Thiếu khách quan, thừa định kiến

QĐND – Không ngạc nhiên khi báo cáo thường niên của Bộ Ngoại giao Mỹ về tình hình nhân quyền năm 2012, được công bố ngày 20-4 (giờ Việt Nam), đã vấp phải sự phản đối mạnh mẽ từ nhiều nước. Bản báo cáo năm nay không có gì mới và vẫn như những năm trước, chủ yếu đề cập đến cái gọi là “tình trạng vi phạm nhân quyền” tại không ít quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam.

Trước hết cần khẳng định rằng, đây là một báo cáo thiếu khách quan, định kiến và không phản ánh đúng tình hình của Việt Nam. Báo cáo là một kiểu áp đặt trong quan hệ quốc tế mà Việt Nam phải gánh chịu trong những năm qua và đi ngược lợi ích song phương cũng như xu hướng phát triển tốt đẹp trong quan hệ Việt Nam – Mỹ  hiện nay.

Dưới nhãn quan bị chi phối bởi thành kiến chính trị, lại dựa trên những thông tin sai lệch một cách có chủ ý về Việt Nam, những người soạn thảo Báo cáo nhân quyền tiếp tục coi Việt Nam là một nhà nước “chuyên chế” mà ở đó  “quyền chính trị của công dân, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tôn giáo bị hạn chế”…

Hãy nhìn sang nước Mỹ. Không thể phủ nhận rằng nước Mỹ giàu có. Nhưng điều đó cũng không có nghĩa là nước Mỹ không có những vấn đề về quyền con người. Trong những năm qua, rất nhiều tổ chức quốc tế đã đưa ra những báo cáo về tình trạng vi phạm nhân quyền ở Mỹ liên quan đến việc tra tấn và đối xử ngược đãi tù nhân, phân biệt chủng tộc, hay khởi xướng những cuộc chiến tranh tàn khốc… Nhưng ở đây, chỉ xin bàn đến một trong những quyền cơ bản nhất của con người: Quyền được sống.

Có lẽ, chưa có nước nào mà người dân lại dễ dàng sở hữu súng đạn như ở Mỹ. Cũng chính từ sự lỏng lẻo trong việc kiểm soát súng đạn, bắt nguồn từ chính sách lợi ích nhóm, Mỹ đã “vinh dự” được sở hữu vị trí “quán quân” về số người chết do bạo lực trong số 17 quốc gia phát triển được khảo sát. Với 310 triệu khẩu súng đang lưu hành tự do trên thị trường, số người chết hằng năm vì súng đạn ở Mỹ lên đến hàng chục, thậm chí hàng trăm nghìn người với những vụ xả súng dường như đã trở thành “cơm bữa”.

Ấy vậy mà cho tới giờ, sau quá nhiều cái chết oan uổng, giới làm luật ở xứ Cờ hoa mới chỉ “quyết tâm” bỏ phiếu tán thành việc thảo luận một dự luật an toàn súng đạn. Nhưng, đó mới chỉ là thảo luận, bởi còn nhiều rào cản đến từ những khoản “đóng góp” mà giới chính khách trót nhận từ giới vận động hành lang. Và từ giờ cho tới khi dự luật (may mắn) được thông qua, ai biết được sẽ còn bao nhiêu cái chết oan uổng vì những “cân đo đong đếm” giữa lương tâm và “đồng bạc xanh” của những chính khách Mỹ? Vậy thì quyền cơ bản nhất của người dân Mỹ ở đâu khi mạng sống của đa số họ lại phụ thuộc vào một nhóm thiểu số?

Quay trở lại vấn đề nhân quyền ở Việt Nam. Báo cáo năm 2012 của Bộ Ngoại giao Mỹ nhấn mạnh rằng, “tình hình nhân quyền Việt Nam trong năm qua đã xấu đi…”. Như thế nào là xấu?

Nhân quyền là vấn đề rộng lớn mang tính nhân văn xã hội. Chính vì thế, một báo cáo về tình hình nhân quyền muốn có sức thuyết phục, trước hết phải dựa trên những đánh giá về những việc mà Chính phủ, quốc gia đó đã làm để người dân có cuộc sống ngày càng đầy đủ hơn cả về vật chất và tinh thần, nhất là ở những nước nghèo, đang phát triển. Đó là những nội hàm rất cơ bản của nhân quyền. Thế nhưng, các nhà soạn thảo báo cáo nhân quyền của Bộ Ngoại giao Mỹ lại chỉ dựa trên những thông tin một chiều mang tính chất định kiến, vô trách nhiệm và áp đặt. Báo cáo đã chỉ trích Việt Nam về “hạn chế quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí”; thậm chí đánh đồng những kẻ vi phạm pháp luật bị xử lý với các “nhà hoạt động chính trị”. Đáng nói là, những “nhà hoạt động chính trị”  được gắn mác là “bất đồng chính kiến”, mà bản báo cáo tung hô lại là những kẻ thời gian qua đã có nhiều hành động chống phá Nhà nước Việt Nam. Việc chính quyền các cấp có những biện pháp ngăn chặn những hành vi chống đối đó, không phải là vi phạm nhân quyền, mà chính là nhằm cho người dân được sống trong đất nước hòa bình, ổn định – một trong những quyền thiêng liêng nhất của con người.

