Chiến thắng Điện Biên Phủ lịch sử đã buộc thực dân Pháp và đế quốc Mỹ phải chấp nhận thất bại. Hiệp định Giơnevơ về đình chỉ chiến sự ở Đông Dương được ký kết, miền Bắc nước ta được hoàn toàn giải phóng. Theo tinh thần của Hiệp định, tháng 7/1956, “một cuộc Tổng tuyển cử tự do trong cả nước phải được tổ chức để thống nhất nước ta”[1], nhưng đế quốc Mỹ đã coi “giải pháp” Giơnevơ là một thảm họa. Ngoại trưởng Đalét (Dulles) đã phát biểu rằng: “Sự cần thiết phải ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam là điều không thể thoái thác được”[2], và đó là “một khu vực phải nắm lấy bằng bất kỳ giá nào”, nên Mỹ nhanh chóng nhảy vào miền Nam Việt Nam.
1. Với dã tâm chia cắt lâu dài đất nước ta, biến miền Nam thành bàn đạp tấn công miền Bắc và các nước XHCN, đế quốc Mỹ và chính quyền tay sai do Ngô Đình Diệm đứng đầu đã dùng quân đội, bộ máy công an, mật vụ thẳng tay đàn áp những người yêu nước; khủng bố, bắt giam và mở các chiến dịch “tố cộng”, “diệt cộng” để chống lại nhân dân miền Nam, chống lại cách mạng, chống lại nguyện vọng hòa bình, thống nhất nước nhà của nhân dân hai miền Nam Bắc.
Đứng trước tình hình đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng chủ trương ổn định, củng cố miền Bắc, xây dựng miền Bắc theo con đường XHCN; tiến hành đấu tranh chính trị đòi thực hiện Hiệp định Giơnevơ, tìm phương pháp đấu tranh thích hợp để vừa duy trì, đẩy mạnh cách mạng miền Nam, hạn chế tổn thất, vừa bảo vệ được miền Bắc và hệ thống XHCN, bảo vệ hoà bình khu vực và hòa bình thế giới.
Ngay từ tháng 7/1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Đế quốc Mỹ là một trở lực chính ngăn cản việc lập lại hoà bình ở Đông Dương” và chúng “đang trở thành kẻ thù chính, trực tiếp của nhân dân Đông Dương“. Và trên cơ sở phân tích tình hình cách mạng trong nước và quốc tế, Người khẳng định: “Mục tiêu bất di bất dịch của ta vẫn là hoà bình, độc lập, thống nhất, dân chủ. Nguyên tắc của ta thì phải vững chắc, nhưng sách lược của ta thì linh hoạt”[3].
Từ mục tiêu, từ khát vọng độc lập tự do và thống nhất nước nhà, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Thống nhất nước nhà là con đường sống của nhân dân ta, đại đoàn kết là một lực lượng tất thắng”. Đồng thời, Người cũng chỉ rõ: cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà là một cuộc đấu tranh lâu dài và gian khổ, nên muốn “giành lấy thắng lợi, toàn thể nhân dân, quân đội và cán bộ ta từ Bắc đến Nam cần phải đoàn kết chặt chẽ, tư tưởng phải thống nhất, hành động phải nhất trí” [4]. Song khi hoà bình ở Việt Nam đang bị đe doạ nghiêm trọng vì Hiệp định Giơnevơ bị chính quyền Ngô Đình Diệm vi phạm, trả lời phỏng vấn, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định “sẽ dùng mọi biện pháp đấu tranh bằng đường lối hoà bình để Hiệp định Giơnevơ được thực hiện triệt để”[5]. Và dù tương quan lực lượng giữa ta và địch ở miền Nam đã có sự thay đổi lớn sau khi ta thực hiện nghiêm chỉnh việc chuyển quân tập kết ra miền Bắc, và dù không còn lực lượng vũ trang, nhưng với ưu thế về chính trị, với lực lượng quần chúng nhân dân đông đảo, các tầng lớp đồng bào miền Nam vẫn đang bền bỉ, kiên cường đấu tranh chống lại ách thống trị tàn bạo của Mỹ – Diệm theo tư tưởng chỉ đạo của Người và Trung ương Đảng.
