày 3-4-2003 ông C.Xmít cùng các ông E.Royce, Z.Lofgren đã tổ chức họp báo về việc nhóm này trình dự luật “Nhân quyền Việt Nam 2003” lên Hạ viện Mỹ để xem xét và thông qua. Tuy chưa chính thức thông qua dự luật, song ngày 15-7 Hạ viện Mỹ đã thông qua điều luật bổ sung Dự luật chi tiêu đối ngoại của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ trong năm tài chính 2004- 2005 (HR1950), trong đó lợi dụng vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền” để can thiệp thô bạo công việc nội bộ của Việt Nam, phá hoại quan hệ hợp tác bình đẳng giữa hai nước. Việc thông qua một văn bản pháp quy liên quan tới công việc nội bộ của nước khác là một hành vi vi phạm nghiêm trọng các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, trong đó có nguyên tắc bình đẳng và tôn trọng chủ quyền quốc gia. Việc làm này phá hoại quan hệ với một số nước thành viên ASEAN là đối tác đối thoại của Hoa Kỳ. Điều luật HR1950 làm sống lại tiền lệ xấu trong quan hệ quốc tế của thời kỳ “chiến tranh lạnh” là gắn viện trợ quốc tế với công việc nội bộ nước liên quan. Những nội dung, yêu cầu trong HR1950 cũng như các dự luật “Nhân quyền Việt Nam” của Mỹ tập trung chủ yếu đến cái gọi là “dân chủ” và “nhân quyền” ở Việt Nam, đã xuyên tạc tình hình của Việt Nam, hoàn toàn phủ định chính sách phát triển xã hội đúng đắn của Việt Nam là lấy con người làm trung tâm và kết hợp lợi ích chung của cộng đồng với quyền lợi của từng công dân. Những thành quả và chủ trương nhất quán của Nhà nước Việt Nam đã được nhân dân Việt Nam thuộc mọi tầng lớp, mọi dân tộc và tôn giáo đồng tình; được chính phủ các nước, các tổ chức quốc tế và khách nước ngoài, kể cả các nghị sĩ, doanh nhân, học giả, cựu chiến binh và du khách Mỹ thừa nhận và hoan nghênh.

Theo Báo cáo năm 2003 của Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP) thì chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam vượt thêm 21 nước trong mấy năm gần đây. Nếu HDI của Việt Nam năm 1985 mới là 0,583, năm 1990 là 0,605 thì năm 2002, 2003 đã tăng lên 0,688. Cũng theo Báo cáo này, tỷ lệ nghèo ở Việt Nam đã giảm từ 70% (giữa thập niên thế kỷ XX) xuống còn khoảng 29% (vào đầu năm 2002). Đây là một trong những mức giảm nhiều nhất trong các nước đang phát triển. Còn ông Đa-vít Pay-nơ, đồng Giám đốc Trung tâm dữ liệu các tổ chức phi chính phủ Việt Nam thì nói: “Bản thân tôi, từ khi đến Việt Nam cách đây 3 năm, tôi được chứng kiến sự thay đổi nhanh chóng của Việt Nam. Đời sống của người Việt Nam thay đổi rõ rệt, số lượng phương tiện tham gia giao thông tăng lên nhanh chóng, chất lượng sản phẩm xuất khẩu ngày một nâng cao, hàng nhập khẩu cũng nhiều lên rõ rệt… Có thể nói, so với các nước cùng trình độ phát triển, Việt Nam là một trong những đất nước phát triển năng động nhất với nhiều thay đổi tích cực”. Tổ chức quốc tế và người nước ngoài nhận xét Việt Nam tích cực là thế, còn những người trong cuộc – các công dân Việt Nam nói về sự tốt đẹp của đất nước, của chế độ ở Việt Nam ra sao? Xin đi vào 2 đối tượng chủ yếu mà các dự luật nhân quyền của Mỹ tố cáo Việt Nam, là người dân tộc và tôn giáo để ông C.Xmít và các Nghị sĩ Mỹ tham khảo.

Vấn đề dân tộc, ngay từ khi ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Việt Nam đã đề ra và luôn thực hiện nhất quán chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Hiến pháp 1992 của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam tiếp tục khẳng định “Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là Nhà nước thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam. Nhà nước thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc, nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, gìn giữ bản sắc dân tộc và phát huy những phong tục, tập quán, truyền thống tốt đẹp của mình. Nhà nước thực hiện chính sách phát triển về mọi mặt, từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số”. Trên thực tế, những năm qua Đảng, Nhà nước đã có nhiều nghị quyết, chính sách rất hợp lòng dân.

Cụ Nay Phin, một nhân sĩ có uy tín lớn trong đồng bào các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên nói: “Người Gia Rai cũng như các dân tộc khác ở Tây Nguyên, kể từ Cách mạng Tháng Tám năm 1945 mới thật sự biết mình có Tổ quốc. Hết Pháp đến Nhật, hết Nhật lại đến Pháp và Mỹ, tất cả đều dùng chính sách nô dịch với đồng bào các dân tộc. Đói ăn, đói mặc, đói chữ là đặc điểm chung của đồng bào các dân tộc dưới chế độ cũ. Không kể một số ít người làm trong bộ máy cai trị, hầu hết người dân đặc biệt là ở nông thôn đều mù chữ, có “anh” làm tới xã trưởng, quận trưởng cũng chỉ biết chữ ký. Còn bây giờ, dưới chính quyền cách mạng, có xã nào, thôn nào không có lớp học, trường học? Trẻ nhỏ bây giờ sáu, bảy tuổi cũng biết đọc, biết viết, sau đó cứ thế học lên tới đại học. Trường Đại học Tây Nguyên đấy, mỗi năm có tới hàng nghìn sinh viên, trong đó phần lớn là con em đồng bào các dân tộc Tây Nguyên theo học. Các dân tộc Tây Nguyên luôn nhớ ơn Đảng, Bác Hồ và Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam – Nhà nước của dân, do dân và vì dân”.

Ngay những người đã có một thời lầm lỗi như ông Ya Đác, người dân tộc Cơ Ho, đã từng giữ chức “Phó Thủ tướng đặc trách chính trị và ngoại giao” của FULRO, sau khi tỉnh ngộ về với nhân dân, khi là Phó Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc tỉnh Lâm Đồng đã phát biểu tại cuộc gặp mặt các đại biểu, nhân kỷ niệm 70 năm Mặt trận dân tộc thống nhất, tổ chức tại Hà Nội tháng 11 năm 2000: “Năm 1983 đánh dấu bước ngoặt quan trọng của đời tôi cả về nhận thức và hành động. Tôi càng thấm thía hơn về tư tưởng hòa hợp dân tộc, về chủ trương đại đoàn kết của Đảng Cộng sản Việt Nam, về tính ưu việt của chế độ ta, đất nước ta… Sự nghiệp đổi mới của đất nước 15 năm qua, với kết quả hiển nhiên qua thử thách theo thời gian và không gian đã đủ chứng minh là một đường lối phù hợp đặc điểm, trình độ thực tế của ta, được lòng dân và phù hợp với các xu thế mới. Hơn 70 triệu người Việt Nam có cuộc sống phong phú, đa dạng và có chung niềm tự hào là một dân tộc có nghìn năm văn hiến, chung một cội nguồn là con Lạc cháu Hồng, đang hướng về ngọn cờ đại nghĩa, chấp nhận điểm còn khác nhau để vượt qua mọi khó khăn, thử thách, xây dựng Tổ quốc Việt Nam”.

Một thực tế là, trong hệ thống chính trị của Việt Nam, đội ngũ cán bộ và trí thức người dân tộc thiểu số ngày càng tăng. Nhiều cán bộ là con em đồng bào dân tộc thiểu số trở thành những cán bộ giữ trọng trách trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, đoàn thể quần chúng và quân đội. Số đại biểu người dân tộc thiểu số trong Quốc hội chiếm 17,3%, là đại biểu hội đồng nhân dân tỉnh 14%, huyện 17%, xã là 19%… Nhìn chung vị trí chính trị-xã hội, đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số đã không ngừng được nâng cao, các vùng đồng bào dân tộc sinh sống đã được “thay da, đổi thịt” ngày một tốt đẹp hơn. Lấy Tây Nguyên làm ví dụ: Nếu trước đây người Gia Rai, Ba Na hàng năm thường thiếu gạo ăn, thậm chí có năm phải ăn củ rừng 4-5 tháng, thì nay đã chấm dứt tình trạng đói kinh niên. Tỷ lệ đói nghèo của tỉnh Gia Lai giảm từ 28% (năm 1998) xuống 16,8% (năm 2000). ở Tây Nguyên hiện nay, đường ô tô, điện lưới quốc gia đến trung tâm nhiều xã, có nhiều nơi đến tận buôn làng ở vùng sâu, vùng xa; nhiều gia đình có máy xay xát, xe máy, phương tiện nghe nhìn hiện đại. Tây Nguyên, một địa bàn hơn 3 triệu dân nhưng đã có tới gần hai chục trường đại học, cao đẳng, trung cấp dạy nghề, cùng hệ thống trường phổ thông rộng khắp, cơ bản xóa buôn làng “trắng” về giáo dục. Tại nhiều trường phổ thông, đặc biệt là các trường dân tộc nội trú, ngoài học chữ và tiếng phổ thông, các em còn được học tiếng và chữ viết của dân tộc mình.

Vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo, Việt Nam thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo pháp luật. Có thể nghe một số ý kiến của bà con giáo dân nói về họ thực hư ra sao.

Phối sư Thương Tam Thanh, Hội trưởng Hội đồng Chưởng quản Tòa Thánh Cao đài Tây Ninh viết trên báo Nhân dân 23-7-2003: “Từ trước đến nay, Nhà nước Việt Nam thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, tôn trọng tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của mọi người dân, tạo điều kiện thuận lợi cho tôn giáo nói chung, đạo Cao đài nói riêng, hoạt động. Chức sắc, chức việc, giáo dân được tự do hành đạo. Hằng năm, hai ngày lễ chính của đạo Cao đài: mồng 9 tháng Giêng Âm lịch và ngày rằm (15) tháng 8 Âm lịch luôn có hàng vạn tín đồ từ khắp nơi hành hương về Tòa thánh dự lễ. Mới đây, tháng 11-2002, Tòa thánh Cao đài Tây Ninh đã tổ chức thành công Đại hội Nhơn Sanh với hơn 3.000 đại biểu đại diện các họ đạo Cao đài tại 34 tỉnh, thành phố về dự. Tháng 10-2002, Đại hội Hội thánh Cao đài nhiệm kỳ 2002-2007 cũng được tổ chức thành công, bầu ra ban lãnh đạo mới.

Đời sống tinh thần, vật chất của tín đồ không ngừng được nâng lên. Hàng loạt cơ sở thờ tự được sửa chữa, xây mới khang trang. Những năm qua, Nhà nước Việt Nam đầu tư nhiều tiền của, công sức xây dựng các công trình điện, đường giao thông, trường học, trạm y tế, hệ thống thủy lợi phục vụ phát triển kinh tế-xã hội và đời sống dân sinh. Chương trình xóa đói, giảm nghèo, trợ vốn, cho vay vốn của Nhà nước đã và đang tạo điều kiện cho nhiều hộ đồng bào có đạo phát triển sản xuất, mở rộng chăn nuôi, có việc làm, ngành nghề mới, giúp nhiều hộ thoát đói, nghèo, không ít hộ vươn lên khá và giàu. Nhiều con em giáo dân Cao đài được học hành đến nơi đến chốn. Huyện Hòa Thành với hơn 90% số dân có đạo, là nơi có số bác sĩ, kỹ sư, giáo viên… cao nhất so với các huyện trong tỉnh, là điều minh chứng cho điều đó.

