Cách mạng tháng Tám (19/8/1945) và Quốc khánh nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (02/9/1945)

I. Cách mạng Tháng 8 năm 1945 – sự kiện vĩ đại của dân tộc và cách mạng Việt Nam.

1. Bối cảnh lịch sử và diễn biến

1.1. Diễn biến chung trong cả nước

Đầu năm 1945, quân đội Xô Viết liên tiếp giành thắng lợi quyết định trên chiến trường Châu Âu, giải phóng một loạt nước. Ngày 16/4/1945 chiến dịch tiến công Beclin thắng lợi, phát xít Đức buộc phải ký văn bản đầu hàng Liên Xô và các nước đồng minh vô điều kiện, lò lửa chính của chiến tranh thế giới thứ hai bị dập tắt. Ngày 8/8/1945 Liên Xô tuyên chiến với Nhật. Chiến thắng của Hồng quân Liên Xô và các lực lượng chống phát xít đối với quân phiệt Nhật đã chấm dứt chiến tranh thế giới thứ hai, tạo điều kiện cho nhân dân các nước thuộc địa và nửa thuộc địa châu Á trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.

Trong nước, trải qua nhiều thử thách cam go và các cuộc diễn tập quan trọng như Cao trào Xô – Viết Nghệ Tĩnh 1930 – 1931, Cao trào Dân chủ 1936 – 1939, phong trào kháng Nhật cứu nước ngày càng dâng lên mạnh mẽ.

Tình hình quốc tế, trong nước có nhiều thuận lợi đòi hỏi Đảng ta phải có những quyết sách sáng suốt nhằm đẩy mạnh công tác chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền.

Ngày 9/3/1945, Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương mở rộng quyết định phát động phong trào kháng Nhật, cứu nước. Ngày 12/3/1945 ban hành rộng rãi Chỉ thị “Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Chỉ thị quan trọng này đã thể hiện sự lãnh đạo kiên quyết, chủ động và sáng tạo của Đảng, chỉ rõ phương hướng và biện pháp hành động cách mạng đúng đắn trong cao trào kháng Nhật, cứu nước, mở đường đưa Cách mạng Tháng Tám đến thắng lợi.

Từ ngày 15 đến ngày 20/4/1945, Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ họp, quyết định phát triển lực lượng vũ trang, nửa vũ trang và thống nhất các lực lượng vũ trang thành Việt Nam giải phóng quân, xây dựng 7 chiến khu chống Nhật trong cả nước.

Ngày 16/4/1945, Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị “về việc tổ chức các Ủy ban Dân tộc giải phóng” và chuẩn bị thành lập Ủy ban giải phóng dân tộc Việt Nam, tức Chính phủ lâm thời cách mạng Việt Nam.

Từ tháng 4/1945 trở đi, cao trào kháng Nhật, cứu nước dâng lên mạnh mẽ, lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang phát triển nhanh, phong trào đấu tranh vũ trang kết hợp với đấu tranh chính trị và khởi nghĩa từng phần diễn ra khắp các địa phương. Nhiều hoạt động được đẩy mạnh như tuyên truyền xung phong có vũ trang cướp kho thóc của Nhật để cứu đói, xây dựng các đội tự vệ vũ trang du kích cứu quốc, mở trường đào tạo cấp tốc cán bộ quân sự, phát động chiến tranh du kích ở những nơi có đủ điều kiện, giải phóng từng vùng, mở rộng căn cứ địa cách mạng… Các lực lượng cách mạng đã phối hợp với quần chúng giải phóng một loạt các xã, châu, huyện thuộc các tỉnh: Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Quảng Ngãi, Bắc Giang.

Ngày 12/8/1945, Ủy ban chỉ huy lâm thời Khu giải phóng ra mệnh lệnh khởi nghĩa. Ngày 13/8/1945, Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc ra Quân lệnh số 1, hạ lệnh tổng khởi nghĩa. Ngày 14 và 15/8/1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng bàn kế hoạch phát động và lãnh đạo cuộc khởi nghĩa.

Ngày 16/8/1945, Quốc dân Đại hội tại Tân Trào đã nhiệt liệt tán thành và ủng hộ chủ trương Tổng khởi nghĩa của Đảng, thông qua 10 chính sách lớn của Mặt trận Việt Minh, thành lập Ủy ban Giải phóng dân tộc Việt Nam do đồng chí Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân cả nước ta đồng loạt đứng dậy, tiến hành cuộc khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.