Tiếp đó, trước yêu cầu bức thiết của cách mạng miền Nam, trong văn kiện Đề cương cách mạng miền Nam (8/1956), đồng chí Lê Duẩn đã khẳng định: Muốn chống Mỹ- Diệm, nhân dân miền Nam chỉ có một con đường là vùng lên chống lại Mỹ- Diệm để cứu nước và tự cứu mình. Đó con đường cách mạng, là “quá trình xây dựng lực lượng chính trị từ ít đến nhiều, củng cố và phát triển phong trào đấu tranh của quần chúng từ thấp đến cao, từ những bước tuần tự đến những bước nhảy vọt để làm lay chuyển bộ máy cai trị của Mỹ Diệm”[6].
Thực hiện đường lối, phương pháp đó, hình thức đấu tranh chính trị đã được sử dụng, thay thế cho hình thức đấu tranh quân sự. Các tổ chức quần chúng công khai được thành lập, các phong trào đấu tranh đòi tự do, dân chủ, đấu tranh chống âm mưu chia cắt đất nước, chống quân dịch,v.v..đã lan rộng, thu hút sự tham gia của đông đảo quần chúng. Phong trào đấu tranh ngày càng phát triển, đặc biệt là cuộc đấu tranh chống “tố cộng”, “diệt cộng”, song trong bầu không khí nghẹt thở, cách mạng miền Nam vẫn đang đứng trước những khó khăn chưa từng thấy.
Trước tình hình đó, tháng 10/1956, Bộ chính trị đã nhận thấy, trong những năm 1954-1956, những tổn thất của phong trào cách mạng miền Nam, một phần là do trong quá trình chỉ đạo, “Trung ương đã không nắm vững phương châm giữ gìn lực lượng từ lúc đầu, cho nên trong việc chấn chỉnh tổ chức của Đảng sau khi rút quân, cũng như trong sự chỉ đạo qua một thời kỳ khá dài, lực lượng của ta đã bị bộc lộ”, phần khác là vì chưa nhận thức sâu sắc bản chất cách mạng của nhiệm vụ thống nhất nước nhà, nên “sự lãnh đạo của Trung ương đã nặng về đấu tranh pháp lý, đấu tranh để thi hành Hiệp định Giơnevơ”[7].
Tiếp đó, với “quyết tâm thực hiện vai trò tiên phong của mình” và để “phong trào cách mạng vẫn giữ vững và tiến lên”, để giữ gìn lực lượng và tiếp tục hoạt động trong tình thế khắc nghiệt, các tổ chức cơ sở Đảng ở miền Nam đã kịp thời tổ chức lại và rút vào hoạt động bí mật, mặc dù Mỹ Diệm đã dùng nhiều thủ đoạn rất dã man hòng tiêu diệt những người cộng sản miền Nam.
Và trên tinh thần quán triệt sâu sắc rằng, đấu tranh chính trị cũng không có nghĩa là “tuyệt đối không dùng vũ trang tự vệ trong những hoàn cảnh nhất định”, từ thực tiễn đấu tranh cách mạng, từ những tổn thất do những hành động ngày càng tàn bạo của địch và trước những hình thức đấu tranh, khả năng phát triển của phong trào cách mạng miền Nam, “yêu cầu vũ trang chống khủng bố ngày càng trở nên cấp thiết”. ở nhiều địa phương, nhân dân bí mật lấy vũ khí đã chôn giấu, đã dùng vũ khí tự tạo và cướp súng của địch để tiêu diệt những kẻ ác ôn và tự bảo vệ mình. Đã có những đại đội vũ trang được thành lập ở chiến khu Đ, ở Nam Bộ và ở Liên khu V, đã có những trận đánh diễn ra ở Thủ Dầu Một, Biên Hoà, v.v..Như vậy là, trong khi địch ngày càng tăng cường khủng bố những người yêu nước và các chiến sĩ cách mạng, mở các cuộc hành quân càn quét, dồn dân vào các trại tập trung, thì ở khắp các địa bàn, lực lượng vũ trang và các căn cứ địa cách mạng đã được xây dựng lại.