Nước nào cũng có luật pháp của mình. Pháp luật nước ta chỉ xử phạt, trừng trị những kẻ phá hoại, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, đi ngược lại lợi ích của nhân dân, gây mất đoàn kết trong cộng đồng, ảnh hưởng đến trật tự, trị an xã hội. ở Việt Nam không hề có cái gọi là tù nhân tôn giáo. Chỉ có những người tuy có đạo, cũng là công dân nhưng vi phạm pháp luật thì mới bị xử phạt. Đạo Cao đài không có tín đồ bỏ ra nước ngoài vì không được hoạt động tôn giáo.

Năm 1998, báo cáo viên đặc biệt của ủy ban Nhân quyền Liên hợp quốc lên thăm Tòa thánh Cao đài Tây Ninh cũng phải thừa nhận ở Việt Nam không hề có sự bài xích, ngăn cản, đàn áp tôn giáo Cao đài. Gần đây ngày 28-2-2003, Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam, ngài Ray-mơn Bớc-hát và Tổng lãnh sự Hoa Kỳ tại thành phố Hồ Chí Minh lên thăm Tòa thánh, tiếp xúc với tín đồ Cao đài, tận mắt chứng kiến sự đổi thay đi lên của xứ đạo, đã ghi vào sổ lưu niệm: “… Thật tuyệt vời khi tôi thấy những tín đồ hoạt động trong niềm tin của họ…”. Nếu không phải là hiện thực rõ ràng như vậy, hẳn các vị đó đã không thừa nhận và nhận xét như thế”.

Mục sư Siu Kim, thành phố Plei Ku trả lời phỏng vấn trên báo Hà Nội Mới ngày 20-2-2002 như sau: “Chuyện cấm theo đạo Tin lành ở Gia Lai là hoàn toàn không có. Nếu như trước những năm 80, số người theo đạo Tin lành ở Gia Lai mới chỉ có khoảng 3 nghìn người thì nay cả tỉnh có tới hàng chục nghìn người. Nếu nói chính quyền địa phương cấm thì làm sao có thực tế số người theo đạo lại tăng? Chi hội của tôi có 370 tín đồ, trung bình một tuần chúng tôi cầu nguyện 3 lần vào sáng chủ nhật, tối thứ tư và thứ sáu, mỗi lần có gần 200 tín đồ. Việc kẻ xấu đưa tin: người theo đạo bị chính quyền ép buộc từ bỏ đạo, bị đốt nhà thờ là bịa đặt, hoàn toàn không có. Tôi thấy đa phần số người theo đạo Tin lành vượt biên vừa rồi là bị kẻ xấu dụ dỗ, xúi giục. Những người theo đạo thuần khiết và có đức tin thì sẽ không bao giờ bỏ đi. Với những tín đồ lầm lỡ khi quay về, chúng tôi vẫn đối xử bình thường như những người ở nhà. Chính quyền luôn tạo điều kiện cho những người theo đạo tin lành, bình đẳng như các đạo khác trong tỉnh”.

“Bức tranh” về dân tộc thiểu số và tôn giáo ở Việt Nam là thế đấy. Nào đâu nó có giống cái cảnh “ảm đạm” mà ông C.Xmít và cộng sự của ông ngồi tít tận bên kia bờ đại dương tự nghĩ và tự vẽ ra đâu. Có lẽ ông C.Xmít và cả các nghị sĩ Mỹ khác nên nghe nhận xét và lời khuyên của ông đồng Giám đốc Trung tâm dữ liệu tổ chức phi chính phủ Việt Nam Đa-vít Pay-nơ: “Thời gian gần đây, một số nghị sĩ Mỹ đã đến Việt Nam và đã có cái nhìn khác về Việt Nam. Tôi nghĩ rằng, cần có thêm nhiều nghị sĩ khác đến Việt Nam để có cái nhìn khách quan hơn nữa đối với Việt Nam”./.

Trần Mô
cpv.org.vn

Thói giả nhân, giả nghĩa của những kẻ đội lốt “chí sĩ yêu nước” thời nay

Thời kỳ cách mạng Việt Nam còn trứng nước và chính quyền cách mạng còn non trẻ, đã có không ít kẻ giả danh “chí sĩ yêu nước” để chống phá cách mạng. Sau này, chính quyền độc tài Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu – tay sai của đế quốc Mỹ – cũng luôn xưng là những người yêu nước, có tinh thần dân tộc!

Nhưng, đám người ấy “yêu nước” thế nào thì đã rõ.

Thời nay, được sống trong hòa bình, được học hành tử tế, thay vì phải báo ơn,  phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, một số người lại tìm mọi cách hại dân, hại nước, nhưng miệng luôn nói mình vì nước, vì dân. Người ta gọi đó là những kẻ đội lốt “chí sĩ yêu nước”.

Hãy xem họ “yêu nước” thế nào?

Lợi dụng sự phát triển đa dạng của các phương tiện truyền thông, đặc biệt là tính chất tương tác nhanh chóng của các trang mạng xã hội, không ítkẻ đội lốt “chí sĩ yêu nước” đã đua nhau đánh bóng tên tuổi của mình trên in-tơ-nét hoặc thông qua các tác phẩm sách báo và các ấn phẩm băng, đĩa để chống phá Nhà nước Việt Nam. Hầu hết tác giả của những tác phẩm, ấn phẩm sặc mùi phản động này đều coi mình là yêu nước! Thật nực cười, họ còn tôn vinh nhau và coi nhau là những người “trọng đạo lý, cận nhân tình, có văn hóa, biết nghĩ đến vận mệnh dân tộc”! Vài người trong số đó còn được giới cùng hội cùng thuyền tung hô như những “người hùng”, “thiên tài” thời mới! Trơ trẽn hơn, có ý kiến lập luận “đáng ra ông này, bà nọ phải nằm trong danh sách đề cử giải Nô-ben về hòa bình”. Được thể, những tưởng mình là vĩ đại thật, những “người hùng” liền phán xét lịch sử…, rằng Hồ Chí Minh chỉ là người gặp thời, rằng Cách mạng Tháng Tám là ăn may, rằng Việt Nam chọn con đường bạo lực cách mạng là sai lầm, và rằng cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ của dân tộc ta là hiếu chiến, vô nghĩa. Cũng xin nói thêm, khi diễn đạt các quan điểm về chính trị nông nổi, cảm tính, thậm chí bệnh hoạn của mình, không ít “chí sĩ yêu nước” còn dùng những lời lẽ đạt đến cùng của sự dung tục, trơ trẽn và lố bịch. Họ “yêu nước” như vậy đấy!

Cả thế giới đều biết, trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, Quân đội Mỹ đã trút lên đầu mỗi người dân Việt Nam 45,5 ki-lô-gam bom đạn, nhốt đồng bào miền Nam vào 8.000 ấp chiến lược (thực chất là các trại tù tập trung), ném xuống lãnh thổ Việt Nam trên 80 triệu lít chất độc hóa học… Chỉ riêng lượng chất độc khổng lồ này, Mỹ đã giết chết hàng triệu người Việt Nam và đẩy hàng triệu người khác vào cảnh phơi nhiễm chất độc da cam/đi-ô-xin. Phải chăng đó không phải là tội ác? Và, chừng đó thôi cũng đủ thấy Mỹ là thế lực thù địch chống lại các quyền con người có quy mô lớn nhất trong lịch sử thế giới đương đại. Ấy thế mà, là người mang dòng máu Việt, lẽ ra phải đấu tranh cho dân chủ, nhân quyền chân chính; đằng này, những người đội lốt yêu nước lại cố tình hà hơi tiếp sức cho các thế lực từ bên ngoài chống Việt Nam. Như những con thiêu thân, các vị này lao vào viết lách, phát tán hàng trăm tài liệu xuyên tạc, vu cáo Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền, đàn áp tôn giáo, bắt người vô cớ, v.v. Đã thiếu cái tâm, lại tự phụ, các “chí sĩ” luôn lên giọng hợm mình, kẻ cả và luôn đặt mình đứng trên mọi người, đứng trên pháp luật. Trong “định hướng đấu tranh”, họ xác định: “Nếu vì yêu nước mà phải vượt chút hàng rào (luật, dưới luật) thì cũng đáng vượt lắm chứ sao”. Nhưng rồi, sau đó khi có hành vi vi phạm pháp luật, bị pháp luật trừng trị thì họ lại lu loa Việt Nam mất dân chủ, vi phạm quyền con người.

Đó là sự ngang ngược đầy mâu thuẫn. Hành động của các vị kia đã góp phần khiến cho không ít tổ chức, cá nhân ở Mỹ và châu Âu có cái nhìn sai lệch về dân chủ, nhân quyền, tôn giáo, dân tộc ở Việt Nam. Lẽ nào, đó cũng là một biểu hiện “yêu nước”?

Còn nữa. Nhiều “chí sĩ” đã so sánh mình với Nguyễn Trãi, Hồ Chí Minh, Mác, Lê-nin… với những lời lẽ cực kỳ thô thiển. Kể cũng lạ! Họ tiếng là kẻ “học nhiều” mà ít chữ, mà quên mất câu nói của người xưa, rằng Đừng thấy bóng mình in to trên vách mà tưởng mình vĩ đại. Họ còn “chân tình khuyên” Đảng Cộng sản Việt Nam hãy “tha cho Mác” và hãy “lấy cái hay của CNTB cộng với cái hay của CNXH để hình thành con đường thứ ba!”. Không chỉ phát tán tin bài nhảm nhí, gần đây, những kẻ đội lốt “chí sĩ yêu nước” còn khai thác triệt để một số vấn đề nhạy cảm liên quan đến tình hình trên Biển Đông để xuyên tạc đường lối, chính sách đối nội, đối ngoại của Đảng và Nhà nước; làm giảm uy tín của Đảng. Với khẩu hiệu “dân tộc còn thì lòng yêu nước còn”, họ đã khéo sử dụng thủ đoạn thâm hiểm: dùng luận điểm đúng đắn để lừa mị dân và để che dấu âm mưu đen tối. Bên cạnh đó, họ còn cổ xúy “biểu tình là nét đẹp về lòng yêu nước của người Hà Nội” để đánh đồng khái niệm văn hóa, khái niệm cái đẹp của người Hà Nội với hành động gây rối, vi phạm pháp luật. Đó là những “chiêu” mới của một âm mưu cũ mà những kẻ đội lốt “chí sĩ yêu nước” đang tìm cách “đục nước béo cò”; từ đó, kích động, chia rẽ nhân dân với Đảng và Nhà nước; kích động chủ nghĩa dân tộc; chia rẽ tình đoàn kết giữa các quốc gia có cùng lợi ích trên Biển Đông, gây mất ổn định chính trị xã hội, cản trở quá trình phát triển trong hòa bình của đất nước. Nói ngắn gọn, họ cố tình đi ngược lại lợi ích của quốc gia, dân tộc. Một lần nữa, chúng ta thấy họ “yêu nước” như vậy đó.