Cuộc Tổng khởi nghĩa diễn ra nhanh chóng và mạnh mẽ, chúng ta đã giành một phần ở miền Nam và ở các thị xã Bắc Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh, Hội An, QuảngNam. Thắng lợi của cuộc khởi nghĩa ở Hà Nội ngày 19/8 đã cổ vũ và thúc đẩy mạnh mẽ các tỉnh, thành phố khác vượt qua mọi khó khăn, gấp rút nổi dậy giành chính quyền. Ngày 23/8 khởi nghĩa thắng lợi ở Huế và các thị xã: Bắc Cạn, Hòa Bình, Hải Phòng, Hà Đông, Quảng Trị, Quảng Bình, Bình Định, Lâm Viên, Gia Lai, Tân An, Bạc Liêu. Thắng lợi của khởi nghĩa Sài Gòn ngày 25/8 có ảnh hưởng quyết định đối với khởi nghĩa ở các tỉnh miền Nam như Sóc Trăng, Vĩnh Long, Thủ Dầu Một, Châu Đốc, Trà Vinh, Biên Hòa, Tây Ninh, Bến Tre, Sa Đéc… Ở Côn Đảo, Đảng bộ nhà tù Côn Đảo đã lãnh đạo các chiến sĩ cách mạng bị giam cầm nổi dậy giành chính quyền, làm chủ trên đảo.

Chỉ trong vòng 15 ngày cuối tháng 8/1945, Cuộc Tổng khởi nghĩa đã giành thắng lợi hoàn toàn. Lần đầu tiên trong lịch sử, chính quyền trong cả nước thuộc về tay nhân dân.

Ngày 2/9/1945, tại vườn hoa Ba Đình (Hà Nội), trước hàng chục vạn nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, tuyên bố trước quốc dân và thế giới: Nước Việt Nam dân chủ công hòa ra đời.

1.2. Ở Phú Thọ

Cuộc khởi nghĩa ở Phú Thọ diễn ra trong hoàn cảnh có nhiều thuận lợi rất cơ bản. Lực lượng cách mạng, bao gồm lực lượng chính trị quần chúng đông đảo và lực lượng vũ trang khá mạnh, đều đã qua thử thách và sẵn sàng chờ lệnh khởi nghĩa. Tiếng vang khởi nghĩa thắng lợi ở các tỉnh trong khu giải phóng, nhất là ở Hà Nội và các tỉnh khác dồn dập dội về. Trong tỉnh, quân ta đánh chiếm huyện Phù Ninh, khởi nghĩa thắng lợi ở hai huyện Hạ Hòa và Thanh Sơn, tước súng địch ở châu lỵ Đoan Hùng…càng thôi thúc nhân dân đứng lên khởi nghĩa giành chính quyền.

Tuy nhiên, Đảng bộ và nhân dân Phú Thọ cũng gặp không ít khó khăn. Phát xít Nhật tuy đã đầu hàng Đồng minh, những bọn Nhật ở Việt Nam không tự rời bỏ địa vị thống trị, không bao giờ tự nguyện trao lại chính quyền cho Việt Minh. Trái lại, chúng vẫn gây nhiều khó khăn cho ta, thậm chí ngày 22/8, bọn Nhật còn khủng bố nhân dân thị xã Phú Thọ. Mặt khác khi thời cơ khởi nghĩa đã đến thì nạn đói vẫn đang hoành hành, lại thêm nạn ngập lụt, vỡ đê chưa từng thấy, gây thiệt hại lớn về tài sản và tính mạng của nhân dân. Mặt trận Việt Minh, các đoàn thể cứu quốc các làng ven đê vừa phải lo chuẩn bị khởi nghĩa, vừa phải lo cứu đê, cứu nhân dân bị ngập lụt. Do lũ lụt nên giao thông, liên lạc giữa các cơ sở trong tỉnh, giữa tỉnh với Xứ ủy và Trung ương gặp nhiều khó khăn, công tác chỉ đạo khởi nghĩa gặp rất nhiều trở ngại. Về mặt chủ quan, khi Trung ương đã có lệnh tổng khởi nghĩa, nhưng tỉnh chưa có sự chỉ đạo tập trung, chưa có kế hoạch khởi nghĩa thống nhất, dẫn đến khởi nghĩa ở các huyện do từng đồng chí cán bộ phụ trách khu vực lãnh đạo tiến hành.

