Chế định bảo vệ Tổ quốc cần kế thừa và bổ sung phù hợp với yêu cầu

Bảo vệ Tổ quốc là một trong những chế định quan trọng trong những bản Hiến pháp từ trước tới nay.

Trong Hiến pháp năm 1992, Bảo vệ Tổ quốc được quy định trong Chương IV gồm 5 điều, quy định về nguyên tắc, nhiệm vụ cơ bản trong lĩnh vực bảo vệ Tổ quốc, quyền hạn và trách nhiệm cụ thể của Nhà nước, của lực lượng vũ trang, của các cơ quan, tổ chức, công dân nhằm bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Trao đổi với phóng viên Báo CAND về vấn đề này, Đại tá, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trần Vi Dân, Phó Vụ trưởng Vụ Pháp chế, Bộ Công an cho biết:

Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 quy định về bảo vệ Tổ quốc tại Chương IV (từ Điều 69 đến Điều 73).

Qua nghiên cứu, về cơ bản, chế định bảo vệ Tổ quốc đã tiếp tục kế thừa những quy định của Hiến pháp 1992 và các bản Hiến pháp trước đây còn phù hợp như quy định về tính chất và nguyên tắc chỉ đạo công cuộc bảo vệ Tổ quốc; thể chế hóa tư duy đổi mới của Đảng về quốc phòng, an ninh trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng xác định nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và của cả hệ thống chính trị.

Làm rõ hơn nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; tiếp tục khẳng định mục tiêu, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa.

Tuy nhiên, trong bối cảnh tình hình quốc tế và khu vực đang có nhiều thay đổi và diễn biến phức tạp, khó lường; âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình”, bạo loạn, lật đổ của các thế lực thù địch, phản động nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản và chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam vẫn không thay đổi; tình hình tội phạm, trật tự, an toàn xã hội còn diễn biến phức tạp, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định: “Mục tiêu, nhiệm vụ của quốc phòng, an ninh là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững hòa bình, ổn định chính trị, bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta”.

Theo đó, cần thiết sửa đổi các điều, khoản trong chế định bảo vệ Tổ quốc như sau:

Về Điều 69, đề nghị bổ sung cụm từ “trật tự, an toàn xã hội” vào sau cụm từ “giữ vững an ninh quốc gia” ở khổ đầu điều này và chỉnh sửa như sau: “Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, giữ vững an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội là sự nghiệp của toàn dân”.

Thực tiễn cách mạng Việt Nam cho thấy bảo đảm trật tự, an toàn xã hội trên thực tế đã, đang là sự nghiệp của toàn dân. Nhận thức đầy đủ vấn đề này từ trước tới nay, Đảng ta luôn quan tâm, chỉ đạo nhiệm vụ bảo đảm trật tự, an toàn xã hội trong nhiều nghị quyết, chỉ thị, đặt yêu cầu bảo đảm trật tự, an toàn xã hội trong mối quan hệ chặt chẽ với bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ an ninh quốc gia.

Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng tiếp tục xác định: “Tăng cường quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước và toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là lực lượng nòng cốt”.

Nếu Hiến pháp không ghi nhận bảo đảm trật tự, an toàn xã hội là sự nghiệp của toàn dân là chưa cụ thể hóa và quán triệt đầy đủ quan điểm của Đảng về bảo đảm trật tự, an toàn xã hội trong tình hình hiện nay, không phù hợp với những đòi hỏi thực tiễn đặt ra cho công tác này dưới phương diện cơ sở pháp lý.

Về Điều 70, việc bổ sung quy định lực lượng vũ trang nhân dân phải tuyệt đối trung thành với Đảng là phù hợp và cần thiết vì:

Lực lượng vũ trang ở đâu và bao giờ cũng là công cụ bạo lực của một giai cấp, một nhà nước nhất định, mang bản chất của giai cấp và nhà nước tổ chức ra nó; nhằm phục vụ cho mục đích chính trị của giai cấp, của nhà nước tổ chức, nuôi dưỡng và sử dụng lực lượng vũ trang, không có và không bao giờ có lực lượng vũ trang “trung lập về chính trị”, “đứng ngoài chính trị”, “phi giai cấp”.

Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt là nguyên tắc cơ bản, được xác định nhất quán từ Đại hội lần thứ nhất của Đảng đến nay. Qua các thời kỳ cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn xác định quyền lãnh đạo lực lượng vũ trang thuộc về một đảng duy nhất – Đảng Cộng sản Việt Nam, không thể phân chia quyền lãnh đạo này cho bất cứ một giai cấp, một đảng phái nào khác.

Lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam sáng lập, tổ chức, xây dựng, giáo dục, rèn luyện. Sự trưởng thành, lớn mạnh của lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam gắn liền với sự lãnh đạo, giáo dục, rèn luyện, tổ chức, xây dựng của Bác Hồ và Đảng Cộng sản Việt Nam.

Cách mạng Việt Nam đã chứng minh rằng, lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam luôn trung thành bảo vệ Tổ quốc, Đảng, Nhà nước và nhân dân. Lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam không chỉ là công cụ bạo lực, lực lượng chính trị tin cậy của Đảng, Nhà nước, mà còn là công cụ bạo lực tổ chức vũ trang của nhân dân, chiến đấu vì độc lập, tự do của đất nước.

Thực tiễn trên thế giới cho thấy, ở những nước có nhiều đảng phái chính trị, thực hiện cái gọi là “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang, đang phải đối mặt với tình trạng mâu thuẫn, xung đột, bất ổn chính trị – xã hội gia tăng, thậm chí tạo nên sự hỗn loạn trong xã hội. Luận điểm “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang thực chất là muốn tách lực lượng vũ trang ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng để lực lượng vũ trang dần dần biến chất về chính trị, xa rời chính trị của giai cấp công nhân.

Về Điều 73 đề nghị bổ sung thuật ngữ “Công an” sau cụm từ “hậu phương Quân đội”, thay thuật ngữ “an ninh” bằng thuật ngữ “Công an” sau cụm từ “nhân viên quốc phòng”. Nghiên cứu thấy giải trình của Ủy ban dự thảo về việc không tiếp thu các góp ý nêu trên vào Điều 73 là chưa thuyết phục.

Thực tiễn đấu tranh cách mạng của lực lượng Công an nhân dân từ khi được thành lập đến nay cho thấy ở mọi thời kỳ cách mạng, bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội luôn là cuộc đấu tranh đầy hy sinh, gian khổ. Ngay trong thời bình, vẫn có những chiến sĩ Công an hy sinh.

Tuy nhiên, cần xác định bất cứ người chiến sĩ Công an nhân dân nào cũng sẵn sàng đối diện với hy sinh, mất mát vì cuộc sống bình yên và hạnh phúc của nhân dân.

Vì vậy, cần khẳng định rằng sau trận tuyến bảo vệ an ninh, trật tự, đấu tranh phòng, chống tội phạm, hậu phương Công an đã và đang tồn tại, đóng góp rất quan trọng vào thành công của Công an nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự.

Tuy nhiên, do chưa được ghi nhận trong Hiến pháp nên có ý kiến cho rằng đây là vấn đề mới cũng là dễ hiểu. Như vậy, việc bổ sung vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp là rất cần thiết, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho phép quan tâm một cách đầy đủ tới cán bộ, chiến sĩ Công an đang trực tiếp chiến đấu bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội

Nguyễn Hưng (ghi)

Nguồn: cand.com.vn
Vkyno (st)