Ai cũng biết công lao trời bể của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với dân tộc Việt Nam. Sự đóng góp to lớn của Người đối với sự tiến bộ của nhân loại thì cả thế giới cũng đều biết. Rất nhiều, rất nhiều người nước ngoài, thậm chí có cả không ít người từng tham chiến trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, đã viết về Người với thái độ ngưỡng mộ và khâm phục đặc biệt. Vì thế, những ai cố tình hạ thấp hình ảnh của Người, vô hình trung chỉ càng làm cho nhân dân hiểu thêm về tâm địa đen tối của họ mà thôi. Còn, Cách mạng Tháng Tám thành công là do ăn may ư? Không! Trên cơ sở phân tích đúng đắn so sánh lực lượng và thời cơ cách mạng; cùng với sự dày công chuẩn bị cả về tinh thần và lực lượng từ trước đó nhiều năm với quyết tâm “Dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”; để khi thời cơ đến, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kịp thời lãnh đạo toàn dân chớp thời cơ tiến hành thành công cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám vĩ đại. Các vị “chí sĩ” trên đã cố tình quên đi điều đó. Nhân đây, cũng cần nhắc lại rằng, cuộc đấu tranh hơn mười nghìn ngày, với hai cuộc chiến đầy gian khổ, hy sinh của dân tộc ta là cuộc đấu tranh chính nghĩa để bảo vệ nền độc lập. Chúng ta không hề đưa quân sang xâm lược nước Pháp, nước Mỹ, chém giết người Pháp, người Mỹ. Trái lại, chỉ có Quân đội Pháp, Quân đội Mỹ xâm lược Việt Nam và bè lũ tay sai sát hại đồng bào Việt Nam. Không còn cách nào khác, chúng ta buộc phải đứng lên để chống lại những kẻ nô dịch dân tộc mình, để giành lấy quyền cơ bản nhất của con người: quyền được sống trong tự do và độc lập. Đó là những sự thật hiển nhiên không ai có thể chối cãi được.

Vậy tại sao những “chí sĩ yêu nước” kia – những người lẽ ra phải đội ơn công sức, xương máu của các thế hệ đã mang lại cho mình cuộc sống hòa bình hôm nay – lại quay lại phỉ báng chính dân tộc mình? Họ kém cỏi về nhận thức hay ngộ nhận về lòng yêu nước? Không, họ hiểu cả. Nhưng họ rắp tâm chống lại nhân dân. Trên thực tế, họ là “những cánh tay nối dài ma quái” của các thế lực thù địch, với mục tiêu không thay đổi là xóa bỏ CNXH trên mọi phương diện.

Dân ta có câu: con cái không chê bố mẹ nghèo. Suy rộng ra, đối với một dân tộc cũng vậy. Huống hồ, đây lại là những kẻ phỉ báng dân tộc. Người nào mà phỉ báng chính dân tộc mình, người nào mà phỉ báng chính người đã cứu mình, hơn nữa, lại đội lốt “chí sĩ yêu nước”, chỉ có thể nói đó là kẻ tàn phế về tinh thần.

Bất chấp vết thương chiến tranh, bất chấp sự bao vây cấm vận nghiệt ngã của Mỹ sau chiến tranh, Việt Nam vẫn đứng lên mạnh mẽ. Bất chấp chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, chế độ XHCN ở Việt Nam vẫn đứng vững hơn bao giờ hết. Công cuộc Đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo trong 25 năm qua đã đạt được những thành tựu quan trọng, có ý nghĩa lịch sử. Nổi bật trong các thành tựu là đến nay, nước ta đã gia nhập nhóm nước đang phát triển có mức thu nhập trung bình. Nhưng ngay ở những thành tựu tưởng rất bình thường, trên thực tế, chúng vẫn mang những giá trị nhân văn sâu sắc rất xứng đáng được ghi nhận. Việc Việt Nam phổ cập trung học cơ sở trong phạm vi cả nước vào năm 2010, việc Việt Nam đạt chỉ số HDI (chỉ số phát triển người) tương đương quốc gia có mức thu nhập GDP bình quân đầu người gấp ba lần mình, là hai thành tựu gây ấn tượng mạnh mẽ đối với quốc tế. Điều đó, chẳng những phản ánh quyết tâm, nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, mà còn thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội mà chúng ta đang xây dựng. Những việc làm ấy đã được các tổ chức quốc tế đánh giá cao và khẳng định Việt Nam là quốc gia thành công tiêu biểu về thực hiện các Mục tiêu Thiên niên kỷ của Liên hợp quốc. Nhiều nhà hoạt động xã hội, nhiều chính khách ở các quốc gia thuộc hệ thống thứ ba tới thăm đất nước ta đã bày tỏ lòng khâm phục và đều mong một ngày kia đất nước họ cũng làm được những việc như Việt Nam đã làm. Đó lại là một sự thật hiển nhiên nữa.

Nhìn nhận về sự thật này, ông Xau-va-rốt, cựu đại tá Mỹ, người có nhiều năm ở Việt Nam, đã đánh giá: “Sự thành công của Việt Nam sau khi đã là nạn nhân của quá nhiều cuộc xâm lược gần như chỉ có thể dùng hai từ “phép lạ” để miêu tả. Cho tới thời điểm này (tháng 7-2011), người ta không thể tìm thấy dấu vết nào của đất nước từng bị chiến tranh tàn phá trước kia. Việt Nam phát triển nhanh và vững chắc. Kinh tế ổn định, có quan hệ thương mại với nhiều nước, khoa học, công nghệ bắt kịp với tốc độ của thế giới…”. Ông khẳng định: “Chính sự cần cù, tháo vát và thông minh – đức tính nổi bật của dân tộc Việt Nam và những quyết định đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam đã tạo nên những phép lạ đó”.

Ấy vậy mà các “chí sĩ yêu nước” nói trên vẫn luôn tìm mọi cách hạ thấp, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng. Họ thổi phồng những sai lầm, thiếu sót của Đảng để cố chứng minh rằng Đảng Cộng sản Việt Nam không có khả năng lãnh đạo đất nước. Họ hô hào nhân dân “chấm dứt vai trò lịch sử của Đảng”. Họ trịch thượng đòi “loại trừ Đảng ra khỏi tiến trình phát triển của dân tộc” và đòi thực hiện cái gọi là “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập ở Việt Nam”, v.v và v.v.

Nhưng, dù có la lối đến mấy, dù có nhào nặn và dựng chuyện đến mấy, những vị đội lốt yêu nước thời nay vẫn không sao phủ nhận được vai trò lãnh đạo của Đảng. Họ cũng không thể lừa gạt được nhân dân, không thể chia rẽ nhân dân với Đảng, bởi nhân dân ta rất tinh tường. Nhân dân hiểu ai mới là người mang lại lợi ích cho mình. Nhân dân hiểu, người đã mang lại tự do, độc lập cho dân tộc, người đã mang lại hòa bình, mang lại cuộc sống ấm no cho nhân dân, thì trong tương lai, người đó đủ khả năng dẫn dắt dân tộc, người đó cần và phải tiếp tục sứ mệnh lãnh đạo đất nước, đưa đất nước đến phồn vinh. Không ai khác, người đó chính là Đảng Cộng sản Việt Nam. Vậy nên, dù có đội lốt thế nào đi nữa, thì thói giả nhân, giả nghĩa của những kẻ cố tình hại dân, hại nước, sớm muộn cũng bị phơi bày. Và, mưu toan phủ nhận vai trò của Đảng, xóa bỏ Đảng và xóa bỏ chế độ xã hội XHCN ở Việt Nam của các thế lực thù địch sẽ không bao giờ thực hiện được vì mưu toan xấu xa, phản động ấy đã chứa đựng yếu tố thất bại ngay từ lúc nó hình thành. Nói một cách khác, kẻ “gieo gió” ắt phải “gặt bão”.

ĐỨC LÊ
tapchiqptd.vn

Một việc làm không vì tự do dân chủ

Tổ chức phi chính phủ chuyên cổ động và truyền bá tự do dân chủ có tên gọi Freedom House (FH), vừa công bố bản phúc trình về tình hình tự do trên toàn cầu, với những đánh giá thiếu khách quan, sai trái.

Freedom House nói rằng bảng xếp hạng về mức độ tự do dân chủ của các nước là kết quả nghiên cứu về các quyền chính trị cũng như dân sự mà người dân ở nhiều nước trên thế giới được hưởng, trong suốt 30 năm qua, từ năm 1973 đến nay.

Theo đó, tổ chức này xếp Mỹ và một số nước phương tây khác đứng đầu danh sách các quốc gia mà họ cho là “hoàn toàn có tự do” trong suốt hơn 1/4 thế kỷ vừa qua. Còn Việt Nam và một loạt nước châu Á bị coi là các quốc gia không có tự do. Thậm chí họ còn cho rằng, kể từ năm 1975 đến nay, nghĩa là sau chiến thắng lịch sử của quân và dân Việt Nam ngày 30/4/1975, đánh thắng đế quốc Mỹ, thống nhất đất nước, người dân còn không được thụ hưởng đầy đủ các quyền tự do về chính trị và dân sự. Đây là những đánh giá phi lý và không thể được gọi là kết quả nghiên cứu thực tiễn sâu sắc – như tổ chức này mô tả.

Làm sao Tổ chức này có thể coi Mỹ là nước có tự do nhất, khi trong suốt 10 năm qua, đặc biệt hai năm gần đây, chính quốc gia này đã vi phạm thô bạo nhất các quyền dân sự và chính trị của người dân. Kết luận này do chính báo Bưu điện Washington – tờ báo có lượng độc giả lớn nhất ở Mỹ đưa ra. Theo đó, năm 2008, Mỹ đã áp dụng việc kiểm tra sâu – một công nghệ theo dõi hoàn toàn mới, có thể ghi lại mọi trang web đã truy cập, mọi thư điện tử đã gửi và mọi thông tin tìm kiếm trực tuyến. Thống kê cho thấy, ít nhất hàng trăm nghìn người sử dụng Internet ở Mỹ đã bị theo dõi và Cục điều tra Liên bang Mỹ (FBI) được phép theo dõi, lưu giữ nội dung các cuộc điện thoại, thông tin tài khoản ngân hàng và các thông tin cá nhân của người dân. Thậm chí, cựu Tổng thống George W. Bush còn ký một đạo luật cho phép chính phủ nghe lén các cuộc liên lạc quốc tế của công dân nước họ.

Đông đảo phật tử, du khách bốn phương về dự lễ Phật đản 2008 – PL 2552

Còn ở Việt Nam, tự do mà mọi người dân Việt Nam đang được hưởng, chính là niềm vui, hạnh phúc, khi được sống học tập và làm việc trong đất nước thanh bình, được phụng sự Tổ quốc ngày càng vững mạnh và phát triển. Những quyền về tự do chính trị và dân sự của người dân đã được ghi vào Hiến pháp đầu tiên cách đây hơn 60 năm và được bổ sung hoàn thiện trong Hiến pháp 1992. Theo đó, mọi công dân Việt Nam, không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp…. đều được quyền bầu cử và ứng cử vào Quốc hội theo qui định của pháp luật, được quyền tham gia trực tiếp và gián tiếp vào công việc quản lý nhà nước, như quyền được biết, được bàn, được làm và được kiểm tra, giám sát…

Trong những năm gần đây, người dân Việt Nam còn có quyền tự do kinh doanh – một quyền mới qui định trong Hiến pháp, nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, tạo tiền đề quan trọng cho việc thực thi dân chủ và quyền con người. Nói về tự do ở Việt Nam, ông Leland Yee, Phó Chủ tịch Hạ viện bang California, khi tới thăm Việt Nam đã tâm sự rằng: “Tôi đã được tận hưởng cảm giác tự do, khi tôi đi thăm Hà Nội. Tôi thấy người Việt Nam được làm những gì họ muốn. Tôi đã thấy một Việt Nam của tự do”.

Nếu Freedom House tiến hành khảo sát nghiêm túc về tình hình tự do dân chủ toàn cầu, chắc chắn không thể bỏ qua những thực tế sống động đó ở Việt Nam. Cũng như Tổ chức này – có trụ sở đặt ngay tại thủ đô Washington, cũng không thể bỏ qua những hành vi vi phạm các quyền chính trị, dân sự của chính quyền Mỹ. Nhưng việc họ bỏ qua tất cả những việc làm cần thiết đó, đã cho thấy, việc xếp hạng về mức độ quyền tự do chính trị, dân sự ở các nước trên thế giới, hoàn toàn không vì tự do, dân chủ cho các quốc gia trên thế giới.

