Cùng hướng về mặt trời chính nghĩa

QĐND – LTS: Tháng 10-2003, NXB Si-mơn & Sút-xtơ (Simon & Schuster) xuất bản cuốn sách “Họ tiến về hướng mặt trời: Chiến tranh và hòa bình, Việt Nam và Mỹ, tháng Mười 1967”. Tác giả Đê-vít Ma-ra-nít (David Maraniss) đã song hành hai mặt trận khác nhau của cuộc chiến tranh ở Việt Nam: Cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam và cuộc đấu tranh của các chiến sĩ hòa bình Mỹ. Trên chuyên mục điểm sách của Thời báo Niu-Yoóc, tác giả Phi-líp Ca-pu-tô (Philip Caputo) phê bình cuốn sách trên. SK & NC xin trích giới thiệu một bài bình văn tiêu biểu trong văn học Mỹ.

Trước khi đọc cuốn sách này, tôi đồ rằng mọi thứ nhân gian cảm nhận được về thời cuộc chiến tranh Việt Nam với thập kỷ 60 đã viết hết rồi: Nào là văn học hư cấu (fiction) nào là chuyện người thật việc thật (nonfiction), cả bằng văn hóa cao, lẫn văn hóa “lùn”, cả bằng thể phim truyện, cả bằng những phóng sự truyền hình.

Những “con sư tử đen” sa bẫy tại rừng Long Nguyên.

Tôi đã khá lưỡng lự khi mở cuốn Họ tiến về hướng mặt trời: Chiến tranh và hòa bình, Việt Nam và Mỹ, tháng Mười 1967. Lại một cuốn nữa, to như đá chặn cửa, về cuộc chiến tranh Việt Nam và những năm 60, tôi nghĩ. Nhưng mới đọc được ba trang thì tôi đã bị hút vào cho đến trang cuối…

Ma-ra-nít, một ký giả của Báo Bưu điện Oa-sinh-tơn (Washington) được giải Pu-lít-dơ (Pulitzer), cũng là tác giả của tiểu sử Bin Clin-tơn (Bill Clinton) và Vin-xơ Lom-bác-đi (Vince Lombardi-huấn luyện viên nổi tiếng), là một nhà văn bậc thầy về thức trần thuật. Trong “Họ tiến về hướng mặt trời”, Ma-ra-nít đã đặt song song các sự kiện của một trận đánh nhỏ nhưng ác liệt ghê gớm ở Việt Nam, với một cuộc tuần hành chống chiến tranh ở Đại học Uýt-con-xin (Wisconsin), trong hai ngày tháng 10-1967. Quả là một sự trùng hợp mà tác giả hẳn đã cảm thấy bị hút vào, không sao cưỡng lại.

Cuốn sách chứa một khối lớn, theo phong cách Tôn-xtôi (Tolstoi), các tuyến nhân vật, từ viên cai Uyn-li Giôn-xơn (Willie Johnson) tới Tổng thống Lyn-đơn Giôn-xơn (Lyndon Johnson), từ anh du kích Việt Cộng Nguyễn Văn Lam cho tới Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam, Đại tướng Võ Nguyên Giáp; từ Bin-ly Si-mơn (Billy Simons), người lãnh đạo sinh viên phản chiến, đến Uy-li-am Si-oen (William Sewell), Hiệu trưởng Đại học Wisconsin. Còn lại là các doanh nhân, giáo sư, một dàn diễn viên mang tên Nhóm Kịch câm Xan-Phran-xi-xcô (San Francisco), các đảng viên Cấp tiến cánh tả Mới, và hai nghiên cứu sinh là Đích (Dick) và Lin-nơ Sơ-ni (Lynne Cheney).

