QĐND – Năm 1952, khi phe diều hâu ở Oa-sinh-tơn đang đẩy mạnh cuộc can thiệp quân sự vào Việt Nam, các báo Mỹ đột ngột đưa tin Trưởng phái bộ quân sự Mỹ ở Sài Gòn, tướng Brinh “tự sát” trong một tình huống không rõ ràng. Tướng Brinh có phải là nạn nhân của một âm mưu “diệt khẩu”, hay thậm chí là quân nhân Mỹ “phản chiến” đầu tiên, như dư luận đồn đoán? Năm 2012, tròn 60 năm sau sự kiện trên, liệu Nhà Trắng có giải mật nguyên nhân cái chết này?
Khi “Việt cộng” tiến công cư xá Brink đúng đêm Nô-en 1964, truyền thông phương Tây mới chợt nhớ về cái chết kỳ quặc của một tướng Mỹ xảy ra vào trước đó một giáp – thời kỳ Oa-sinh-tơn nhúng tay vào Đông Dương, để cấp cứu “ông bạn” Pháp đang “chìm tàu” ở đây. Đó là tướng Phrăng-xít Brinh (Francis Brink) (1893–1952).
Tướng Phrăng-xít Brinh (1893 – 1952). Nguồn: http://www.generals.dk
Trái với một truyền thống rùm beng về quân sử, các trang tư liệu, lưu trữ của Hoa Kỳ về một người hùng trận mạc như tướng Brinh có vẻ sơ sài. Chỉ thấy nói ông ta tốt nghiệp trường quân sự có tiếng Coóc-neo (Cornell), từng nổi danh trong các cuộc chiến thuộc nửa đầu thế kỷ XX của Mỹ. Brinh đã từng giảng về chiến thuật quân sự ở Đại học quốc gia Lu-i-di-a-na (Louisiana) 1928-1934, nơi ông cũng làm huấn luyện viên quyền anh.
Cuối thế chiến II, Brinh được vinh thăng chuẩn tướng trên cương vị Trưởng phòng Tác chiến của Bộ chỉ huy chiến trường Đông Nam Á. Nơi đây đã xảy ra các chiến dịch của quân Mỹ tại Miến Điện (Burma, nay là Mi-an-ma) với các xung đột chống quân Nhật ở Thái Lan và Ma-lai-xi-a.
Chọn mặt gửi vàng
Nhân những cơn lốc chiến tranh lạnh, Oa-sinh-tơn ra mặt bênh vực quyền lợi thực dân của Pháp ở Đông Dương, những quan tâm nửa vời về độc lập cho các dân tộc thuộc địa ở đây của Tổng thống Ru-giơ-ven ở Cai-rô và Tê-hê-ran (1943) đã chìm vào sương mờ quá khứ. Viện trợ Mỹ cho Pháp bắt đầu bằng 10 triệu đô-la năm 1950 và vọt lên trên 1 tỷ đô-la năm 1954, chiếm tới 78% chiến phí của Pháp ở Đông Dương.
Hiện thực hóa một ý đồ của kế hoạch Rơ-ve (Revers) (1949) là ngụy tạo “chủ quyền” cho các chính quyền bù nhìn, tại Sài Gòn ngày 23-9-1950, đã rùm beng lễ ký các Hiệp định quân sự giữa Mỹ với Pháp và các “chính phủ thuộc khối Liên hiệp Pháp” ở Đông Dương. Theo quân sử Mỹ, từ đây đã thiết lập được nền móng cho viện trợ quân sự và kinh tế của Mỹ đổ vào Đông Dương. Cơ chế hành chính của nó là Phái bộ hiệp trợ và cố vấn quân sự Mỹ (viết tắt là MAAG). MAAG do tướng Brinh cầm đầu từ 10-10-1950, với chức trách là quản trị chương trình viện trợ Mỹ cho Đông Dương, và bảo đảm hậu cần cho “quân đội thuộc Khối liên hiệp Pháp”. Huấn luyện cho “quân đội Việt Nam” (ngụy) vẫn do Pháp thực hiện.[1]
Nửa chừng xuân…
Học giả hôm nay không được ưu ái về tư liệu lưu trữ về vụ tướng Brinh “tự tử” xảy ra vào sáng 24-6-1952 ngay tại Lầu Năm Góc. Tin này hầu như được đưa một lần với nội dung gần như nhau cùng ngày 25-6-1952, trên hầu hết các báo địa phương, không mấy tên tuổi.