Bà Anny Wong – chuyên viên phân tích chính trị làm việc cho tổ chức này, cho biết, câu hỏi chính mà Freedom House đặt ra trong mục về Việt Nam và một số nước XHCN khác là “công dân nước đó có khả năng thay đổi hệ thống chính trị Nhà nước một cách dân chủ hay không. Chính hệ thống chính trị hiện nay ở Việt Nam, là nguyên nhân khiến quốc gia này bị điểm thấp trong bảng xếp hạng…”.

Rõ ràng, sự vững mạnh của hệ thống chính tri, đất nước ổn định, kinh tế phát triển, chính là nền tảng làm cho các thế lực thù địch thất bại trong mọi âm mưu chống phá Việt Nam. Và những hành động kiểu như xếp hạng tự do dân chủ, hay nhân quyền của Freedom House, cũng như của một số tổ chức khác đều chỉ nhằm phục vụ cho những lực lượng lợi dụng nhân quyền nhằm can thiệp công việc nội bộ, vi phạm chủ quyền và quyền tự quyết của các quốc gia và dân tộc trên thế giới./.

Vân Hương
vov.vn

Vấn đề nhân quyền ở Việt Nam và sự vu khống bịa đặt

Có thể nói, nhân quyền là cái vốn có của nhân loại, nhưng nó đã bị biến dạng và thui chột đi từ khi xã hội loài người phân chia thành giai cấp. Do vậy, nhân loại vừa phải xây dựng, vừa phải tiếp tục đấu tranh để giành lại quyền thiêng liêng cơ bản của mình. Cho nên, nhân quyền là thành quả xây dựng và đấu tranh lâu dài của loài người, của nhân dân lao động qua các thời đại lịch sử và nó là kết tinh giá trị nhân văn của nhân loại.

Trong xã hội phân chia giai cấp thì quyền con người bao giờ cũng mang tính giai cấp sâu sắc. Trong xã hội nô lệ, người nô lệ không bao giờ được hưởng quyền con người ; họ chỉ được coi như là một công cụ lao động biết nói mà thôi. Trong xã hội phong kiến, quyền con người cũng còn tuỳ thuộc theo đẳng cấp và thang bậc xã hội. Hệ thống đặc quyền, đặc lợi theo đẳng cấp chủ yếu phục vụ cho vua chúa, quan lại được pháp luật phong kiến bảo vệ.

Cách mạng dân chủ tư sản do giai cấp tư sản lãnh đạo, nêu khẩu hiệu “tự do, bình đẳng, bác ái” được quần chúng ủng hộ và đã giành thắng lợi. Chế độ tư bản chủ nghĩa ra đời đã mang đến cho con người từ tư sản đến thợ thuyền, dân cày… những quyền tự do thân thể, tự do buôn bán làm ăn, tự do bán sức lao động của mình. “Tuyên ngôn độc lập” của nước Mỹ, năm 1776, và bản “Tuyên ngôn về quyền con người và quyền công dân” của nước Pháp, năm 1789, đều tuyên bố : “Tất cả mọi người sinh ra đều bình đẳng, tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được ; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc…”.

Đó là thành tựu vĩ đại qua nhiều thiên niên kỷ đấu tranh của loài người, là bước phát triển nhảy vọt của nền văn minh nhân loại. Tuy nhiên, chế độ tư bản chủ nghĩa với quá trình phát triển lớn mạnh của nó lại là sự phủ định, chà đạp những thành tựu về nhân quyền phổ biến mà chính cách mạng tư sản đã đem lại.

Lẽ nào sự cướp đoạt đối với nông dân theo kiểu “cừu ăn thịt người” biến họ thành những người cùng cực, như ở nước Anh lại là sự tôn trọng nhân quyền? Lẽ nào bọn thực dân, đế quốc đem quân đi xâm chiếm thuộc địa và thị trường, cướp bóc tài nguyên, giết hại những người dân vô tội ở các nước đó là sự tôn trọng nhân quyền?

Trong tác phẩm “Bản án chế độ thực dân”, Chủ tịch Hồ Chí Minh dẫn lời của một người Pháp rằng : Khi đặt chân đến đây tất cả những người Pháp đều nghĩ rằng người Việt Nam là hạng người thấp kém và phải làm nô lệ cho họ. Họ coi người Việt Nam như những súc vật phải điều khiển bằng roi vọt. Tất cả đều tự coi mình thuộc đẳng cấp quý tộc mới có đặc quyền, đặc lợi. Và Người kết luận : Thế mà 80 năm nay bọn thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta, hành động của chúng trái với nhân đạo và chính nghĩa.

Là một dân tộc đã từng bị chủ nghĩa thực dân cũ và mới xâm lược, áp bức, bóc lột, đã tự mình vươn lên đấu tranh giành lại chủ quyền dân tộc, quyền con người, hơn ai hết, chúng ta hiểu sâu sắc rằng, quyền con người là thành quả đấu tranh lâu dài của nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức trên thế giới. Và chỉ khi nào giành được độc lập dân tộc, dân chủ, tự do, quyền dân tộc tự quyết được tôn trọng, thì dân tộc mới được hưởng những quyền cơ bản của con người.

Nước ta là nước độc lập, thống nhất có chủ quyền, Nhà nước ta đã luôn chú trọng việc chăm lo hạnh phúc con người và quyền cơ bản của con người, tạo điều kiện cho mọi người vươn lên làm chủ vận mệnh của mình, làm chủ công việc của mình và tham gia các công việc của xã hội. Hiến pháp và nhiều đạo luật đã ghi nhận và thể chế hóa các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa – xã hội. Hiến pháp năm 1992 đã quy định rõ các quyền và nghĩa vụ công dân, mở rộng quyền công dân và quyền con người, như quyền sở hữu, quyền sử dụng tư liệu sản xuất, quyền tự do kinh doanh hợp pháp, quyền tự do thảo luận, tranh luận phát biểu ý kiến nhằm xây dựng đất nước… Mọi công dân có quyền tham gia ứng cử, bầu cử theo luật định, tham gia giám sát và kiểm tra các hoạt động của cơ quan nhà nước, v.v..

Tất cả những quyền đó đã được thực hiện trên thực tế và được bảo vệ bằng những chính sách, pháp luật của Nhà nước. Chúng ta không ảo tưởng sớm có ngay một xã hội hoàn toàn tốt đẹp, mọi người đều được chăm lo đầy đủ về mọi mặt và quyền con người, trong khi kinh tế, văn hóa – xã hội phát triển chưa mạnh, mặt bằng dân trí còn nhiều hạn chế, trình độ khoa học – kỹ thuật và công nghệ chưa cao, năng suất lao động thấp. Bởi lẽ, chúng ta quan niệm quyền con người là khách quan vốn có của mỗi người, thế nhưng nó luôn gắn liền với lịch sử truyền thống và phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội của một quốc gia, dân tộc nhất định.

Chế độ chính trị, trình độ phát triển kinh tế, văn hóa – xã hội của một quốc gia, dân tộc là phương thức tồn tại, phát triển của con người hiện thực, quyền con người hiện thực. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là phải chờ đến khi kinh tế, văn hóa – xã hội phát triển mới chăm lo đến hạnh phúc con người, quyền con người. Công cuộc đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo là một quá trình kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, chăm lo đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần của nhân dân…

Trước hết chú trọng giải quyết vấn đề nền tảng kinh tế – xã hội, chăm lo y tế, giáo dục – đào tạo, nâng cao trình độ dân trí ; làm cho mọi người đều hiểu rõ quyền mưu cầu hạnh phúc của mình, đồng thời mưu cầu hạnh phúc cho mọi người. Những nhu cầu thiết yếu của nhân dân về ăn, ở, mặc, chăm sóc sức khỏe, nước sạch, điện sinh hoạt, học tập, đi lại, giải trí… được đáp ứng tốt hơn. Ở nước ta, mỗi năm có 1,2 triệu lao động có việc làm mới. Công tác xóa đói, giảm nghèo trên phạm vi cả nước đạt kết quả nổi bật, được dư luận thế giới đánh giá cao.

Các phong trào “uống nước nhớ nguồn”, “đền ơn đáp nghĩa”, chăm sóc các lão thành cách mạng, người có công với nước đã thu hút sự tham gia của các tầng lớp nhân dân, các cơ quan, đoàn thể và các doanh nghiệp. Toàn dân đã tích cực đóng góp tiền của, công sức cứu trợ đồng bào các vùng bị thiên tai ; tham gia nhiều hoạt động nhân đạo – từ thiện giúp đỡ những người bị ảnh hưởng chất độc màu da cam, người tàn tật, người già không nơi nương tựa và trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn.

Các quyền cơ bản của công dân, trong đó có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, biểu tình, lập hội, tự do tín ngưỡng tôn giáo và không tín ngưỡng tôn giáo được Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước ta bảo đảm, tôn trọng và thực hiện trên thực tế. Nhà nước ta bảo hộ nơi thờ tự của các tôn giáo. Chùa chiền, nhà thờ bị chiến tranh hoặc thiên tai tàn phá được sửa chữa hoặc xây dựng mới. Mọi công dân Việt Nam đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trước Hiến pháp và pháp luật.

Thế nhưng, vừa qua một số thế lực trong Hạ Nghị viện Hoa Kỳ thiếu thiện chí với Việt Nam, mà đại diện là ông C. Xmít và những người đồng tác giả với ông, đưa ra cái gọi là “Dự luật Nhân quyền Việt Nam 2003” để Hạ Nghị viện Hoa Kỳ xem xét và phê chuẩn.

Trong cuộc họp báo công bố ý đồ trên, ông C.Xmít đã xuyên tạc trắng trợn tình hình nhân quyền ở Việt Nam, nào là “Việt Nam là đất nước thực thi chính sách đàn áp, phân biệt đối xử, đe dọa bỏ tù những người bất đồng chính kiến”; nào là “Chính phủ Việt Nam chẳng những đàn áp những người công khai phản đối chính sách tự do tôn giáo mà cả gia đình họ”… Ông C. Xmít và những người đồng tác giả với ông muốn thứ nhân quyền kiểu gì mà đưa ra yêu cầu đòi “tự do chống đối”, “tự do thay đổi chính phủ, thay đổi chế độ” ?… Rõ ràng, đây là một dự luật nhân quyền phi nhân quyền, bởi lẽ nó dựa trên những tư liệu sai lệch, xuyên tạc, bóp méo sự thật ở Việt Nam với những dụng ý xấu.

Xin trích lời của nhà bình luận B. Ra-đô Lê-ry đăng trên báo “Nước Mỹ ngày nay”, ngày 10-4 : “Tôi đã đọc bản báo cáo nhân quyền của Bộ Ngoại giao và tôi phải nói rằng những nghị sĩ ủng hộ bản báo cáo này không biết một chút gì về những tiến bộ đang diễn ra ở Việt Nam. Quốc hội Việt Nam đang đóng một vai trò ngày càng độc lập như là một diễn đàn để thể hiện các mối lo ngại của các cấp chính quyền địa phương và cũng là phê bình tình trạng tham nhũng và tính không hiệu quả tại các địa phương và trên toàn quốc.

Hằng năm, Nhà nước Việt Nam đã ra lệnh ân xá cho hàng nghìn tù nhân. Chính phủ đã phối hợp với tổ chức lao động thế giới để cải thiện việc thực hiện Bộ luật Lao động hiện hành… Chính phủ cũng cho phép dân chúng được tiếp cận với mạng In-tơ-nét và đã cho phép 4 000 quán cà-phê được bắt đầu kinh doanh độc lập. Chính phủ cũng cho phép mọi người dân được tự do thờ cúng theo những tôn giáo mà họ lựa chọn, việc tham gia các hoạt động tôn giáo trên toàn quốc đang tiếp tục tăng lên đáng kể. Chính phủ đã chính thức công nhận đạo Phật, đạo Thiên Chúa, Tin Lành, Hòa Hảo, Cao Đài…

Đề cập đến cái gọi là “sự đàn áp tôn giáo”, tôi là một người theo đạo Thiên Chúa và mỗi lần tôi đến Thành phố Hồ Chí Minh đều đến nhà thờ Đức Bà để làm lễ. Do có quá nhiều người đi lễ nhà thờ như tôi, vì vậy tôi phải đến nhà thờ từ sớm mới có chỗ… Số người theo tôn giáo đang ngày càng tăng lên ở Việt Nam. Trên thực tế ở Việt Nam tôi hiếm khi gặp một người nói rằng họ không theo đạo, rằng không có bàn thờ tại nhà để thờ cúng Tổ tiên hoặc thờ Phật…”.

