Nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh – Bài 5

Một số vấn đề phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu về Hồ Chí Minh

~ oOo ~

Phần thứ nhất: MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VỀ HỒ CHÍ MINH

Chương II Những nguyên tắc phương pháp luận chung chỉ đạo việc nghiên cứu về Hồ Chí Minh

Nói nguyên tắc phương pháp luận nghiên cứu chính là nói cái chung, cái phổ biến ở trình độ bản chất, có tính ổn định và sự sâu sắc cần thiết đủ sức làm cơ sở dẫn dắt việc nghiên cứu đi tới mục tiêu đã định hướng. Việc vận dụng những nguyên tắc chung đó vào chuyên ngành nghiên cứu Hồ Chí Minh để giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu đã vạch ra còn tuỳ thuộc vào trình độ, kỹ nǎng của người nghiên cứu vốn rất khác nhau và tuỳ thuộc vào mức độ, phạm vi, giới hạn của mỗi đề tài cũng như những tình huống nghiên cứu cụ thể, xác định. Trong chương này, chúng tôi đề cập tới ba nguyên tắc cơ bản sau đây: – Nắm vững những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. – Quán triệt những quan điểm của Đảng và chỉ dẫn của các nhà lãnh đạo Đảng và Nhà nước ta trong nghiên cứu về Hồ Chí Minh. – Kế thừa có hoặc chọn lọc kinh nghiệm và thành tựu của khoa học nghiên cứu về các vĩ nhân trên thế giới.

I. Nắm vững những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử

Nguyên tắc này có tầm quan trọng hàng đầu đối với nghiên cứu khoa học, đặc biệt là nghiên cứu khoa học xã hội và nhân vǎn, trong đó có nghiên cứu về Hồ Chí Minh. Về thực chất, đây là sự quán triệt tinh thần và phương pháp triết học mácxít vào công tác nghiên cứu. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh đã luôn đề cao vai trò dẫn đường của lý luận Mác – Lênin đối với hoạt động thực tiễn. Người nhấn mạnh tới nét đặc sắc của chủ nghĩa Mác – Lênin là tính biện chứng, là khoa học và cách mạng, là sự thống nhất hữu cơ giữa lý luận và thực tiễn.

Lênin cũng xác định rằng, nếu chỉ dùng độc một từ thôi mà có thể nói lên được tiêu điểm của từ “duy vật lịch sử” của Mác, Ǎngghen thì từ đó chính là phép biện chứng. Theo Lênin, chủ nghĩa duy vật lịch sử là thành quả vĩ đại bậc nhất của lịch sử tư tưởng. Nếu xem chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử là một thể thống nhất, cái này ở trong cái kia và ngược lại thì áp dụng triết học này vào nghiên cứu đời sống xã hội, con người, như nghiên cứu Hồ Chí Minh chẳng hạn, ta thấy đó chính là áp dụng quan niệm duy vật và biện chứng về lịch sử vào nghiên cứu Hồ Chí Minh. Lâu nay, cách nói tắt: quan niệm duy vật về lịch sử hay “chủ nghĩa duy vật lịch sử” thường dẫn đến chỗ không hiểu đầy đủ, dần dần trở thành hiểu sai theo khuynh hướng siêu hình, xa dần bản chất mácxít vốn là biện chứng.

Trước Mác đã từng có thế giới quan duy vật, chủ nghĩa duy vật, mà tiêu biểu nhất là Phoiơbắc, một trong những đại biểu của nền triết học cổ điển Đức thế kỷ XIX. Ông đã có công lao to lớn trong việc khôi phục chủ nghĩa duy vật. Cũng đã từng có nhiều triết gia trước Mác đến được lịch sử với cách nhìn duy vật chủ nghĩa, nhưng phải đến Mác thì lịch sử mới được soi sáng bởi một thế giới quan khoa học hoàn bị, triệt để, đó là duy vật và biện chứng, tạo thành chủ nghĩa duy vật biện chứng và phép biện chứng duy vật. Phát kiến về bản chất của lịch sử của Mác sở dĩ có tính vạch thời đại vì ông đã lý giải một cách đúng đắn và triệt để bản chất của lịch sử, ông không chỉ thấy nhân tố kinh tế là quyết định cuối cùng, rằng xét đến cùng, mọi biến thiên của lịch sử đều có cǎn nguyên kinh tế (= CNDV) mà còn thấy kinh tế không phải là cái duy nhất quyết định lịch sử (= DVBC).