Cụ thể, báo Ban Ngày (The Day) ra 25-6-1952 tiết lộ rằng, bạn bè của tướng Brinh nói nguyên nhân là do ông ta “đã vô cùng thất vọng với tình hình ở Đông Dương, nhưng lại không biết làm gì (để cải thiện)” (“…Brink had been badly depressed but that the Indochina situation had nothing to do with it”); rằng khẩu súng ngắn Brinh dùng tự sát “cỡ nhỏ”, nên nhà đương cục cho rằng ông ta vẫn đủ sức chịu đựng để tự thực hiện tới ba phát bắn, đến khi chết hẳn[2]. Báo Trạng sư vùng Victoria (Victoria Advocate), bang Tếch-xát (Texas), nói thêm Tổng tham mưu trưởng quân đội Mỹ, tướng Lao-tơn Côn-lin (Lawton Colins) gần như là chứng nhân của vụ này vì phòng làm việc của Brinh nằm cùng tầng với phòng của Côn-lin. Ca ngợi Brinh là một quân nhân tận tụy, tướng Côn-lin dường như cho rằng viên thủ trưởng MAAG tuẫn tiết vì đã “kiệt sức khi cáng đáng đặc nhiệm này”[3].
Tướng Brinh vừa mới từ Sài Gòn về Oa-sinh-tơn dự một hội nghị quân sự liên quan đến tình hình quân sự phía Đông (gồm cả chiến trường Đông Dương). Các báo cho hay, nhân viên điều tra các vụ đột tử (coroner) của khu vực, ông Ma-grút-đơ Mác Đô-nan (A.Magruder McDonald) nói rằng, có thể tướng Brinh tự sát thật, nhưng ông chưa đưa ra kết luận chính thức cho đến khi kết thúc điều tra.
Những phát súng trong sương mù
Việc tìm kiếm các kết luận pháp lý chính thức về cái chết của tướng Brinh bằng truy cập qua lưu trữ truyền thông Mỹ không có kết quả. Một trang điện tử điều tra về các vụ việc tiêu cực trong quân đội Mỹ[4] cũng khẳng định, rằng gần 6 thập kỷ đã qua, nhưng “vụ tướng Brinh” vẫn thuộc khái niệm sương mù chiến tranh.
Sách “Nhận thức chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam: Truyền thuyết, bóng tối, người hùng”, Nxb Christopher Pub House (1998).
Militarycoruption.com đưa ra một loạt những câu hỏi nhưng tờ báo điện tử chuyên về các vụ bê bối trong quân đội Mỹ này chưa hề được câu trả lời. Thứ nhất, tới nay không có nguồn nào nói rõ có dấu ngón tay của tướng Brinh trên cò khẩu súng được xem là đã được ông ta dùng để tự sát hay không? Thứ hai, “chẳng ai dám to giọng hỏi xem tại sao một quân nhân làm đến cấp tướng lại cố bắn được tới ba phát đạn súng lục cỡ nhỏ vào ngực mình”, trong khi ai cũng biết chỉ cần một viên đạn súng Colt tự động 45 bắn vào hàm dưới đem lại hiệu quả cao hơn, Militarycoruption.com chia sẻ sự thắc mắc đó.
Cuối cùng, không có một hồ sơ nào về cái chết của tướng Brinh được lưu tại quê nhà ông. Văn phòng Các vụ đột tử cho hay, toàn bộ giấy tờ của vụ này đã được chuyển về Bộ Quốc phòng. Để rồi năm 1973 (năm Nhà Trắng buộc phải ký Hiệp định Pa-ri), toàn bộ các hồ sơ bệnh sử và cả biên bản điều tra vụ chết bất thường theo luật định (coroner) đã bị hủy hoại trong một hỏa hoạn tại Trung tâm Lưu trữ quân sự tại Xanh Lu-i (St. Louis), bang Mi-du-ri (Missouri), theo sách “Nhận thức chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam: Truyền thuyết, Góc khuất, và người hùng” (Vietnam Military Lore: Legends, Shadows & Heroes) của tác giả Rây Bao-dơ (Ray Bows).