Đó là thực tế tình hình ở Việt Nam mà ông B. Ra-đô Lê-ry đã mắt thấy, tai nghe và ghi lại. Vậy tại sao ông C. Xmít và những người đồng tác giả với ông lại cố tình nhắm mắt bịt tai, tuỳ tiện đưa ra những điều phi lý trong cái gọi là “Dự luật Nhân quyền Việt Nam 2003”.

Đây phải chăng là những mưu toan của các thế lực thù địch và những người thiếu thiện chí với Việt Nam ở Mỹ, hòng tạo ra cơ sở, chỗ dựa cho những kẻ mà ông C. Xmít phong cho là “Chiến sĩ đấu tranh cho nhân quyền Việt Nam” nuôi dưỡng tư tưởng và lực lượng chống đối từ bên trong, kết hợp với áp lực của Mỹ dựa trên cái gọi là “Dự luật Nhân quyền Việt Nam”.

Việc làm này thật sự là một hành động can thiệp thô bạo vào công việc nội bộ của Việt Nam, cố tình xuyên tạc sự thật, đi ngược lại tiến trình cải thiện quan hệ giữa hai nước. Hơn nữa, đây cũng lại là điều hoàn toàn không phù hợp với đạo lý khi nước Mỹ vốn đã từng vi phạm thô bạo nhất những quyền cơ bản của nhân dân Việt Nam trước đây, nay lại phán xét, rao giảng nhân quyền Việt Nam, trong khi đó thì ngay trên nước Mỹ nhân quyền đang bị vi phạm nghiêm trọng.

Minh chứng rõ nhất là, ngày 3-4-2003 vừa qua, Văn phòng Báo chí Quốc Vụ viện Trung Quốc đã công bố báo cáo “Những kỷ lục nhân quyền của Mỹ năm 2002”. Báo cáo gồm tám phần : “Cuộc sống và thân thể người dân thiếu bảo đảm an toàn” , “Quyền con người bị xâm phạm nghiêm trọng”, “Nền dân chủ dưới sự thao túng của đồng tiền”, “Những người nghèo khổ không nhà cửa ở Mỹ”, “Tình trạng phụ nữ, trẻ em khiến mọi người lo ngại”, “Kỳ thị chủng tộc ăn sâu bám rễ trong xã hội Mỹ”, “Xâm phạm thô bạo nhân quyền của nước khác”, “áp dụng tiêu chuẩn hai mặt trên lĩnh vực nhân quyền quốc tế”. Từng phần đều có dẫn chứng cụ thể chứng minh sự vi phạm nhân quyền trên đất Mỹ. Hiện nay, với luận điểm “quyền con người cao hơn chủ quyền”, “quyền con người không biên giới”, Mỹ và một số nước phương Tây tự cho mình cái quyền can thiệp vào nội bộ các nước, dưới chiêu bài cái gọi là “can thiệp nhân đạo”, vì sự “phát triển dân chủ” (!).

Thế nhưng, thử hỏi liệu có sự can thiệp nhân đạo nào cần phải dùng đến một khối lượng bom đạn lớn và hiện đại nhất hiện nay tiến công vào một nước độc lập có chủ quyền, giết hại những người dân vô tội và hủy diệt môi trường sống của họ ? Có lẽ thế giới này ngoài những thế lực hiếu chiến núp dưới cái gọi là “can thiệp nhân đạo” và “phát triển dân chủ” nhằm đạt được ý đồ chính trị của họ, thì chẳng ai muốn cái thứ “nhân đạo” phi nhân đạo, “dân chủ” phi dân chủ đó. Đến nay, nhân loại tiến bộ trên thế giới càng thấy rõ tâm địa ấy.

Họ luôn lấy con người và quyền con người trừu tượng để phục vụ cho ý đồ chính trị của mình. Kỳ thực họ muốn khuyếch trương nhân quyền cá nhân và quyền chính trị công dân để tuyệt đối hóa tự do cá nhân, từ đó phủ định quyền độc lập, quyền sinh tồn và quyền phát triển thuộc phạm trù nhân quyền của cả một quốc gia, dân tộc. Trong quan hệ quốc tế ngày nay, đối thoại giữa các quốc gia hai bên hay nhiều bên về những vấn đề chung của thế giới nhằm thu hẹp bất đồng và tăng cường hiểu biết lẫn nhau là một xu thế ngày càng phát triển.

Bảo đảm quyền con người trong phạm vi mỗi nước là quyền hạn và trách nhiệm của từng quốc gia, nhưng vấn đề quyền con người cũng là mối quan tâm chung của cộng đồng quốc tế. Chính vì vậy, những nguyên tắc cơ bản nhất của quyền con người được khẳng định trong Hiến chương Liên hợp quốc và được thể hiện một lần nữa tại bản Tuyên ngôn nhân quyền cùng các công ước quốc tế về quyền con người, đồng thời được bày tỏ tại tổ chức các hội nghị quốc tế về vấn đề này. Nhà nước ta luôn luôn chủ trương đối thoại với các nước về quyền con người nhằm tăng cường sự hiểu biết tường tận, đúng đắn về dân tộc ta – một dân tộc đã chịu bao đau thương mất mát vì quyền thiêng liêng cơ bản của con người và hiện nay đang phấn đấu trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội để thực hiện ngày càng tốt hơn quyền con người.

Chúng ta luôn muốn họ có chung nhận thức đúng đắn về nguyên tắc cơ bản của Bộ luật quốc tế về quyền con người : tôn trọng độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia ; tôn trọng quyền dân tộc tự quyết. Đặc biệt là quyền các dân tộc lựa chọn con đường phát triển của mình, tôn trọng quyền của dân tộc, của cộng đồng và của cá nhân ; tôn trọng quyền chính trị – dân sự và quyền kinh tế – xã hội của công dân ; tôn trọng quyền phát triển của các dân tộc. Những ai đi ngược lại điều đó chính là đã vi phạm nguyên tắc cơ bản của Bộ luật quốc tế về quyền con người, vi phạm trắng trợn nhân quyền nước khác.

(Nguồn: Tạp chí Cộng sản)
dangcongsan.vn

Định kiến nhân quyền!

Đăng Trường
Ngày 21/4/2013, trả lời câu hỏi của phóng viên đề nghị cho biết phản ứng của Việt Nam trước việc Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ ra Báo cáo nhân quyền thường niên năm 2012, trong đó có phần đánh giá về tình hình nhân quyền ở Việt Nam, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lương Thanh Nghị khẳng định Nhà nước Việt Nam luôn tôn trọng và thúc đẩy các quyền cơ bản của người dân. Mọi người dân được thực thi các quyền của mình trong khuôn khổ luật pháp.

Báo cáo, dự luật hay các bản đánh giá nhân quyền… với những thông tin sai lệch, đã lặp lại có tính “thường niên”. Chúng tôi không nhắc lại những bản báo cáo hay dự luật có nội dung sai lệch, thiếu khách quan này cũng như những cá nhân, tổ chức thực hiện hay đứng sau các báo cáo.

Vấn đề là nếu cứ tiếp tục lặp lại điệp khúc “báo cáo nhân quyền” không khách quan như trên không những lạc lõng với xu thế phát triển đối thoại ngày nay mà cách tiếp cận này cũng hoàn toàn không đúng tinh thần Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền.

Thực tế, nếu định kiến một quốc gia, một khu vực về tình hình nhân quyền theo hướng cố tình làm xấu đi, bôi nhọ sự thật thì chính những cá nhân, cơ quan làm bổn phận “theo dõi nhân quyền” lại vi phạm chính quy định của Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền năm 1948. Tại Điều 7, bản tuyên ngôn nêu rõ: “Tất cả mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, và phải được bảo vệ một cách bình đẳng, không kỳ thị phân biệt. Tất cả đều được quyền bảo vệ ngang nhau, chống lại mọi kỳ thị vi phạm Bản Tuyên ngôn này, cũng như chống lại mọi kích động dẫn đến kỳ thị như vậy”. Việc liên tục có các báo cáo, các đánh giá dưới hình thức này hay hình thức khác với nội dung sai lệch thực tế khách quan về nhân quyền ở Việt Nam, thì chính hành động đó là biểu hiện rõ nét của sự kỳ thị và mặt nào đó trực tiếp hay gián tiếp tạo cơ hội cho các hành động chống Việt Nam của các thế lực thù địch, chống đối. Tất cả những điều đó đều trái với lẽ nhân văn mà bản Tuyên ngôn nêu ra.

Hồi tháng 2 năm nay, phát biểu trong phiên họp cấp cao khóa họp lần thứ 22 của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc (LHQ) tại Geneva, Bộ trưởng Phạm Bình Minh khẳng định việc Chính phủ Việt Nam quyết định ứng cử vào Hội đồng Nhân quyền LHQ nhiệm kỳ 2014-2016 nhằm đóng góp nhiều hơn nữa vào các nỗ lực chung của LHQ và cộng đồng quốc tế trong việc bảo vệ quyền con người. Trong 7 năm qua, Hội đồng Nhân quyền đã có những đóng góp thiết thực hơn vào việc bảo vệ nhân quyền trên thế giới so với Ủy ban Nhân quyền trước đây. Tuy nhiên, Bộ trưởng Phạm Bình Minh cho rằng, hội đồng cần tăng cường hiệu quả hoạt động để đối phó với các thách thức nhiều mặt về nhân quyền mà dư luận đang hết sức quan tâm. Hội đồng nhân quyền cần phải thực sự trở thành diễn đàn đối thoại và hợp tác, có cách tiếp cận toàn diện, cân bằng về nhân quyền, tôn trọng các nguyên tắc phổ quát, minh bạch, khách quan, không thiên vị trong mọi hoạt động.

Chính sách nhất quán đảm bảo quyền con người của Nhà nước Việt Nam xuất phát từ nhận thức coi quyền con người là giá trị chung của nhân loại, có gốc rễ sâu xa từ truyền thống lịch sử, văn hóa hàng nghìn năm của dân tộc, từ nguyện vọng thiết tha của người dân Việt Nam từng bị tước bỏ những quyền và tự do cơ bản nhất khi làm người dân của một nước thuộc địa. Ngày nay, Việt Nam tiếp tục khẳng định rõ chính sách, luật pháp, thành tựu về đảm bảo quyền con người.

Việt Nam tin tưởng sẽ đảm nhiệm tốt vai trò này nhằm đóng góp vào nỗ lực chung của cộng đồng quốc tế trong việc thúc đẩy việc hưởng thụ và bảo vệ quyền cho tất cả mọi người. Việt Nam có chung mục đích với Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc, đó là đề cao cũng như tôn trọng quyền của con người và đặt con người làm trung tâm trong mọi chính sách phát triển của đất nước. Uy tín của Việt Nam trong việc đảm bảo quyền con người còn được nhiều quốc gia và tổ chức quốc tế công nhận. Chẳng hạn, Cuba, Venezuela, Nga coi cách tiếp cận và việc giải quyết các vấn đề về nhân quyền của Việt Nam là một trường hợp điển hình để các nước khác có thể tham khảo, học hỏi. Hội đồng hoà bình thế giới công nhận các nỗ lực của Việt Nam nhằm đảm bảo các quyền cơ bản của con người trong đó có các quyền về dân sự, quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng. Còn Hiệp hội Luật sư dân chủ và Trung tâm châu Âu đánh giá cao các thành tựu của Việt Nam trong việc bảo vệ quyền của con người trong tất cả các lĩnh vực.