Mác còn nhìn rất sâu phép biện chứng giữa vật chất và tinh thần, khách quan và chủ quan. Cũng như vậy, Lênin đã đem lý thuyết biện chứng đó soi vào thực tiễn cách mạng để vạch rõ sợi dây liên hệ giữa kinh tế và chính trị. Phải nhân chân lịch sử từ cơ sở triết học của nó là duy vật biện chứng, đặt tất cả mọi sự kiện, sự vật, hiện tượng, quá trình lịch sử dưới ánh sáng duy vật biện chứng để tìm cǎn nguyên, bản chất, động lực thúc đẩy nó. Đó là quan điểm và phương pháp mácxít. Vậy quan điểm duy vật biện chứng về lịch sử bao gồm những nội dung, những yêu cầu gì? Cần phải có một hệ thống các quan điểm như thế nào để có thể xem mỗi quan điểm đó đồng thời là nguyên tắc, là phương pháp chỉ đạo việc nghiên cứu.

Đó là:

1. Quan điểm khách quan

Đây là điểm xuất phát xác định mọi quan điểm nghiên cứu về xã hội và lịch sử. Quan điểm này có cơ sở từ việc giải quyết đúng đắn vấn đề cơ bản của triết học, coi bản chất của thế giới là vật chất, là cái có trước, tồn tại độc lập với ý thức con người và ý thức con người có khả nǎng nhận thức, phản ánh cái vật chất khách quan ấy. Mác đã từng định nghĩa, ý thức con người ta chẳng qua chỉ là cái tồn tại được ý thức (tức là sự phản ánh tồn tại).

Dưới ánh sáng của triết học Mác, phạm trù cái khách quan được cắt nghĩa tường minh trên cả hai phương diện Bản thể luận và Nhận thức luận. Theo Mác và Ǎngghen, cái khách quan là cái tồn tại bên ngoài con người, độc lập và không phụ thuộc vào ý thức, nhận thức của con người. Do đó, hoạt động nhận thức chủ thể phải bắt đầu từ chỗ có một đối tượng cho chủ thể nhận thức, cái đối tượng ấy tác động vào chủ thể, làm nảy sinh nhu cầu nhận thức của chủ thể.

Kết luận phương pháp luận mà các ông rút ra là không thể giải thích tư tưởng của thời đại, ý niệm tư tưởng của con người mà lại cǎn cứ vào bản thân tư tưởng, ý niệm ấy. Đó là một thứ duy tâm lịch sử. Phải cắt nghĩa nó xuất phát từ toàn bộ hiện trạng, sự kiện, các quan hệ sản xuất – vật chất, cái trạng thái kinh tế đã dẫn đến sự phát sinh của tư tưởng đó. ở đây có biện chứng nhân – quả của đời sống hiện thực và hoạt động tư tưởng của con người. Tính khách quan bảo đảm cho mọi nghiên cứu đạt được sự chân thật, đúng đắn, đến gần với chân lý và quy luật.

Do đó, chỉ những nghiên cứu nào tuân thủ tính khách quan mới có thể đem lại kết quả mang độ tin cậy. Nó xa lạ với những suy đoán chủ quan thoát ly thực tiễn, những kết quả không chân thực. Ǎngghen có nói một câu nổi tiếng: Hãy gọi tên sự vật đúng như bản thân nó. Đó chính là một đòi hỏi nghiêm ngặt trong việc tôn trọng tính khách quan của đời sống hiện thực. Yêu cầu tính khách quan của chủ nghĩa duy vật biện chứng là khách quan trong xem xét nhận thức, đánh giá, phát hiện bản chất, quy luật; trong sự sinh thành, biến đổi, phát triển, chuyển hoá, tương tác biện chứng giữa các mặt, các sự vật, hiện tượng. Nó khác về bản chất với chủ nghĩa khách quan tư sản vốn là một chủ nghĩa tự nhiên, mô tả chất đống sự kiện, che lấp bản chất tất yếu bằng một sự mô tả tuỳ tiện các hiện tượng thứ yếu, vụn vặt.