Mặc dù có nhiều khó khăn và lệnh khởi nghĩa của Trung ương về đến địa phương chậm, nhưng khi thời cơ đến, Ban cán sự Phú – Yên, cán bộ Đảng và Việt Minh phụ trách từng vùng đã chủ động huy động lực lượng tiến hành khởi nghĩa.

Ngoài hai huyện Hạ Hòa và Thanh Sơn đã khởi nghĩa từ đầu tháng 8, chỉ trong một tuần lễ (từ ngày 15 đến ngày 22 tháng 8 năm 1945), 9 huyện còn lại lần lượt khởi nghĩa.

Ngày 16/8 huyện Đoan Hùng khởi nghĩa; ngày 17/8, huyện Cẩm Khê, Phủ Thanh Ba khởi nghĩa giành chính quyền; ngày 18/8, khởi nghĩa huyện Tam Nông và châu Yên Lập; ngày 20/8 khởi nghĩa Hạc Trì và phủ Lâm Thao và ngày 22/8/1945, khởi nghĩa ở huyện Thanh Thủy. Như vậy đến ngày 22/8/1945 tất cả các phủ trong tỉnh đã hoàn thành khởi nghĩa giành chính quyền.

Sau khi khởi nghĩa giành chính quyền ở các huyện xong, chính quyền cách mạng và huyện bộ Việt Minh huy động lực lượng tự vệ tham gia khởi nghĩa giành chính quyền tỉnh và cử cán bộ về các làng xã lập Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời làng xã trong huyện; Ban cán sự Phú – Yên tập trung lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa giành chính quyền cấp tỉnh và thị xã Phú Thọ.

Thị xã Phú Thọ trong những ngày tháng Tám năm 1945, kẻ thù còn lực lượng đông, còn vũ khí và vẫn chống phá cách mạng đến cùng. Bọn Nhật thu quân ở Đoan Hùng và các tỉnh lân cận về tập kết tại đây. Trong những ngày 22 và 23 tháng 8, chúng cho quân đến các phố khủng bố và uy hiếp dân, tước súng của bảo an binh và nghi lực lượng này theo Việt Minh. Bọn việt gian, Đại Việt vẫn ngoan cố làm tay sai cho Nhật chống phá cánh mạng. Vì vậy, cuộc khởi nghĩa ở tỉnh gặp nhiều khó khăn, trở ngại, không nhanh chóng, thuận lợi như khởi nghĩa ở các huyện. Đảng ta đã nhận định đúng trước khi khởi nghĩa “Không phải Nhật bại mà bỗng nhiên ta được giải phóng, tự do” nhiều sự gay go, trở ngại sẽ xảy ra.

Trước tình hình đó, đồng chí ủy viên Ban cán sự Phú – Yên phụ trách Phú Thọ đã triệu tập đại diện các đơn vị lực lượng vũ trang trong tỉnh và đại diện đơn vị bộ đội giải phóng quân đóng tại Phú Thọ họp hội nghị quân sự tại nhà Đoàn (cạnh đền Đõm thị xã) chiểu 23/8. Hội nghị quân sự đã cử ra Ủy ban khởi nghĩa tỉnh và đặt các lực lượng vũ trang toàn tỉnh dưới sự chỉ huy thống nhất của Ủy ban khởi nghĩa tỉnh do đồng chí Lê Quang Ấn làm chủ tịch. Ngay tối hôm đó, hội nghị cán bộ Việt Minh các cơ sở trong tỉnh cũng được triệu tập họp tại đình Cao Du (thị xã Phú Thọ) để cử ra Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh và quyết định tiến hành khởi nghĩa tỉnh Phú Thọ vào ngày 25/8.