Rõ ràng, nguyện vọng nói trên là hoàn toàn chính đáng và được nhiều quốc gia ủng hộ. Việc gần đây xuất hiện nhiều bài viết, thông tin cố tình làm sai lệch sự thật về thành quả nhân quyền ở Việt Nam, từ đó lấy cớ cho rằng, Việt Nam “vi phạm về nhân quyền” và “không đủ tư cách ứng cử” là hoàn toàn lạc lõng, vô căn cứ

Đ.T.
cand.com.vn

Nghị viện Châu Âu ra nghị quyết sai lệch về tình hình nhân quyền tại Việt Nam

Nghị quyết ngày 18/4/2013 của Nghị viện Châu Âu về tình hình nhân quyền ở Việt Nam đã đưa ra những thông tin và nhận định hoàn toàn sai lệch về tình hình thực tế ở Việt Nam.

Ngày 19/4, trả lời câu hỏi của phóng viên đề nghị cho biết phản ứng của Việt Nam trước việc ngày 18/4, Nghị viện Châu Âu ra Nghị quyết về Việt Nam trong lĩnh vực nhân quyền, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lương Thanh Nghị nêu rõ: “Nghị quyết ngày 18/4/2013 của Nghị viện Châu Âu về tình hình nhân quyền ở Việt Nam đã đưa ra những thông tin và nhận định hoàn toàn sai lệch về tình hình thực tế ở Việt Nam. Việc làm này đi ngược lại xu thế đối thoại thẳng thắn, cởi mở trong lĩnh vực quyền con người đã được xây dựng và tiến hành thường xuyên giữa Việt Nam và các cơ chế của EU, ảnh hưởng không tốt đến đà phát triển và mối quan hệ đang ngày càng tốt đẹp giữa Việt Nam và EU”

PV
cand.com.vn

Một việc làm đi ngược lại xu thế đối thoại về nhân quyền

QĐND – Ngày 18-4-2013, Nghị viện châu Âu, trong phiên họp hằng tháng tại Strasbourg, đã thông qua cái gọi là Nghị quyết về tình hình nhân quyền ở Việt Nam.

Nghị quyết này, do ba nghị sĩ Helmut Scholz, Marie-Christine Vergiat và Jurgen Klute đệ trình, với những thông tin lệch lạc, đưa ra một cái nhìn bị bóp méo và những nhận định sai trái về thực tế tình hình nhân quyền ở Việt Nam.

Trong một bản nghị quyết có đầy rẫy những sai sót, người ta có quyền nghi ngờ về tính chính đáng của nghị quyết đó.

Ngay từ những dòng đầu tiên của nghị quyết này đã chứa đựng ít nhất là hai lỗi về kỹ thuật và thông tin.

Ở khoản A, nghị quyết đề cập đến “những phóng viên lỗi lạc: Nguyễn Văn Hải/Điều Cày, Tạ Phong Tần và Pan Thanh Hải”. Nhân vật Pan Thanh Hải nêu ở đây có lẽ là Phan Thanh Hải, người đã bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh mở phiên sơ thẩm xét xử hình sự ngày 24-9-2012 về tội danh “Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, kết án 4 năm tù, sau đó xử phúc thẩm ngày 28-12-2012, giảm án xuống còn 3 năm tù do thái độ ăn năn hối cải của bị can này.

Tên của nhân vật không nắm rõ và vấn đề mà họ đưa ra cũng không chính xác.

Chẳng biết vì lẽ gì mà tác giả của bản nghị quyết này lại dùng từ “nhà báo kiệt xuất” (hay nổi tiếng?) để gán cho ba nhân vật Nguyễn Văn Hải, Tạ Phong Tần, Phan Thanh Hải.

Thực tế, cả ba vị này chỉ là những người viết blog trên mạng, Nguyễn Văn Hải thì có biệt danh (nickname) “Điếu cày”, Phan Thanh Hải có nickname “Anhbasaigon”, còn Tạ Phong Tần có nickname “Công tằng”. Đó là những nickname mà bất cứ người nào viết trên mạng cũng có. Nhưng viết trên mạng đâu có phải đã là “nhà báo”. Có phải cứ lập ra một blog, muốn viết gì thì viết trên đó, bất chấp đúng sai, xấu tốt, thì đương nhiên được tự phong làm “nhà báo” chăng?

Còn tính từ “kiệt xuất” hay “nổi tiếng” ở đây, làm sao các nghị sỹ của Nghị viện châu Âu lại dùng một cách dễ dãi thế. Kiệt xuất hay nổi tiếng ở đây là dựa trên căn cứ nào? Vì hành động chống lại đất nước mà họ đang sống chăng? Vì họ đi ngược lại lợi ích của dân tộc mình chăng?

Những điều khoản sau đó của nghị quyết cũng có nhiều nội dung lắp ghép khiên cưỡng, sai lệch và thậm chí, bị bóp méo với dụng ý thiếu thiện chí.

Chẳng hạn 14 bị cáo bị Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An xét xử tội danh Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân theo Điều 79, Bộ luật Hình sự thì được nghị quyết của Nghị viện châu Âu liệt vào diện “14 nhà hoạt động dân chủ” bị kết án tù do “thực hiện quyền tự do thể hiện quan điểm”!

Tự do thể hiện quan điểm kiểu gì khi mà có bằng chứng rõ ràng cho thấy các bị cáo đã tham gia các khóa huấn luyện đấu tranh lật đổ do Việt Tân tổ chức ở Thái Lan, Cam-pu-chia, Phi-lip-pin và Mỹ từ năm 2010?

Những người này cũng đã nhận tiền của Việt Tân để tiến hành các hoạt động lật đổ ở Việt Nam. Mà Việt Tân là một tổ chức như thế nào?

Thực chất, đây chính là một tổ chức có trụ sở tại Mỹ hoạt động theo đúng nghĩa “khủng bố”, một khái niệm mà có lẽ các nhà làm luật của châu Âu không xa lạ gì!

Những hoạt động đó là lén lút đưa súng đạn, chất nổ, mìn, lựu đạn, tiền giả, ma túy… từ nước ngoài về Việt Nam để tiến hành các hoạt động gây rối xã hội, đặt chất nổ, gây thương vong, khủng bố người dân, khủng bố chính quyền.

Đến khi Mỹ và Việt Nam bình thường hóa quan hệ, đánh hơi thấy việc chính quyền Mỹ có thể sẽ quay sang quyết liệt chống các hoạt động khủng bố, thì tổ chức này cũng vội vã đổi màu như tắc kè, tuyên bố không tiến hành các hoạt động bạo lực giết người nữa mà chuyển sang đấu tranh “bất bạo động”! Không lẽ chỉ bằng vài lời tuyên bố màu mè, người ta có thể tin vào việc một tổ chức như Việt Tân sẽ thay đổi bản chất của một tổ chức khủng bố?

Mà tổ chức khủng bố thì dù ở bất cứ đâu trên thế giới này cũng phải bị lên án, các hoạt động khủng bố phải bị trừng phạt theo luật định. Có lẽ các nhà làm luật ở Nghị viện châu Âu quá hiểu nguy cơ của các hành động khủng bố, mới nhất là vụ đánh bom kép ở thành phố Bô-xtơn nước Mỹ khiến 3 người thiệt mạng, hàng trăm người khác bị thương. Vậy sao lại có thể đánh tráo khái niệm, biến những người có liên quan đến tổ chức khủng bố thành “nhà hoạt động dân chủ” được?

Trong nghị quyết của Nghị viện châu Âu cũng đề cập đến “một nhóm 22 nhà hoạt động môi trường hòa bình” bị kết án tù. Có lẽ những người soạn thảo nghị quyết muốn nói đến các thành viên của cái chi phái tôn giáo tự đặt tên là Hội đồng Công luật Công án Bia Sơn, bị Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên kết án về tội lật đổ chính quyền nhân dân.

“Nhà hoạt động môi trường hòa bình” kiểu gì mà đặt ra hẳn cương lĩnh lật đổ chính quyền sở tại để lập ra một nhà nước mới là Đại Nam Kinh Châu, có hẳn bộ khung của chính quyền trung ương, có quốc ca, quốc kỳ, thủ đô, thậm chí sắc phong cho 72 tướng lĩnh!

Chỉ mới xét qua vài nội dung trong bản nghị quyết của Nghị viện châu Âu như trên cũng đủ thấy hàng loạt thông tin, khái niệm đã bị bóp méo, làm cho sai lệch. Thử hỏi một bản nghị quyết như thế có giá trị hay không?

Trong những năm gần đây, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn trong lĩnh vực bảo đảm quyền con người, được dư luận thế giới, các tổ chức quốc tế công nhận. Giữa Việt Nam và EU cũng đã đạt được thỏa thuận về việc tổ chức đối thoại về quyền con người hai lần trong một năm, tạo cơ sở để hai bên đi tới đồng thuận về các giá trị nhân quyền.

Trong bối cảnh đó, nghị quyết mới của Nghị viện châu Âu về nhân quyền ở Việt Nam đã đi ngược lại xu thế đối thoại thẳng thắn, cởi mở giữa Việt Nam và các cơ chế của EU trong lĩnh vực quyền con người.

PHAN BÁ THỌ
qdnd.vn

Nhiều nước phê phán Báo cáo nhân quyền của Mỹ

Bản báo cáo nhân quyền hàng năm của Mỹ vừa đưa ra đã vấp phải sự phản đối mạnh mẽ của nhiều quốc gia trên thế giới.

Ngày 1/3, trả lời phỏng vấn báo chí trong nước, Thứ trưởng Ngoại giao Mexico Patrisia Olamendi đã cực lực phản đối việc Bộ Ngoại giao Mỹ liệt Mexico vào số các nước “lạc hậu về nhân quyền”, coi đây là hành động không thể chấp nhận được, đồng thời nhấn mạnh báo cáo hàng năm của Bộ Ngoại giao Mỹ về tình hình nhân quyền trên thế giới trong năm 2004 hoàn toàn không có giá trị vì đó chỉ là những nhận định đơn phương và thiếu thực tế.

Thứ trưởng Olamendi cho rằng việc Mỹ dựa vào tình trạng bạo lực, ma tuý, nạn bắt cóc, tệ tham nhũng… còn khá bức xúc trong xã hội Mexico để đưa ra kết luận trên là cách làm phiến diện, bỏ qua những nỗ lực cải thiện nhân quyền trên phạm vi liên bang với những thành tựu đã và đang được cộng đồng quốc tế ghi nhận.

Cũng về vấn đề này, Uỷ ban Nhân quyền Mexico (CNDH) khẳng định, Mỹ không đủ tư chất đạo đức để xếp hạng các nước khác trên lĩnh vực nhân quyền và cho biết CNDH sẽ sớm ra tuyên bố đầy đủ, trong đó sẽ đề cập đến những vi phạm nhân quyền ở Mỹ, đặc biệt đối với hàng triệu dân di cư Mexico.

** Trong buổi họp báo chiều cùng ngày, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Lưu Kiến Siêu đã hết sức bất bình và kiên quyết phản đối việc Mỹ một lần nữa đưa ra Báo cáo nhân quyền hàng năm, trong đó có những nội dung phê phán tình hình nhân quyền ở Trung Quốc.