Thời gian qua, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn đáng tự hào trong việc bảo đảm quyền con người trên tất cả các lĩnh vực dân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, được LHQ và cộng đồng quốc tế ghi nhận. Ðó là những thành tựu không thể phủ nhận trong việc thực hiện hiệu quả các Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ (MDGs); giảm nhanh tỷ lệ đói nghèo, nâng cao mức sống mọi mặt cho người dân, đồng thời thực hiện hiệu quả các công ước về bảo đảm quyền phụ nữ, trẻ em. Chỉ số phát triển con người của Việt Nam liên tục trong những năm gần đây được nâng lên. Báo cáo về phát triển con người năm 2013 của Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) công bố hôm 17-4 cho biết, Việt Nam là nước đứng thứ ba trong ASEAN về chỉ số bình đẳng giới, đồng thời đứng thứ 48 trên toàn thế giới về chỉ số này.

Bên cạnh đó, mọi quyền của người dân Việt Nam, trong đó có quyền làm chủ, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do tôn giáo… đều được Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước CHXHCN Việt Nam bảo đảm. Nhà nước Việt Nam luôn tạo điều kiện để báo chí phát triển bằng cách tạo dựng khuôn khổ pháp lý đầy đủ và chính sách thuận lợi nhằm bảo đảm tự do báo chí và tự do ngôn luận. Điều phối viên thường trú LHQ tại Việt Nam, bà Pratibha Mehta trong cuộc trả lời phỏng vấn báo giới đầu tháng 4 vừa rồi đã nhận xét, Việt Nam đã không ngừng cải thiện hệ thống pháp luật và tư pháp, xây dựng một nhà nước pháp quyền, tăng cường các thể chế quốc gia bảo vệ quyền con người. Trước đó, Nghị sĩ E.Faleomavaega – thành viên Ủy ban Đối ngoại Hạ viện Mỹ, trong chuyến thăm Việt Nam tháng 12 năm ngoái, cũng đánh giá rằng, Việt Nam đang làm tất cả những gì tốt nhất cho vấn đề nhân quyền. Lời nói của những người có uy tín như thế liệu đã đủ để Bộ Ngoại giao Mỹ thay đổi cách nhìn và cách tiếp cận về vấn đề nhân quyền ở Việt Nam hay chưa?

Không phủ nhận rằng, vẫn còn những điều bất cập trong đời sống kinh tế-xã hội ở Việt Nam, ví dụ như nạn tham nhũng, tình trạng quan liêu…. Nhưng đó là những vấn đề mà bất cứ một xã hội nào trong quá trình phát triển của mình cũng phải đối mặt. Và Việt Nam đang nỗ lực hoàn thiện hệ thống tư pháp của mình để đẩy lùi và xử lý triệt để tệ nạn này.

Cũng không phủ nhận rằng, giữa Việt Nam và Mỹ đang tồn tại một khoảng cách nào đó về nhân quyền. Điều này bắt nguồn từ nhiều lý do, như sự khác biệt về văn hóa, về truyền thống lịch sử, trình độ phát triển… Nhưng cần phải nói rõ rằng, thực hiện về nhân quyền ở mỗi nước dựa trên những đặc thù về lịch sử văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng, điều kiện kinh tế-xã hội của mỗi quốc gia. Không có một quốc gia nào trên thế giới được coi là hình mẫu nhân quyền cho quốc gia khác. Do vậy, không thể áp đặt hoặc sao chép máy móc các tiêu chuẩn về quyền con người của nước này cho nước khác.

Với tinh thần hòa hiếu, Việt Nam luôn sẵn sàng hợp tác và đối thoại với các nước và các tổ chức quốc tế, trong đó có Mỹ về các vấn đề còn có những cách nhìn khác biệt, trong đó có vấn đề quyền con người. Trong bối cảnh quan hệ Việt Nam – Mỹ không ngừng phát triển như hiện nay, thiết nghĩ, việc cần làm là tăng cường đối thoại và hiểu biết lẫn nhau, thu hẹp bất đồng. Có như vậy, quan hệ hợp tác Việt Nam – Mỹ mới được thúc đẩy và phát triển, đáp ứng lợi ích của nhân dân hai nước.

SONG ANH
qdnd.vn