Tướng Brinh đã không hề để lại thư tuyệt mệnh. Ngay trước khi xảy ra vụ tự sát, viên tướng này còn gọi điện cho Lây-la-ni (Leilani) con gái mình, báo ông sắp tới thăm gia đình cô. Phu nhân tướng Brinh lúc đó vẫn ở Sài Gòn. Lây-la-ni nói chưa bao giờ thấy cha mình đeo súng phòng thân hay vũ khí cá nhân. Bà cũng cho biết, ban đầu gia đình đã được quân đội Mỹ cho hay tướng Brinh “đã tự bắn xuyên qua miệng”, rằng quân đội Mỹ sau đó đã không thể đưa ra một tường thuật mạch lạc vụ việc này. Các thành viên khác của gia đình cũng cho biết đã cố tìm hiểu nguyên nhân cái chết đầy bí hiểm (mystery) của tướng Brinh, nhưng vô vọng. Cháu của viên tướng này nói với tác giả Rây Bao-dơ rằng trong lễ tang “Ở Oa-sinh-tơn, không ai muốn nói gì về chuyện này (vì sao tướng Brinh tự sát)”.
60 năm mồ yên mả lặng?
Nay nhìn lại, tờ báo điện tử Militarycoruption.com cho rằng tướng Brinh chẳng có cớ gì đến nước phải tự vẫn. Cho dù ai đó loan trên truyền thông thời 1952, rằng viên tướng này chán đời do bệnh tật, nên đã tự bắn 3 viên đạn vào người ngay trên bàn làm việc. “Vụ này kết luận rồi, hãy tiến về phía trước” người ta khuyên. Tờ Militarycoruption.com không hiểu vì sao viên tướng này lại giấu vợ con chuyện mình bị “trọng bệnh”, và nếu ai bị bệnh như tiểu đường, xơ cứng động mạch cũng tự sát thì thế giới này đã đầy xác chết…
Con một người bạn của tướng Brinh kể lại: “Trong lần cuối cùng từ Đông Dương về tới thăm cha tôi, Phrăng-xít Brinh bảo cha tôi rằng tình hình Việt Nam rất đáng lo ngại, và quan điểm của ông ta không được ưa chuộng… Ông ta cảm thấy cuộc sống của mình có thể bị đe dọa, do biết quá nhiều”.
Rây Bao-dơ viết: “Tướng Brinh là một quân nhân đúng nghĩa, ông ta hiểu rõ sự khác biệt giữa các quân lệnh hợp luật và không hợp luật… chắc là ông ta đã khăng khăng đưa các vụ việc, như buôn lậu thuốc phiện (dùng máy bay quân sự) và vũ khí Mỹ (mà người Pháp làm ở Đông Dương) ra Quốc hội Mỹ và Nhà Trắng”. “Bảo vệ” Pháp lúc đó đồng nghĩa với thực hiện học thuyết Truman – “chống sự xâm lược trực tiếp và gián tiếp của cộng sản”.
Brinh chết, tướng Tô-mát Tráp-neo (Thomas Trapnell) sang nhậm chức đứng đầu MAAG, cổ động cho quan điểm tăng cường sự có mặt của Mỹ ở Đông Dương. Tiếp sau là những gì, thì cả thế giới đều biết.
Militarycoruption.com nói rõ hơn, cho rằng nếu tướng Brinh kịp tiết lộ những điều ông biết ra công luận Mỹ, “hẳn là cuộc thảm sát dài hạn dành cho nước Mỹ ở Việt Nam đã được ngăn chặn”.
Ai đó sẽ bảo rằng vẫn chỉ là những giả thuyết mà thôi. Nhưng công luận Mỹ vẫn tự hỏi[5] vì sao lại có những nỗ lực bất thường đến thế để gia cố những bức tường yên lặng đáng sợ bao quanh nấm mồ của tướng Brinh trong suốt sáu thập kỷ?
Lê Đỗ Huy (tổng hợp)
qdnd.vn
[1] http://www.history.army.mil/books/Vietnam/Comm-Control/ch01.htm
[2]http://news.google.com/newspapers?nid=1915&dat=19520625&id=gewgAAAAIBAJ&sjid=PHIFAAAAIBAJ&pg=5135,3936073
[3]http://news.google.com/newspapers?nid=861&dat=19520625&id=NSocAAAAIBAJ&sjid=yVoEAAAAIBAJ&pg=6678,6459970
[4]http://www.militarycorruption.com/brink.htm
[5]http://www.militarycorruption.com/brink.htm