Ma-ra-nít quả có bị thử thách khi cố làm cho toàn tuyến nhân vật hùng hậu ấy trở nên sinh động. Nhưng các nhân vật chính quả là sống động, tạo cho “Họ tiến về hướng mặt trời” một chất lượng kiểu mẫu cho tiểu thuyết. Đồng thời, tính sử thi của cuốn sách có lúc vượt quá tầm. Những cuộc du ngoạn trong các “cung điện” quyền lực ở Washington đã làm chậm, một cách không cần thiết, dòng chảy của sách, và làm tôi giật mình vì thấy chúng giống như nỗ lực xào xáo lại, một cách súc tích, cuốn sách “Những người tài hoa và cừ khôi nhất trần đời” (The Best and the Brightest)(1) của Đa-vít Han-bớc-xtam (David Halberstam)…

Ma-ra-nít đã phục chế lại những đường nét nguyên bản của bức tranh chiến tranh Việt Nam bằng cách rọi ánh sáng mới lên một sự thật bị quên lãng. “Phát ngôn ý thức hệ” (Ideological formulations) không phải là điều làm tác giả quan tâm, mà chính là “sự giao lưu giữa lịch sử và cuộc đời của các nhân vật, các biến cố, các tình tiết và các dự định, vừa thúc người ta lao lên phía trước, lại vừa níu họ, bắt cùng chôn chân tại chỗ”.

Chương chiến tranh của sách mở đầu bằng một tấm hình gây cảm tưởng như những bức ảnh được truyền đi bằng điện báo thời Thế chiến II, thể hiện hành trình của một con tàu chở hàng nghìn lính vượt Thái Bình Dương sang Việt Nam. Sau khi đoàn lính này đáp cảng Vũng Tàu, người đọc sẽ dõi theo những hành động chiến tranh của nó. Đó là một tiểu đoàn có cái tên đã di vào truyền thuyết là “Sư tử đen”, một phần của cái Sư đoàn bộ binh 1 đã được thần thánh hóa thành Anh Cả Đỏ.

Tiểu đoàn được chỉ huy bởi Trung tá Te-ri đơ la Mê-sa An-len Jr. (Terry de la Mesa Allen Jr.), sinh trưởng ở El Paso, Tếch-xát (Texas), trong một gia đình đã là thần tượng nhà binh: Thiếu tướng Terry Allen Sr. từng chỉ huy Sư đoàn 1 trong suốt những trận đánh ác liệt nhất của thế chiến II. Allen Jr. đã bày tỏ sẽ tiếp nối những bước đi hoành tráng của người cha. Nhưng vợ của Allen Jr. đã bỏ viên quan tư này để theo một võ sĩ đấu bò, khiến anh ta bị giày vò bởi những nghi ngờ về cuộc chiến tranh ở Việt Nam và binh nghiệp của mình.

Tác giả chuyển cảnh, sang Sở chỉ huy của đối phương, để người đọc gặp Võ Minh Triết, chỉ huy một đơn vị thuộc một luồng sự kiện khác của sách: Trung đoàn 1, Sư đoàn 9 của Việt Cộng. Trung đoàn với 1.500 quân của ông Triết đang trú quân tạm thời tại một cánh rừng dữ dội, mang một cái tên dữ dội là ‘mật khu Long Nguyên”, nằm ở phía tây bắc Sài Gòn.

Chịu sức ép của thượng cấp trong cuộc chạy đua số lớn về đếm xác đối phương, Allen dẫn những con “sư tử đen” vào địa ngục. Một tiểu đoàn (Mỹ) thường có khoảng 800 quân, nhưng chiến trận, bệnh tật và các vấn đề cá nhân đã giảm quân số của tiểu đoàn “Sư tử đen” xuống chỉ còn một nửa. Một nửa của cái nửa ấy: Hai đại đội thiếu, cộng với đại đội trực thuộc sở chỉ huy đã kiệt sức, đã dấn vào cuộc hành quân “tìm diệt” cùng với Allen.

Lính của ông Triết, đông hơn nhiều, đang phục sẵn. Điều trớ trêu là, vẫn theo Tôn-xtôi, những trận đánh nhiều khi không thành hay bại bởi sự sáng suốt hay đần độn của người chỉ huy, mà bởi những sự tình cờ. Trung đoàn của Võ Minh Triết không được giao nhiệm vụ mai phục ở đấy, mà được lệnh hành quân đi Lộc Ninh. Nửa đường hết lương thực, đơn vị này đành tạm trú ở mật khu Long Nguyên để tìm gạo. Để hoàn thành nhiệm vụ tiến quân về Lộc Ninh, ông Triết phải chỉ huy bộ đội quét sạch lính Mỹ cản đường mình, điều mà ông đã thực thi với một cung cách kiểu mẫu, như trong tài liệu giáo khoa.