Người phát ngôn Lưu Kiến Siêu nhấn mạnh, đây không phải là lần đầu Mỹ can thiệp vào tình hình nhân quyền các nước. Cách làm này không chỉ không có lợi cho việc cải thiện quan hệ hai nước Trung-Mỹ, mà còn gây ảnh hưởng đến tiến trình tăng cường đối thoại, tăng cường hiểu biết, tin cậy lẫn nhau, rút ngắn bất đồng trong vấn đề nhân quyền giữa hai bên. Ông nói “Tôi xin được khuyến cáo phía Mỹ hãy chấm dứt các hành động lợi dụng vấn đề nhân quyền can thiệp vào nội bộ Trung Quốc. Đồng thời yêu cầu Mỹ hãy xem lại những vấn đề vi phạm nhân quyền còn tồn tại trên đất nước mình nhiều hơn nữa và xem lại cả những hành động vi phạm nhân quyền của mình tại các quốc gia khác trên thế giới.”

Ông Lưu Kiến Siêu khẳng định, Trung Quốc đã đạt được nhiều thành tựu trong lĩnh vực nhân quyền và vẫn đang tiếp tục nỗ lực cải thiện tình hình nhân quyền trên mọi lĩnh vực, nhằm xây dựng một xã hội hài hoà và đoàn kết.

** Báo “Dân tộc” của Thái Lan số ra ngày 1/3 cũng đưa tin, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Thái Lan, ông Sihasak Puanketkoew ngày 28/2 đã chỉ trích Mỹ, nói rằng việc người Mỹ sử dụng điểm chuẩn của riêng mình để đo những tiêu chuẩn về nhân quyền ở nước khác là không thích hợp.

Bình luận về báo cáo hàng năm của Bộ Ngoại giao Mỹ về nhân quyền, quan chức này nói bản báo cáo đó không mang tính xây dựng đối với mối quan hệ song phương giữa hai nước. Ông nói Mỹ đã bỏ qua một số những tiến bộ mà Chính phủ Thái Lan đã đạt được trong một số khu vực, trong đó có vấn đề y tế được cải thiện và tạo việc làm trong khu vực. Ông cho rằng bản báo cáo đó cần được coi như là tài liệu làm việc nội bộ của Mỹ, giữa các ngành chính quyền và quốc hội chứ không nên công bố trên phạm vi quốc tế thông qua các sứ quán của họ./.

BTS – (VOV)
dangcongsan.vn

Sự bịa đặt ác ý và nhàm chán

Dường như là căn bệnh mãn tính không thể chữa trị, đó chính là con mắt nhìn sai lệch và u ám của Bộ Ngoại giao Mỹ về vấn đề dân chủ, nhân quyền, tự do báo chí, tự do tín ngưỡng và tôn giáo tại các nước, trừ nước Mỹ.

Mặc dù một năm đã qua, trên thế giới, các khu vực và từng quốc gia có biết bao đổi thay to lớn sâu sắc về mọi lĩnh vực, kể cả vấn đề dân chủ, nhân quyền, thế nhưng bản báo cáo “Hỗ trợ dân chủ và nhân quyền: Hồ sơ Mỹ 2004-2005” vừa được Vụ Lao động, nhân quyền và dân chủ của Bộ Ngoại giao Mỹ công bố ngày 28-3-2005 chỉ là bản sao chép vụng về nhưng có chủ đích và ác ý, các báo cáo loại này đã được công bố đúng một năm trước đây.

Trước hết, đó là bản thống kê về tình hình dân chủ, nhân quyền tại 98 quốc gia, tức là chiếm phần nửa thế giới với số dân chiếm 2 phần 3 số dân toàn thế giới, được Mỹ liệt vào hạng yếu kém về thành tích dân chủ nhân quyền. Tự dành cho mình quyền là quan tòa phán xét, Bộ Ngoại giao Mỹ vu cáo nước này nước nọ vi phạm dân chủ nhân quyền và răn đe sẽ có biện pháp trừng phạt. Biện hộ cho việc làm xấu xa, trái đạo lý và lương tâm, chà đạp cả những điều thông thường về luật pháp quốc tế như nguyên tắc không được áp đặt giá trị hay can thiệp vào công việc nội bộ của các nước có chủ quyền, Ngoại trưởng Mỹ, bà Côn-đi-li-da Rai-xơ nói: “Tự do, dân chủ và nhân quyền không phải các nguyên tắc của Mỹ hay giá trị phương Tây. Những quan niệm này là của chung tất cả mọi người. Đây là những nhu cầu về phẩm giá con người không thể thương lượng. Chúng ta (tức là Mỹ) đang nỗ lực không mệt mỏi nhằm hỗ trợ dân chủ và nhân quyền tại tất cả những nơi mà các nguyên tắc này không được đáp ứng đầy đủ”. Thế nhưng, từ lời nói đến việc làm lại là một khoảng cách rất xa, thậm chí trái ngược, bởi báo cáo này đã không phản ánh đúng điều bà ngoại trưởng nói mà chính là sự áp đặt giá trị Mỹ về các vấn đề dân chủ, nhân quyền vào tất cả các nước, không đếm xỉa gì đến điều kiện lịch sử, dân tộc và nét đa dạng văn hóa của các nước này.

Một điều cần vạch rõ, cái đích mà báo cáo nhắm tới không phải là cung cấp cho mọi người bức tranh toàn cảnh về tình hình thực tế của các nước mà là mưu đồ sử dụng vấn đề dân chủ nhân quyền làm con bài chống phá hay gây sức ép đối với các nước không chịu khuất phục trước cái gậy chỉ huy của Mỹ. Như chủ nhân của Bản báo cáo nhân quyền này, đó là các chuyên gia lão luyện của vụ Lao động, nhân quyền và dân chủ của Bộ Ngoại giao Mỹ khẳng định: Thúc đẩy dân chủ, nhân quyền và mở rộng quyền tự do là chiến lược đối ngoại của Mỹ nhằm buộc các nước phải thay đổi chính sách và sự ứng xử cho vừa lòng Mỹ. Công cụ để thực hiện chính sách này là khoản tiền hơn 1 tỷ đô la mà Mỹ chi ra hàng năm. Và cuối cùng, Báo cáo nhân quyền niên khóa 2004-2005 này vẫn là chiêu bài cũ rích với bảng xếp hạng phân chia ra các loại: loại nước vi phạm nghiêm trọng dân chủ nhân quyền mà Mỹ tự cho mình quyền “quan tâm đặc biệt”; loại nước vi phạm ở mặt này mặt khác nhưng thành tích còn yếu kém; loại nước có tiến bộ nhưng còn ít và quá chậm chạp, Mỹ cần hỗ trợ để thúc đẩy có bước tiến nhanh hơn… Điều có thể thấy trước, bản báo cáo này chắc chắn bị Chính phủ các nước và dư luận nghiêm khắc lên án, coi đó là sự xuyên tạc, vu cáo ác ý và hết sức nhàm chán.

Trong báo cáo “Hỗ trợ dân chủ, nhân quyền” vừa công bố, phần nói về Việt Nam chỉ gồm một số trang hạn chế nhưng qua đó cũng đủ thấy dã tâm và cái đích sâu xa của Bộ Ngoại giao Mỹ đối với Việt Nam. Toàn bộ nội dung của phần báo cáo về tình hình Việt Nam không có gì mới so với các năm trước đây, có khác chăng chỉ là sự đảo lộn vụng về các sự kiện từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên hay thay đổi các ngôn từ. Tựu trung, phần nói về Việt Nam có ba điểm nổi bật. Một là, việc Bộ Ngoại giao Mỹ cho là “Thành tích nhân quyền của Chính phủ Việt Nam vẫn nghèo nàn”, một giọng điệu quá cũ và nhàm chán lặp đi lặp lại từ nhiều năm nay. Hai là, việc xuyên tạc, bóp méo hoặc dựng đứng lên nhiều câu chuyện giật gân về cái gọi là Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền, Việt Nam đàn áp tôn giáo, bỏ tù vô tội vạ những người mà Mỹ gọi là “tù nhân lương tâm”, “bất đồng chính kiến”. Ba là, Oa-sinh-tơn tô son trát phấn quảng bá cho cái gọi là thiện chí và lòng hào hiệp của Mỹ hỗ trợ, thúc đẩy dân chủ nhân quyền ở Việt Nam, nói trắng ra là sự can thiệp thô bạo vào công việc nội bộ của Nhà nước và nhân dân Việt Nam.

Chỉ nêu khái quát những điểm chủ yếu như trên đã thấy nội dụng của Hồ sơ dân chủ nhân quyền của Bộ Ngoại giao Mỹ là không có độ tin cậy và lẽ đương nhiên không có chút giá trị sự thật nào. Bức tranh dân chủ nhân quyền trong báo cáo này hoàn toàn xa lạ với thực tế Việt Nam không chỉ là năm 2004 và những tháng đầu năm 2005 này mà là cả những năm trước đây. Chẳng hạn, cái mà Bộ Ngoại giao Mỹ hí hửng vồ lấy, cho là bằng chứng không thể chối cãi là vấn đề Tây Nguyên thì sự thật lại bóc trần trò tháu cáy đánh lận con đen. Ở Tây Nguyên, trong khi Mỹ vu cáo “Việt Nam đàn áp người thiểu số”, xua đuổi họ lên rừng xanh núi đỏ hoặc phải bỏ chạy ra nước ngoài thì sự thật, năm qua, tình hình Tây Nguyên lại sáng sủa. Đời sống vật chất và tinh thần các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên đã được cải thiện rõ rệt. Một biểu hiện hết sức sinh động là năm qua hàng trăm người vì nhẹ dạ cả tin nghe lời bọn xấu chạy ra nước ngoài đã trở về quê hương, được chính quyền và bà con địa phương ân cần tiếp đón, giúp đỡ tiền của xây dựng lại cuộc sống từ hai bàn tay trắng. Mặc dù đất nước còn nghèo, trong năm qua lại bị nhiều tai họa và thiên tai như lũ lụt, hạn hán, Nhà nước và nhân dân ta đã đầu tư hàng nghìn tỷ đồng cho các tỉnh Tây Nguyên xây dựng nhiều công trình kinh tế, giao thông, văn hóa, y tế, giáo dục làm thay đổi sâu sắc bộ mặt Tây Nguyên mà đường Hồ Chí Minh là ví dụ điển hình. Chính các nhà ngoại giao Mỹ và các nước cũng như các phóng viên quốc tế nhiều lần lên Tây Nguyên đã thấy rõ điều đó, được phản ánh trên nhiều tờ báo cũng như các đài phát thanh, truyền hình nước ngoài.