Từ đấu tranh chính trị là chính, phong trào cách mạng miền Nam đã phát triển thành đấu tranh chính trị kết hợp có vũ trang tự vệ, và đi liền cùng đó là lực lượng chính trị của quần chúng được bảo tồn. Các phong trào đấu tranh ngày càng quyết liệt. Khát vọng độc lập tự do của nhân dân miền Nam ngày càng sục sôi và sự phát triển phong trào đấu tranh chính trị kết hợp đấu tranh có vũ trang của đồng bào miền Nam chính là sự phản ứng tất yếu của nhân dân miền Nam để bảo vệ quyền sống hàng ngày đang bị chà đạp. Hình thức đấu tranh đó phản ánh “yêu cầu chính trị của quần chúng đang rất khát khao độc lập tự do và thống nhất nước nhà”[8]. Sau đó, tuy đã có dự kiến mức độ bạo lực phải được nâng cao trong đấu tranh cách mạng, song trên thực tế, đấu tranh chính trị có kết hợp vũ trang tự vệ ở miền Nam cũng chưa phải là phương pháp và hình thức đấu tranh hiệu quả, nhằm chống trả sự chống phá của địch và để giảm bớt tổn thất của quần chúng.
Tháng 12/1957, xác định về nhiệm vụ cách mạng của hai miền, tại Hội nghị Trung ương lần thứ 13, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định việc đồng thời phải thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược ở cả hai miền Nam Bắc. Theo Người, cả hai nhiệm vụ đều quan trọng. Coi nhẹ một nhiệm vụ nào cũng là sai lầm. Nhiệm vụ củng cố miền Bắc, tiến dần lên CNXH có tính chất quyết định cho toàn bộ những thắng lợi của cách mạng nước nhà trong giai đoạn mới, và lực lượng cách mạng ở miền Nam được duy trì và phát triển thì đó là nhân tố trực tiếp quyết định thắng lợi của cuộc đấu tranh cách mạng ở miền Nam.
Thực hiện Nghị quyết Hội nghị này, nhân dân miền Bắc đã vượt qua nhiều thử thách, đạt được nhiều thành tích trong xây dựng và phát triển, trở thành hậu thuẫn vững chắc cho cách mạng cả nước. Còn ở miền Nam, trong những năm 1957, 1958, phong trào đấu tranh chính trị có kết hợp vũ trang tự vệ của quần chúng mặc dù đã được nâng cao, song không tránh khỏi những khó khăn và tổn thất, lý do là vì ta chưa tìm ra được phương pháp và hình thức đấu tranh thích hợp để quần chúng chủ động “chống trả” sự đàn áp tàn bạo của kẻ thù. Hình thức đấu tranh chính trị có sử dụng bạo lực chính trị đã tỏ ra không đủ mạnh để đối phó có hiệu lực với địch và tạo chuyển biến cơ bản cục diện chiến trường và tình hình miền Nam.
Trong khi Mỹ – Diệm ngày càng trắng trợn, đàn áp phong trào cách mạng miền Nam, trong khi thực tiễn đòi hỏi phải được tổng kết, rút kinh nghiệm kịp thời và yêu cầu phải có một hình thức đấu tranh cách mạng cao hơn, nhằm đáp ứng nguyện vọng của nhân dân miền Nam và đưa phong trào cách mạng miền Nam phát triển đã trở nên bức thiết, thì những thay đổi lớn trong quan hệ quốc tế cũng có những tác động không nhỏ đến sự phát triển của cách mạng Việt Nam nói chung và cách mạng miền Nam nói riêng.
Trên thế giới, lúc này chủ nghĩa xét lại hiện đại, chủ nghĩa cơ hội đang lũng đoạn phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Mỹ, tiềm lực kinh tế và sức mạnh quân sự của chúng đã gây tâm lý “sợ Mỹ”, “ngại Mỹ” trong một số Đảng Cộng sản. Mặt khác, các nước XHCN đã trở thành một hệ thống, song những mâu thuẫn, bất đồng và những rạn nứt trong phe XHCN; giữa Liên Xô và Trung Quốc đã gây khó khăn cho phong trào cách mạng thế giới, trong đó có Việt Nam. Đặc biệt là, dù đã từng ủng hộ, viện trợ cho Việt Nam trong khôi phục, cải tạo kinh tế, phát triển văn hoá, giáo dục, v.v.. nhưng cả Trung Quốc và Liên Xô đều không ủng hộ đấu tranh vũ trang ở miền Nam.