Cảnh sát đàn áp những người biểu tình chống chiến tranh. Madison, tháng 10-1967.

Sách của Ma-ra-nít đã diễn tả một cuộc chiến tranh của lục quân thực sự: Những tiếng nổ khủng khiếp, sự rối loạn, hỗn độn, các xác chết, những người hấp hối và những mảnh cơ thể vương vãi khắp nơi, máu tuôn trào khiến cho súng bị kẹt. 58 người trong số 200 quân của “Sư tử đen”, kể cả Allen, bị thiệt mạng. 61 lính Mỹ khác bị thương.

Tiểu đoàn “Sư tử đen” đã không còn tồn tại như một đơn vị còn sức chiến đấu, nhưng Ma-ra-nít đã đi xa hơn khi chỉ ra rằng bộ tuyên truyền của quân đội Mỹ đã cố nhào nặn các sự kiện để biến một thảm kịch thành một bài ca chiến thắng. Những lời nói dối khủng khiếp ấy đã tương phản cả với ký ức về trận đánh của những người lính còn sống sót của tiểu đoàn, được họ kể lại sau khi hồi phục ở quân y viện, lẫn những trải nghiệm đã đến với thân nhân của lính Mỹ tử trận, khi nhìn thấy bộ dạng khiếp đảm của người bưu tá cầm giấy báo tử.

Chương nói về cuộc chiến của những người chống chiến tranh, mà kết tinh là thành phố sinh viên Madison, cũng rất lôi cuốn. Cuộc tuần hành được tổ chức để ngăn chặn việc Công ty Đao (Dow) sản xuất bom na-pan tới tuyển nhân sự ở Làng đại học Madison. Tựa như những “sư tử đen” của Allen sa bẫy trong rừng rậm Việt Nam, những người phản chiến, cảnh sát, và các quan chức của đại học Wisconsin đã dấn vào một cuộc đụng độ bạo lực. Nguyên nhân là sự tính toán nhầm và thiếu giao lưu giữa các bên của cuộc xung đột Madison.

Hướng đạo bởi một thiểu số kiên định là những thành viên hăng hái nhất của phong trào phản chiến, bị bức xúc bởi sự khiếm khuyết của các hành động phản kháng hợp luật, những người biểu tình đã chiếm tòa nhà nơi các nhân viên của Công ty Đao đang tiến hành phỏng vấn. Sau khi không thuyết phục nổi những người phản đối chiến tranh rời khỏi tòa nhà trong hòa bình, Hiệu trưởng trường đại học đã viện đến lực lượng cảnh sát của Madison, dẫn đến những hậu quả thảm khốc. Maraniss đã tránh không “đúc khuôn” các thành viên ban giám hiệu, các chỉ huy cảnh sát, và các thành viên cánh tả Mới đã lãnh đạo những người phản đối chiến tranh… Những người biểu tình được mô tả có phần tròn trịa, bị kích động bởi một hỗn hợp của chủ nghĩa vị tha, cảm tính, chủ nghĩa cá nhân, và niềm tin vào công lý.

Cuối cùng, các vấn đề được tranh cãi nóng bỏng và kịch liệt 40 năm trước vẫn vang dội đến hôm nay: về vai trò của Hoa Kỳ đối với thế giới, về những tham vọng đế quốc, về sự rồ dại của mô hình “súng và bơ”(2), và về những di sản gớm giếc về đạo đức của chiến tranh…

Lê Đỗ Huy (trích dịch)
qdnd.vn

 (1): Trong “Những người tài hoa và cừ khôi nhất trần đời”, tác giả David Halberstam lý giải vì sao những người có học thức và khá giả trong xã hội Mỹ (tầng lớp thượng lưu), cũng như những “bộ óc điện tử” trong chính giới và giới quân sự lại có thể sai lầm một cách đáng kinh ngạc trong một thời gian dài như thế (so incredibly wrong for so incredibly long) của thời kỳ chiến tranh Việt Nam.

(2): Tổng thống Johnson vừa muốn theo đuổi hành động chiến tranh ở Việt Nam, chạy đua vũ trang, làm chiến tranh Lạnh, lại vừa muốn thực hiện Những chương trình xã hội lớn (Great Society programs) nhằm “xóa đói giảm nghèo” (!)