Sáng ngày 25/8/1945, theo đúng kế hoạch đã vạch ra, các thành viên Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh đã dẫn đầu từng đơn vị lực lượng vũ trang đến tiếp quản các công sở. Tỉnh trưởng Nguyễn Bách bị du kích bắt và giao nộp cho chính quyền cánh mạng. Một phái đoàn Việt Minh đến doanh trại Nhật báo cho chúng biết Việt Minh chính thức nắm chính quyền tỉnh Phú Thọ. Công việc chiếm đóng các công sở, xóa bỏ chính quyền bù nhìn tay sai Nhật diễn ra mau lẹ, thuận lợi. Sau đó, trong một cuộc mít tinh lớn, tổ chức tại sân vận động thị xã, hàng vạn nhân dân các dân tộc trong tỉnh tham dự, Ủy ban khởi nghĩa tỉnh đã long trọng công bố danh sách Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh Phú Thọ do đồng chí Phạm Huy Chữ làm chủ tịch, đồng chí Trần Văn Cần làm phó chủ tịch.

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, chấm dứt thời kỳ đen tối của các tầng lớp nhân dân dưới ách thống trị của đế quốc, tay sai, đưa nhân dân từ thân phận nô lệ trở thành người dân tự do, làm chủ vận mệnh của mình.

Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Phú Thọ là sự đóng góp to lớn của Đảng bộ và nhân dân Phú Thọ vào thắng lợi chung của cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền Cách mạng tháng Tám năm 1945 trên cả Nước, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á, mở đầu cho kỷ nguyên mới; kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội.

2. Nguyên nhân thắng lợi.

– Cách mạng Tháng Tám thành công do nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân quan trọng, có ý nghĩa quyết định là sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt, kiên quyết và khôn khéo của Đảng.

– Cách mạng Tháng Tám thành công do Đảng ta đã dày công rèn luyện lực lượng chủ lực của cách mạng là giai cấp công nhân, nông dân qua các cao trào cách mạng; đã khơi dậy và phát huy cao độ truyền thống yêu nước của dân tộc, tập hợp được đông đảo mọi tầng lớp nhân dân tham gia vào cuộc cách mạng.

– Thắng lợi của cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của nghệ thuật khởi nghĩa, nghệ thuật nhận thức được thời cơ, chủ động đón thời cơ và kiên quyết chớp thời cơ.

– Trải qua 15 năm đấu tranh cực kỳ gian khổ và anh dũng dưới sự lãnh đạo của Đảng, đã có biết bao đồng bào, chiến sĩ đã không hề tiếc máu xương, hy sinh oanh liệt vì mục tiêu độc lập dân tộc.

– Cuộc Cách mạng Tháng Tám được tiến hành trong bối cảnh quốc tế thuận lợi. Chủ nghĩa Phát xít Đức, Ý, Nhật đã bị đánh bại, phong trào đấu tranh giải phóng của các dân tộc bị áp bức và của các lực lượng tiến bộ trên thế giới phát triển mạnh.

3. Ý nghĩa lịch sử:

– Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945, nhân dân ta đã đập tan xiềng xích nô lệ của thực dân, đế quốc trong gần một thế kỷ và chế độ quân chủ chuyên chế mấy nghìn năm, lập nên nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa – nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Châu Á, nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ trở thành người dân một nước độc lập, làm chủ vận mệnh của mình. Nước Việt Nam từ một nước thuộc địa nửa phong kiến trở thành một nước độc lập, tự do và dân chủ. Đảng ta từ một đảng hoạt động bí mật, bất hợp pháp trở thành một Đảng cầm quyền. Từ đây, đất nước, xã hội, dân tộc và con người Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới; kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

– Cách mạng Tháng Tám đánh dấu một bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam. Đây là quá trình phát triển tất yếu của lịch sử dân tộc trải qua mấy nghìn năm phấn đấu, đỉnh cao của ý chí quật cường, sức mạnh cố kết cộng đồng, tầm cao trí tuệ của dân tộc hòa quyện với những tư tưởng cách mạng và khoa học của C. Mác, Ph. Ăngghen, V.I.Lênin, Hồ Chí Minh với xu thế của thời đại vì hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội, vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

– Với thắng lợi này, cách mạng nước ta đã chuyển sang một giai đoạn mới, nước ta không những trở thành một nước độc lập, tự do mà còn trở thành một trong những nước đi tiên phong trong việc xây dựng chế độ mới – chế độ dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã hội.

– Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám còn khẳng định rằng, trong điều kiện trào lưu của cách mạng vô sản, cuộc cách mạng do một đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo không chỉ có thể thành công ở một nước tư bản kém phát triển, nơi mắt xích yếu nhất của chủ nghĩa đế quốc mà còn có thể thành công ở ngay một nước thuộc địa nửa phong kiến lạc hậu để đưa cả dân tộc đó đi lên theo con đường của chủ nghĩa xã hội. Đây là sự phát triển đầy sáng tạo lý luận Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám cổ vũ phong trào đấu tranh của các dân tộc bị áp bức, báo hiệu một kỷ nguyên mới của loài người: kỷ nguyên độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội.

4. Một số bài học chủ yếu.

Cách mạng tháng Tám thành công, để lại cho cách mạng Việt Nam nhiều bài học quí báu, nhưng có thể nói bài học lớn nhất, sâu sắc nhất soi đường cho cách mạng Việt Nam vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, hoàn thành công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc cũng như trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đưa đất nước giành được những thành tựu quan trọng trong quá trình đổi mới, mở cửa và hội nhập quốc tế, đó là:

– Trước hết, phải có một đảng tiên phong thật sự cách mạng, tiếp thu được chủ nghĩa Mác – Lênin – đỉnh cao của trí tuệ thời đại được tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng, nắm vững hoàn cảnh cụ thể của từng giai đoạn cách mạng của đất nước, đề ra đường lối cách mạng đúng đắn, có phương pháp, hình thức đấu tranh phong phú, linh hoạt, biết nắm bắt thời cơ, xây dựng lực lượng và tổ chức, sử dụng lực lượng đúng lúc, huy động được sức mạnh của toàn dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để dẫn dắt quần chúng tiến lên giành và giữ chính quyền.

Cách mạng tháng Tám khẳng định rằng: nếu không có một đảng cách mạng, một vị lãnh tụ kiệt xuất, một bộ phận tham mưu tài giỏi, một lý luận tiên tiến, tư tưởng thống nhất, tổ chức chặt chẽ, đường lối đúng đắn hợp lòng dân thì khó tập hợp được sức mạnh của toàn dân tộc để làm nên cuộc cách mạng long trời lở đất, chỉ trong vòng nửa tháng đã giành thắng lợi và xác lập chính quyền dân chủ nhân dân trong phạm vi toàn quốc. Đây là những kinh nghiệm quí báu để Đảng ta lãnh đạo nhân dân tiến hành thắng lợi hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược suốt 30 năm, tiến hành cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc và xây dựng đất nước, tiến hành công cuộc đổi mới và giành được những thành tựu quan trọng trong hơn 20 năm gần đây, đưa đất nước bước sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế.

– Thứ hai, là giành và giữ chính quyền, đó là mục tiêu của bất cứ một cuộc cách mạng nào. Ngay từ đầu, Đảng ta xác định việc giành chính quyền về tay nhân dân, xây dựng chính quyền của dân và phục vụ nhân dân. Chính vì thế, Đảng đã tập hợp và phát huy được sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân trên nền tảng liên minh công nhân – nông dân – trí thức dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, khai thác và phát huy tối đa động lực tinh thần, nêu cao ý chí Việt Nam, tinh thần dũng cảm, sáng tạo, sẵn sàng xông lên cứu nước, cứu nhà, tạo thành nguồn động lực to lớn để đưa Cách mạng tháng Tám đến thắng lợi hoàn toàn, giành chính quyền về tay nhân dân. Để giữ vững chính quyền, Đảng và Nhà nước ta đã dựa chắc vào nhân dân, tạo nên sức mạnh vật chất và tinh thần để đấu tranh thắng lợi với thù trong, giặc ngoài; đồng thời tạo cơ sở pháp lý cho cuộc đấu tranh với kẻ thù và tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân tiến bộ trên thế giới. Từ bài học này và thực tiễn cách mạng Việt Nam 67 năm qua (kể từ khi Cách mạng tháng Tám thành công), chúng ta có thể khẳng định giành chính quyền về tay nhân dân, bảo vệ và xây dựng chính quyền của dân, do dân và vì dân, có như vậy mới thực sự mang lại độc lập tự do cho Tổ quốc, hạnh phúc cho nhân dân, làm cho đất nước phồn vinh và phát triển.