Thực hiện đường lối hòa hoãn Xô – Mỹ, chủ trương của Liên Xô là: giữ nguyên hiện trạng hai miền của Việt Nam, không ủng hộ đấu tranh vũ trang ở miền Nam Việt Nam với lý do tế nhị: “Đốm lửa cháy rừng”! Còn Trung Quốc, từ lâu vẫn có ý định duy trì tình trạng hai miền của Việt Nam, tránh việc trực tiếp phải tham gia chiến tranh, nên thuyết phục Việt Nam “phải trường kỳ mai phục”, không nên đấu tranh vũ trang ở miền Nam, vì rằng: “Dùng lực lượng vũ trang để thống nhất nước nhà sẽ có hai khả năng: một là thắng và một khả năng nữa là mất cả miền Bắc”[9].
2. Nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo và bằng bản lĩnh, trí tuệ của mình, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tập trung trí lực, từng bước xác định chủ trương, đường lối và biện pháp cách mạng đúng đắn đưa cách mạng hai miền phát triển. Một trong những văn kiện quan trọng, tạo bước phát triển nhảy vọt về chất của phong trào cách mạng miền Nam là Nghị quyết Trung ương Đảng lần thứ 15 mở rộng (Hội nghị Trung ương lần thứ 15 họp nhiều đợt: Đợt 1 (12-22/1/1959) là Hội nghị Trung ương mở rộng, Đợt 2 (10-15/7/1959), v.v. và Nghị quyết của Hội nghị được thông qua trong đợt cuối cùng).
Nội dung cơ bản của Nghị quyết Trung ương lần thứ 15 dựa trên cơ sở phân tích kỹ điều kiện cách mạng cả nước và điều kiện cụ thể của hai miền Nam Bắc; phân tích kỹ tình hình thế giới, xu thế phát triển của cách mạng thế giới; tương quan so sánh lực lượng ta và địch, v.v.., từ đó chỉ rõ nhiệm vụ chung của cách mạng cả nước, và con đường phát triển cách mạng của mỗi miền.
Đường lối cách mạng Việt Nam ở miền Nam được nêu rõ trong Nghị quyết Trung ương lần thứ 15 (mở rộng). Trên cơ sở phân tích những đặc điểm của tình hình miền Nam (tính chất xã hội miền Nam, thái độ các giai cấp ở miền Nam), Nghị quyết nêu rõ:
“1, Nhiệm vụ cơ bản là giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc và phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc và người cày có ruộng, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh.
2, Trước mắt là đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược, đánh đổ tập đoàn tay sai Ngô Đình Diệm, thành lập chính quyền liên hiệp dân tộc dân chủ ở miền Nam, thực hiện độc lập dân tộc và các quyền tự do dân chủ, v.v.. “[10]
Về phương hướng phát triển của cách mạng miền Nam, Nghị quyết chỉ rõ, để tự giải phóng mình khỏi xiềng xích nô lệ, “ngoài con đường cách mạng, nhân dân miền Nam không còn con đường nào khác” và cách mạng miền Nam không thể đi ra ngoài quy luật chung của cách mạng ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa, đó là “khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân”. Đó chính “là lấy sức mạnh của quần chúng, dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp với lực lượng vũ trang để đánh đổ quyền thống trị của đế quốc và phong kiến, dựng lên chính quyền cách mạng của nhân dân”[11].
Cũng theo Nghị quyết, vì chế độ Mỹ Diệm dựa vào vũ lực để tồn tại, và chúng ta dựa vào lực lượng quần chúng, dùng lực lượng quần chúng đánh đổ chúng, nên “cần phải có một quá trình đấu tranh lâu dài và gian khổ, phải tích cực xây dựng, củng cố và phát triển lực lượng cách mạng, thì mới có thể có điều kiện nắm lấy thời cơ thuận lợi và giành lấy thắng lợi cuối cùng”[12]. Nghị quyết nêu rõ, cách mạng miền Nam vẫn có khả năng phát triển hoà bình, tuy nhiên vì bản chất phản động và hiếu chiến của Mỹ – Diệm, cho nên phương hướng cơ bản vẫn là khởi nghĩa giành chính quyền, và “trong những điều kiện nào đó, cuộc khởi nghĩa của nhân dân miền Nam cũng có khả năng chuyển thành cuộc đấu tranh vũ trang trường kỳ”.