Một điểm khác, không thể không nghiêm khắc phê phán là Báo cáo đã bịa đặt: “Trong năm 2004, Chính phủ Việt Nam đặc biệt hạn chế tự do tôn giáo, ngôn luận, hội họp và lập hội, bắt giữ nhiều nhà hoạt động dân chủ, chỉ trích chính phủ, kiểm duyệt nguồn báo chí trong nước, chặn sóng đài phát thanh nước ngoài và các trang Internet, không cho phép người dân thành lập các tổ chức độc lập. Chính phủ còn buộc các cộng đồng tôn giáo tuân thủ các quy định đăng ký nghiêm ngặt và cản trở các hoạt động của một số tổ chức tôn giáo”. Nếu ai dù chỉ có chút lương tâm, dù không là người Việt Nam đi nữa, nhưng chỉ một lần đến Việt Nam cũng thấy ngay sự vu cáo xuyên tạc như trên là trắng trợn đến mức nào. Chỉ xin nêu ba việc cụ thể như sau để thấy rõ Việt Nam có tôn trọng dân chủ nhân quyền, tự do báo chí, tự do tôn giáo hay không. Về báo chí và hệ thống phát thanh truyền hình, hiện nay cả nước có hơn 600 cơ quan báo viết với 700 ấn phẩm, có hai đài phát thanh, truyền hình trung ương, hơn 1.000 đài phát thanh, truyền thanh và truyền hình khu vực ở 64 tỉnh, thành phố và hơn 600 quận, huyện. Nói Việt Nam chặn sóng đài phát thanh và các trang Internet thì ngay đến trẻ em Việt nam cũng thấy nực cười bởi biết bao quán cà phê Internet nhan nhản ở thành phố và nông thôn. Còn nghe đài và xem ti vi thì ngay đài truyền hình trung ương cũng giới thiệu rất nhiều chương trình mua bản quyền của các đài nước ngoài. Về tôn giáo thì Việt Nam hiện có hơn 10 tôn giáo lớn với số tín đồ lên tới gần 20 triệu người, tăng rất nhiều so với những năm trước đổi mới cùng với hàng nghìn ngôi chùa, nhà thờ được xây mới hoặc chỉnh trang tôn tạo. Chỉ riêng dọc đường quốc lộ số 1 từ Hà Nội đi thành phố Hồ Chí Minh, đã có thể thấy hai bên đường nhiều ngôi chùa, nhà thờ mới xây, trong đó có cả nhà thờ đạo Tin lành. Chẳng lẽ chưa từng có người Mỹ hay nhà ngoại giao Mỹ nào đi trên quốc lộ 1 của Việt Nam! Và cũng năm 2004, Nhà nước Việt Nam đã ban hành pháp lệnh về đạo Tin lành được các mục sư và tín đồ đạo này hết sức cảm kích. Và điều cần khẳng định là ở Việt Nam, không hề có cái gọi là “tù nhân chính trị bất đồng chính kiến” hay “tù nhân lương tâm” mà chỉ có những người vi phạm pháp luật bị kết án tù qua sự xét xử công khai minh bạch ở các tòa án. Và trong các dịp lễ, Tết, Nhà nước ta đã ân xá, đặc xá cho hàng nghìn tù nhân, tạo mọi điều kiện để họ tái hòa nhập vào cộng đồng. Cuối cùng là việc chính phủ và nhân dân ta tỏ rõ thiện chí, đã “gác lại quá khứ, hướng tới tương lai” trong quan hệ với Mỹ. Báo cáo nhân quyền lần này, Bộ Ngoại giao Mỹ không thể không thừa nhận sự thật hiển nhiên này.

Tục ngữ Việt Nam có câu:

Chân mình thì lấm bê bê
Lại cầm bó đuốc đi rê chân người

Cứ xem việc Mỹ làm trong thời gian qua thì đủ thấy người bị kết án, phê phán chính là Mỹ chứ không phải ai khác. Đó là việc Mỹ ngang nhiên đem quân xâm lược I-rắc, dưới cái cớ “chế độ Xát-đam Hút-xen có vũ khí hủy diệt” đến nay đã lòi đuôi việc chính quyền Mỹ nói dối nhân dân Mỹ và thế giới trắng trợn hết chỗ nói. Hơn 2 năm qua, lính Mỹ bắn giết nhiều người dân I-rắc, tra tấn hành hạ các tù nhân mà chính tòa án Mỹ cũng buộc phải đem ra xét xử một số sĩ quan và binh lính Mỹ đã mất hết tính người. Đó là việc ngay tại Mỹ, nạn phân biệt chủng tộc vẫn lộng hành như những người da den hay da màu không được hưởng một số quyền như người da trắng. Đó là việc ở Mỹ, tình trạng bạo lực gia tăng đến mức đặc biệt nghiêm trọng, do vũ khí được buôn bán công khai, dẫn tới việc có trẻ em mang súng đến trường học, xả đạn giết hại hàng chục học sinh trong trắng ngây thơ… vân vân và vân vân…

Thế mới biết, báo cáo “Hồ sơ dân chủ và nhân quyền hồ sơ Mỹ năm 2004-2005” của Bộ Ngoại giao Mỹ là xấu xa, ác ý đến mức nào. Chúng ta kiên quyết bác bỏ và nghiêm khắc phê phán bản báo cáo này vì nó chỉ làm vẩn đục bầu không khí quan hệ Việt-Mỹ đang tiến triển khá tích cực vào thời điểm hai nước sắp kỷ niệm 10 năm ngày bình thường hóa quan hệ.

BTS –(QĐND)
dangcongsan.vn

EP nhận định sai lệch tình hình nhân quyền tại Việt Nam

(ĐVO) – Nghị quyết ngày 18/4/2013 của Nghị viện Châu Âu (EP) về tình hình nhân quyền ở Việt Nam đã đưa ra những thông tin và nhận định hoàn toàn sai lệch về tình hình thực tế ở Việt Nam.

Ông Lương Thanh Nghị - Người phát ngôn bộ Ngoại giao Việt NamÔng Lương Thanh Nghị – Người phát ngôn bộ Ngoại giao Việt Nam

“Nghị quyết ngày 18/4/2013 của Nghị viện Châu Âu về tình hình nhân quyền ở Việt Nam đã đưa ra những thông tin và nhận định hoàn toàn sai lệch về tình hình thực tế ở Việt Nam. Việc làm này đi ngược lại xu thế đối thoại thẳng thắn, cởi mở trong lĩnh vực quyền con người đã được xây dựng và tiến hành thường xuyên giữa Việt Nam và các cơ chế của EU, ảnh hưởng không tốt đến đà phát triển và mối quan hệ đang ngày càng tốt đẹp giữa Việt Nam và EU”.

Theo chinhphu
baodatviet.vn

Vở kịch lố “điều trần về nhân quyền”!

Đăng Trường
Ủy ban Đối ngoại Hạ viện Mỹ thông báo ngày mai (11/4) sẽ mở phiên điều trần tại Washington, được nói là “để tham khảo các ý kiến quan sát độc lập về thực trạng và hồ sơ nhân quyền tại Việt Nam”, nhằm chuẩn bị cho cuộc đối thoại Việt – Mỹ về nhân quyền thường niên sẽ diễn ra sau đó. Tuy nhiên, với cách chuẩn bị đầy hàm ý của người tổ chức và người tham dự thì dù cuộc điều trần chưa diễn ra đã lộ tẩy bản chất thực chỉ là vở kịch lố.

Với mục đích được rao giảng “tham khảo các ý kiến quan sát độc lập” và như thông báo của Hạ viện Mỹ, phiên điều trần sẽ “nghe ý kiến quan sát độc lập từ một số các nhà hoạt động, đại diện các tổ chức theo dõi nhân quyền quốc tế về Việt Nam, cũng như đại diện nạn nhân” thì điều quan trọng nhất, thành phần tham dự phiên điều trần phải là các nhà hoạt động, đại diện các tổ chức, cá nhân theo dõi nhân quyền có hiểu biết và trách nhiệm, đặc biệt là phải bảo đảm được tính vô tư, khách quan và độc lập của họ. Thế nhưng, trong danh sách 6 người đã được thông báo dự phiên điều trần lại là những nhân vật có lý lịch không thể xám hơn (như Võ Văn Ái, kẻ cộm cán trong đám phản động, lưu vong ở nước ngoài, có bản lý lịch xám xịt, chuyên câu kết với một số đối tượng cơ hội chính trị trong nước và các phần tử phản động lợi dụng tôn giáo, dân chủ, nhân quyền để kích động chống phá Việt Nam). Hay như John Sifton, Giám đốc vận động khu vực châu Á thuộc tổ chức Human Rights Watch, người có nhiều hành động và phát ngôn kiểu “chọc gậy”, cố tình bôi nhọ tình hình nhân quyền từ các vụ án mà bị can, bị cáo vi phạm pháp luật hình sự. Còn người được gọi là “nạn nhân nhân quyền” thì thực chất đó là người có hành vi phạm pháp, bị xử lý theo quy định của pháp luật Việt Nam (trong vụ gây rối ở Cồn Dầu, Quảng Bình)…

Nhìn danh sách các nhân vật ngồi dự phiên điều trần có lý lịch “oặt oẹo” như thế, lịch sử chống đối như thế, làm gì có cái gọi là “ý kiến quan sát độc lập” ở đây? Trong khi đó, những tổ chức, cá nhân có hiểu biết sâu và có các phát biểu khách quan, trung thực về tình hình nhân quyền ở Việt Nam lại không hề được mời dự. Còn nhớ, bà Pratibha Mehta, điều phối viên thường trú Liên hợp quốc tại Việt Nam là người có nhiều hoạt động trong lĩnh vực nhân quyền ở Việt Nam, từng khẳng định chính phủ Việt Nam luôn tạo điều kiện, đảm bảo vấn đề quyền con người thực thi và “trong những năm vừa qua, Chính phủ Việt Nam đã tăng cường tham gia vào các cơ chế nhân quyền quốc tế, các cơ chế này nhằm giám sát các trường hợp liên quan đến nhân quyền trên khắp thế giới, bao gồm cả sự phù hợp của các Chính phủ với các hiệp ước cốt lõi về nhân quyền”…

Điểm nữa, về phía cơ quan tổ chức phiên điều trần, cũng không có bất kỳ tín hiệu nào cho thấy tính khách quan, độc lập. Ủy ban Đối ngoại Hạ viện Mỹ đã nhiều lần tổ chức hình thức tương tự, gọi phiên điều trần hay đối thoại, hội thảo… thì đã bao giờ thấy một kết luận đưa ra đủ cơ sở tin rằng khách quan, độc lập. Lần này cũng vậy, nếu để có được “ý kiến khách quan”, người chủ trì, điều hành phiên điều trần phải công tâm, khách quan. Ấy thế nhưng dù phiên điều trần chưa diễn ra mà người dự kiến chủ trì, hiện là Chủ tịch tiểu ban, ông Christ Smith đã phát biểu trên trang mạng của Hạ viện rằng phiên điều trần sẽ xem xét các “vi phạm về nhân quyền”, trong đó ông bất ngờ chụp mũ “đặc biệt những vi phạm gây rối nhiễu sâu sắc tới các quyền tự do tôn giáo và sắc tộc”. Ông Smith nói rằng, những lời của các “nhân chứng đặc biệt” sẽ cung cấp cái gọi là “bằng chứng thuyết phục” để Bộ Ngoại giao đặt vấn đề một cách quyết liệt trong cuộc đối thoại nhân quyền Mỹ – Việt được dự kiến diễn ra một ngày sau đó. Tìm ý kiến khách quan, độc lập mà người chủ trì lại nói rõ chủ ý mang tính quy chụp tiêu cực như trên, cho thấy rõ, đó chỉ là vở kịch giả áo “điều trần”.

Nhân quyền là vấn đề lớn mà con người hướng tới để thực hiện một cách đầy đủ hơn. Trong đời sống xã hội, không tránh khỏi những chuyện này, chuyện khác chưa được đảm bảo đầy đủ về nhân quyền, nhưng không thể vạch lá tìm sâu để đưa ra kết luận toàn cục. Ví như ở Mỹ hồi tháng 5 năm ngoái, em Diane Tran, 17 tuổi, học sinh lớp 11, trường cấp ba Willis, gần Houston, bị Thẩm phán Lanny Moriarty bắt giam và yêu cầu cô nộp phạt 100USD. Nguyên nhân cô nữ sinh này bị bắt giam là nghỉ học quá số ngày quy định (Diane Tran đã nghỉ học 18 ngày, trong khi luật pháp bang quy định học sinh chỉ được phép vắng mặt 10 buổi trong 6 tháng).

Học sinh nghỉ học bị bắt giam, đó không vi phạm nhân quyền thì là gì, và nếu soi xét nhân quyền của một quốc gia mà cứ vin vào những “điển hình” như thế, thì bức tranh nhân quyền của Mỹ có màu gì?

Quan hệ Việt – Mỹ đang không ngừng được tăng cường, và người Mỹ vốn nổi tiếng trong lĩnh vực kinh tế, ngoại giao cũng như những tính chất của một cường quốc, hẳn họ phải tìm ra được những người đủ khả năng nhìn nhận và đánh giá vấn đề khách quan, thiện chí chứ không phải dựa vào những người tạo dựng kịch bản như trên

Đ.T.
cand.com.vn