– Thứ ba, là vấn đề nắm bắt thời cơ, đề ra được những quyết định chính xác và kịp thời. Bất cứ một cuộc cách mạng nào đều phải biết tạo ra thời cơ và nắm bắt thời cơ. Chọn đúng thời cơ là một khoa học và một nghệ thuật. Điều này đã thể hiện rất rõ trong cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945, cũng như trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử (30/4/1975) giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Nếu chọn đúng thời cơ thì sức mạnh của nhân dân ta tăng lên gấp bội và giành thắng lợi, ngược lại nếu phát động sớm hơn khi thời cơ chưa chín muồi thì sẽ gây tổn hại đến cách mạng, đến nhân dân; nếu muộn hơn thì sẽ mất đi thế chủ động và gặp nhiều khó khăn khác. Bài học này càng có ý nghĩa sâu sắc khi đất nước ta mở cửa, hội nhập nền kinh tế quốc tế, phải biết tận dụng thời cơ, đẩy lùi những nguy cơ, để thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

– Thứ tư, là vấn đề sử dụng lực lượng, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc dựa trên nền tảng liên minh công nhân – nông dân  – trí thức, tạo nên một nguồn động lực mạnh mẽ đưa cách mạng tiến lên. Dưới ánh sáng của đường lối và sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, lòng yêu nước và sức mạnh của toàn dân được thổi bùng lên trong Cách mạng tháng Tám đã tiếp tục được phát huy cao độ trong hai cuộc kháng chiến thần thánh chống đế quốc xâm lược và trong công cuộc đổi mới đất nước.

II. Giá trị thực tiễn của Cách mạng Tháng Tám 1945 trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước 67 năm qua.

1. Cách mạng Tháng Tám với sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.

1.1- Cách mạng Tháng Tám đã mở đầu sự đổi mới sâu sắc và toàn diện cho dân tộc ta, nhất là sự thay đổi về chính trị. Chế độ thuộc địa và chuyên chế phong kiến đã được thay thế bới chính thể dân chủ cộng hòa – nhà nước dân chủ kiểu mới của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Tư tưởng, quan điểm về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam được khởi nguồn từ cách mạng Tháng Tám đã khẳng định sự đổi mới căn bản thể chế chính trị, tạo động lực mới cho việc xây dựng và phát triển đất nước từ đó đến nay.

1.2- Cách mạng Tháng Tám khởi đầu sự giải phóng xã hội. Nhà nước cách mạng ngay từ khi thành lập đã quan tâm đến quyền tự do, dân chủ, tự do tôn giáo, tín ngưỡng, quyền ứng cử, bầu cử, tham gia xây dựng chính quyền. Các Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992 ra đời là sự tiếp nối tư tưởng, tinh thần của Cách mạng Tháng Tám, bảo đảm ngày càng đầy đủ quyền tự do dân chủ cho nhân dân.

1.3- Đảng và Nhà nước ta đã phát huy bài học của Cách mạng Tháng Tám trong việc huy động lực lượng quần chúng tham gia các phong trào cách mạng, phng trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động lớn trong toàn xã hội, quan tâm đến lợi ích chính đáng, trực tiếp của nhân dân, dựa vào dân, phát huy vai trò sáng tạo của nhân dân để lãnh đạo công cuộc tái thiết đất nước, khắc phục hậu quả chiến tranh, cải tạo nền kinh tế, xây dựng và hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất… Đường lối đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo đang được thể chế hóa, hệ thống pháp luật, chính sách ngày càng được hoàn thiện, đồng bộ, tạo điều kiện khơi dậy sức mạnh nội lực, tranh thủ ngoại lực cho sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

1.4- Từ Cách mạng Tháng Tám, các quan điểm chiến lược về con người, về giáo dục và đào tạo con người mới được hình thành và phát triển. Nhiều chủ trương, chính sách lớn về phát triển văn hoá, giáo dục được ban hành, đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng, quyền lợi của mọi người dân, góp phần nâng cao dân trí, phục vụ tốt cho công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước. Những chính sách về lao động, việc làm, bảo vệ người lao động, chăm sóc thương binh, gia đình thương binh, gia đình liệt sĩ, người có công với cách mạng… được chú trọng hoàn thiện. Hệ thống phúc lợi và an sinh xã hội từng bước được mở rộng, hướng tới bảo đảm công bằng trong các chính sách hỗ trợ, không để sót đối tượng, nhằm bảo đảm cho mọi thành viên trong xã hội được bảo vệ về cuộc sống.