3. Từ Nghị quyết, có thể thấy rằng, Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng đã khẳng định dứt khoát: con đường cách mạng miền Nam là con đường khởi nghĩa giành chính quyền. Và điều đặc biệt là chủ trương khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân (khởi nghĩa bằng lực lượng chính trị của quần chúng, có sự hỗ trợ của đấu tranh vũ trang) lại được quyết định trong bối cảnh lực lượng cách mạng ở miền Nam đang bị tổn thất không nhỏ. Điều đó cho thấy tầm nhìn ra, sự tiên lượng và quyết định của Người và Bộ chỉ huy tối cao trong những thời khắc khó khăn của lịch sử dựa trên sự phân tích, đánh giá một cách khách quan tình hình, tương quan so sánh lực lượng giữa ta và địch, đồng thời khẳng định niềm tin của Người và Trung ương Đảng vào sức mạnh nội lực, tinh thần đấu tranh cách mạng của đồng bào miền Nam.
Nghị quyết Trung ương lần thứ 15 ra đời khi tình thế cách mạng và những điều kiện cho cuộc khởi nghĩa từng phần tại các địa phương đã chín muồi, đúng như Ngô Đình Nhu từng nhận định: Chế độ miền Nam đang ngồi trên ngọn núi lửa sắp phun. ánh sáng của nghị quyết đã thổi bùng ngọn lửa đấu tranh cách mạng của đồng bào miền Nam, đưa phong trào cách mạng phát triển nên một nấc thang mới. Cho nên, có những nơi chưa nhận được văn bản chính thức, chỉ lĩnh hội tinh thần của Nghị quyết “cho phép tiến hành đấu tranh vũ trang”, đã nhanh chóng phát động khởi nghĩa. Hình thức đấu tranh “mang tính bạo lực” của quần chúng ở nhiều nơi đã có sự tham gia của lực lượng vũ trang, nửa vũ trang ở những mức độ khác nhau. Các trận đánh đầu tiên của lực lượng vũ trang và tự vệ miền Nam đã diễn ra ở Tây Ninh, Thủ Dầu Một,v.v.. rồi tiếp đến là Bác ái (Ninh Thuận, Trà Bồng (Quảng Ngãi).
Bằng nhiều phương thức đấu tranh sáng tạo, phong phú, những cuộc khởi nghĩa ở miền núi Liên khu V, ở cực Nam Trung Bộ, và đặc biệt là các cuộc khởi nghĩa của đồng bào các tỉnh miền Trung Nam Bộ, miền Đông Nam Bộ có đà phát triển và ngày càng lan rộng từ giữa năm 1959 đến cuối năm 1960. Phong trào “Đồng khởi” của nhân dân miền Nam đã làm tan rã từng mảng bộ máy kìm kẹp của chế độ nguỵ quyền cơ sở ở nông thôn, làm lung lay tận gốc bộ máy chính quyền thực dân kiểu mới, đẩy địch vào thế bị động. Quán triệt sâu sắc tinh thần của Nghị quyết, trên cơ sở xác định đúng phương châm châm chỉ đạo đồng khởi, đề ra chủ trương và giải pháp phù hợp với điều kiện cụ thể của từng vùng, từng địa phương, tạo yếu tố bất ngờ, đảm bảo chắc thắng cho đồng khởi, từ trong Đồng khởi, quyền làm chủ của nhân dân được xác lập ở “1383 trong tổng số 2627 xã”; lực lượng vũ trang, bán vũ trang được xây dựng và từng bước trưởng thành.
Thắng lợi của phong trào đồng khởi đã khôi phục lại các căn cứ địa cách mạng, tạo điều kiện cho vùng giải phóng được mở rộng, thúc đẩy phong trào đấu tranh cách mạng ở các đồn điền, nhà máy, ở các trung tâm đô thị phát triển mạnh. Thắng lợi đó đã làm phá sản chiến lược chiến tranh đầu tiên của đế quốc Mỹ ở miền Nam Việt Nam, góp phần đưa đến sự ra đời của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ngày 20/12/1960.
Với Đồng khởi, cách mạng miền Nam đã có bước nhảy vọt, chuyển từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công cách mạng. Cuộc chiến tranh cách mạng ở miền Nam mở đầu bằng phong trào Đồng khởi đã làm phong phú thêm nghệ thuật quân sự của cha ông ta trong lịch sử. Khởi sự bằng Đồng khởi, quân dân miền Nam đã chứng minh nhận định của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng: “Thế lực của Mỹ ngày nay trên thế giới ngày càng sa sút, thế lực của chúng ở miền Nam căn bản không phải mạnh. Tình hình ngày càng chuyển biến bất lợi cho chúng, có lợi cho ta”[13] là hoàn toàn đúng đắn.
Nghị quyết đồng thời cho thấy quyết định của Người và Đảng ta thực sự “đã tạo ra một phương thức mới, tạo đột biến cho tình hình, đưa cách mạng chuyển sang bước nhảy vọt thần kỳ”, khẳng định tầm vóc trí tuệ, bản lĩnh và tư duy của Hồ Chí Minh và Đảng ta về cách thức mở đầu cuộc chiến tranh nhân dân chống chủ nghĩa thực dân kiểu mới.
Quyết định của Người và Trung ương Đảng về đường lối, nhiệm vụ, phương pháp của cách mạng miền Nam thể hiện trong Nghị quyết Trung uương 15 (mở rộng) cũng cho thấy quyết tâm tiến hành chiến tranh cách mạng của cả dân tộc Việt Nam trong cuộc đụng đầu lịch sử với đế quốc Mỹ để giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà. Trong bối cảnh quốc tế vô cùng phức tạp, trong hoàn cảnh cách mạng đang chuyển giai đoạn đấu tranh, nội dung của Nghị quyết lần thứ 15 về cách mạng miền Nam đã phản ánh đúng nhu cầu của lịch sử, khẳng định quyết tâm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng về giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Quyết tâm đó thể hiện tư tưởng độc lập, tự chủ, táo bạo của Đảng ta và lãnh tụ Hồ Chí Minh trong bối cảnh đầy khó khăn, thử thách, dù không được sự ủng hộ của một số đảng anh em.
Hơn 15 năm sau khi Nghị quyết Trung ương lần thứ 15 (mở rộng) về cách mạng miền Nam ra đời, với đường lối kháng chiến chống Mỹ cứu nước được cụ thể hoá trong Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ III năm 1960 và nhiều nghị quyết Trung ương khác, mùa xuân năm 1975, với Tổng tiến công và nổi dậy của quân dân miền Nam, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta đã giành được thắng lợi hoàn toàn. Miền Nam được giải phóng, hai miền Nam Bắc sum họp một nhà. Nhiều năm sau đó, trong Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước – thắng lợi và bài học, Ban chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ chính trị nhận định: Nghị quyết 15 rất đúng đắn, sáng tạo phù hợp thời cơ lịch sử – “Nó là ngọn lửa dấy lên cao trào Đồng khởi làm xoay chuyển tình thế cách mạng miền Nam lúc bấy giờ”[14], tạo đà cho những thắng lợi của cách mạng miền Nam trong những năm sau đó ./.
TS. Văn Thị Thanh Mai
Bảo tàng Hồ Chí Minh
Chú thích:
(1) Quốc hội nước Cộng hoà XHCN Việt Nam, Văn kiện Quốc hội toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H, 2007, t.2, tr. 40
(2) Thông tấn xã Việt Nam, Tài liệu mật Bộ Quốc phòng Mỹ về cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, H,1971, t.1, tr.27
(3) Biên bản Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 7, khoá II, ĐVBQ 29, Lưu trữ Trung ương Đảng, tr.8
(4)Dẫn theo: Hoàng Trang, Đỉnh cao của tư tưởng Hồ Chí Minh trong 30 năm chiến tranh giải phóng, Tạp chí Lịch sử Quân sự, 5/2005, tr.19
(5) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, t.8, tr. 159
(6) Lê Duẩn Tuyển tập (1950-1965), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, tr. 115-116
(7) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.17, tr. 424
(8) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.20, tr. 43
(9) Bộ Ngoại giao, Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung quốc trong 30 năm qua, H, 1979, tr.24
(10) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.20, tr. 81-82
(11] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.20, tr. 82
(12] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.20, tr. 82-83
[13] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.20, tr. 28
[14] Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước – thắng lợi và bài học, Nxb. Chính trị Quốc gia, H, 1996, tr.44
Bạn phải đăng nhập để bình luận.