1.5- Phát triển những tư tưởng chiến lược về ngoại giao từ Cách mạng Tháng Tám, chúng ta đã giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, sự lãnh đạo của Đảng, chế độ xã hội chủ nghĩa, ổn định chính trị – xã hội và trật tự, an toàn xã hội, phát triển quan hệ đối ngoại mạnh mẽ.

2. Cách mạng Tháng Tám 1945 với các cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc.

2.1- Từ kinh nghiệm của Cách mạng Tháng Tám, chúng ta luôn nắm vững đường lối tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, tiến lên chủ nghĩa xã hội, gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, gắn nhiệm vụ dân tộc với nhiệm vụ quốc tế, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, con đường kiên quyết dùng bạo lực cách mạng để đập tan bạo lực phản cách mạng, giương cao ngọn cờ hòa bình, tranh thủ các khả năng hòa bình có thể được nhằm tạo dựng nền hòa bình lâu dài trong độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

2.2- Ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tạo nên sức mạnh đoàn kết mới cho tất cả những người Việt Nam yêu nước, tập hợp được mọi tầng lớp nhân dân không phân biệt trai, gái, trẻ, già, giàu nghèo, tín ngưỡng, dân tộc… dựa trên nền tảng liên minh công – nông – trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Thắng lợi của các cuộc kháng chiến cứu nước là thắng lợi của sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, là bước phát triển mới về chất của chiến tranh yêu nước Việt Nam.

2.3- Phát triển những quan điểm về xây dựng lực lượng vũ trang toàn dân từ Cách mạng Tháng Tám, qua hai kháng chiến cứu nước, chúng ta đã xây dựng và tổ chức quân đội kiểu mới – quân đội của dân tộc, của nhân dân, từ nhân dân và vì nhân dân. Đường lối chiến tranh vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, xây dựng kết hợp với bảo vệ và củng cố chế độ mới, xây dựng căn cứ địa trong chiến tranh, giải quyết tốt mối quan hệ giữa tiền tuyến và hậu phương được vận dụng và phát triển sáng tạo.

III- Phát huy tinh thần Cách mạng Tháng Tám, thành tựu 67 năm xây dựng và bảo vệ đất nước vào sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN giai đoạn hiện nay.

1. Tích cực, chủ động nắm bắt thời cơ, đẩy lùi nguy cơ và thách thức trong thời kỳ đổi mới, hội nhập hiện nay.

Phát huy tinh thần giữ vững nguyên tắc, mềm dẻo, sáng tạo trong sách lược, chủ động nắm bắt thời cơ, hội nhập quốc tế hiện nay, Đảng, Nhà nước và toàn dân ta đang chung sức giải quyết những vấn đề vừa cơ bản, vừa cấp bách để đưa đất nước phát triển bền vững. Chúng ta phải luôn quán triệt sâu sắc phương châm “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra và vận dụng thành công trong thời kỳ giành và giữ chính quyền năm 1945 – 1946, phân tích, dự đoán, nắm chắc và tận dụng thời cơ để mang lại lợi ích to lớn cho quốc gia, cộng đồng, góp phần đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

2. Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; phấn đấu vì dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.

Trải qua thử thách thời gian và lịch sử, cuộc Cách mạng Tháng Tám không chỉ khẳng định ý nghĩa thời sự nóng bỏng mà ngày càng khẳng định những giá trị lịch sử lâu bền. Những giá trị đó đang được phát huy bởi các mục tiêu, nhiệm vụ: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; giữ vững chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và nền văn hóa dân tộc; giữ vững ổn định chính trị, môi trường hòa bình, phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa… Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội gắn bó mật thiết và thống nhất trong toàn bộ tiến trình cách mạng và trong công cuộc đổi mới hiện nay.

3. Nắm vững các quan điểm phát triển trong sự nghiệp CNH – HĐH, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới đất nước.

Phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững. Đổi mới đồng bộ, phù hợp về kinh tế và chính trị vì mục tiêu xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Thực hành dân chủ, phát huy tối đa nhân tố con người, coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển. Phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất với trình độ khoa học công nghệ ngày càng cao đồng thời hoàn thiện quan hệ sản xuất và thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ ngày càng cao trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.

4. Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, không ngừng hoàn thiện hệ thống chính trị.

Nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng cần tập trung vào một số nhiệm vụ, giải pháp sau: tăng cường xây dựng Đảng về chính trị, nang cao chất lượng và hiệu quả công tác tư tưởng, lý luận; rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân; tiếp tục đổi mới, kiện toàn tổ chức, bộ máy của Đảng về hệ thống chính trị; kiện toàn tổ chức cơ sở Đảng và nâng cao chất lượng đảng viên; đổi mới công tác cán bộ, coi trọng công tác bảo vệ chính trị nội bộ; đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát; tiếp tục đổi mới, phương thức lãnh đạo của Đảng.

Đẩy mạnh việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN thực sự của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nhà nước thực hiện tốt chức năng quản lý kinh tế và mọi mặt đời sống xã hội; giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa Nhà nước với các tổ chức khác trong hệ thống chính trị, với nhân dân, với thị trường. Nâng cao năng lực quản lý và điều hành của Nhà nước theo pháp luật; tăng cường pháp chế XHCN và kỷ luật, kỷ cương. Xây dựng thể chế và cơ chế vận hành cụ thể bảo đảm nguyên tắt tất cả quyền lực thuộc về nhân dân và nguyên tắt quyền lực là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và cơ chế kiểm tra, giám sát các cơ quan trong việc thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng tính cụ thể, khả thi các văn bản pháp luật; các thiết chế thi hành pháp luật được bảo đảm vận hành có hiệu quả nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, đáp ứng tốt yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN và thực hiện các cam kết quốc tế, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc. Tiếp tục xây dựng từng bước hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát hoạt động và quyết định của các cơ quan công quyền.

Tiếp tục đổi mới tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước. Đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, bảo đảm quốc hội thực sự là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Xây dựng nền hành chính thống nhất, thông suốt, trong sạch, vững mạnh, hiệu quả, hiệu lực. Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo hướng hiện đại, tinh gọn và hợp lý. Đẩy mạnh cải cách hành chính, nhất là thủ tục hành chính, giảm mạnh và bãi bỏ các loại thủ tục hành chính gây phiền hà cho tổ chức và công dân. Đẩy mạnh cải cách tư pháp, xây dựng hệ thống tư pháp trong sạch, vững mạnh, bảo vệ công lý. Tiếp tục đổi mới tổ chức hoạt động của chính quyền địa phương.

Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực đáp ứng yêu cầu tình hình mới. Tích cực phòng ngừa và kiên quyết chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm. Tiếp tục hoàn thiện thể chế và đẩy mạnh cải cách hành chính phục vụ phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tập trung vào các lĩnh vực dễ xảy ra tham nhũng, lãng phí; chú trọng các biện pháp phòng chống tham nhũng có hiệu quả. Thực hiện chế độ công khai, minh bạch về cơ chế, chính sách, các dự án đầu tư, xây dựng cơ bản, mua sắm từ ngân sách nhà nước, huy động đóng góp của nhân dân, quản lý đất đai, tài sản công, công tác tiếp nhận, bổ nhiệm cán bộ. Xử lý nghiêm minh, kịp thời, công khai cán bộ tham nhũng. Có cơ chế khuyến khích và bảo vệ người tích cực đấu tranh chống tham nhũng. Phát huy vai trò của cơ quan dân cử, của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân, các phương tiện thông tin đại chúng và nhân dân trong việc giám sát cán bộ, công chức, phát hiện đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí.

Kỷ niệm 67 năm Cách mạng Tháng Tám 1945 và Quốc khánh 2-9 trong bối cảnh toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đang trong quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng, chúng ta càng hiểu rõ giá trị lịch sử, thực tiễn sâu sắc mà Cách mạng Tháng Tám đã mang lại; nhận thức đầy đủ trách nhiệm của thế hệ sau trong việc vận dụng và phát triển những bài học kinh nghiệm quý giá, những tư tưởng mang tầm thời đại của cách mạng Tháng Tám vào công cuộc đổi mới và đẩy mạnh CNH – HĐH đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.

Trích từ bài “Kỷ niệm Cách mạng Tháng Tám (19/8/1945); Quốc khánh nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam 02/9/1945) và kỷ niệm 50 năm ngày Bác Hồ về thăm tỉnh Phú Thọ (19/8/1962 – 19/8/2012

Nguồn: Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Phú Thọ
phutho.gov.vn