Một nét đặc sắc khác về nhận thức trong phạm trù cái khách quan là ở chỗ, triết học Mác tôn trọng cái khách quan trong tính thống nhất với việc đề cao nǎng lực chủ quan con người. Đây là biện chứng của sự thâm nhập, chuyển hoá lẫn nhau giữa cái khách quan và cái chủ quan theo lôgích phát triển. Nó là sự thống nhất hai mặt của cùng một quá trình: mặt thứ nhất, khách quan hoá chủ quan, đó là quá trình chính xác hoá kết quả tư duy và hành động, làm cho cái chủ quan ngày càng phù hợp hơn với cái khách quan, tri thức ngày càng đúng đắn hơn do phản ánh đúng đắn thế giới đối tượng khách quan.

Mặt thứ hai, chủ quan hoá khách quan, đó là quá trình con người mở rộng phạm vi, đối tượng nghiên cứu, cái mà ta đã nói ở trên, rút ngắn khoảng cách giữa chủ thể và đối tượng, chủ thể tiến sát tới đối tượng, chiếm lĩnh đối tượng. Quan điểm khách quan có ý nghĩa sâu sắc đối với nghiên cứu các vĩ nhân, xem xét mối liên hệ xã hội – lịch sử của sự sản sinh ra các thiên tài, xem họ là sản phẩm của lịch sử, con đẻ của thời đại. Chúng ta thấy rất rõ điều này khi nghiên cứu các nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.

2. Quan điểm thực tiễn

Lý luận nhận thức của triết học Mác – Lênin cho rằng, thực tiễn là nguồn gốc và động lực của nhận thức, là cơ sở và tiêu chuẩn của chân lý. Một trong những dấu hiệu cǎn bản chứng tỏ sự ra đời của triết học Mác như một cuộc cách mạng trong lịch sử triết học là ở chỗ, triết học Mác đã khẳng định và luận chứng đúng đắn, triệt để nhất vai trò và bản chất của thực tiễn. Quan điểm mácxít về thực tiễn thống nhất trong bản thân nó tính khách quan thuộc về nguồn gốc và nội dung của chân lý với tính nǎng động chủ quan, tính tích cực sáng tạo của chủ thể là con người trong hoạt động nhận thức và cải tạo thực tiễn để đạt tới chân lý.

Do đó, quan điểm thực tiễn, dưới ánh sáng của chủ nghĩa duy vật biện chứng là thực tiễn hoạt động của con người, một hoạt động vật chất cảm tính, có mục đích, có tính lịch sử – xã hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội. Đó là thực tiễn và hoạt động thực tiễn của con người hiện thực trong sự phát triển. Nó khác về nguyên tắc với chủ nghĩa duy vật trực quan, tách rời nhận thức với hoạt động thực tiễn, trong đó, con người chỉ ở trong giới hạn của con người sinh vật, là những cá thể thụ động và thế giới đối tượng là tĩnh tại. Nó cũng đối lập với chủ nghĩa duy tâm về thực tiễn chỉ tuyệt đối hoá yếu tố tinh thần, tư tưởng; xem hoạt động thực tiễn chỉ là hoạt động tinh thần, hoạt động lý luận và con người chỉ là một con người ý thức.

Có thể nói, quan hệ đầu tiên, khởi nguyên của con người đối với thế giới xung quanh là quan hệ thực tiễn. Con người hoàn toàn không bắt đầu từ chỗ họ đứng ở quan hệ lý luận với các đối tượng của thế giới bên ngoài mà là tác động một cách tích cực vào thế giới đó. Nhận thức là hoạt động đặc trưng của con người nhưng sự xuất hiện và bản chất của nhận thức chỉ có thể được hiểu một cách đúng đắn trong mối quan hệ của của con người với hoạt động thực tiễn. Không ở trong thực tiễn thì không có bất cứ một nhận thức nào được nảy sinh. Cũng như vậy, không có bất cứ một sự biến đổi tích cực nào của thực tiễn nếu không thông qua hoạt động của con người dựa trên cơ sở nhận thức khoa học (giác ngộ quy luật) về thực tiễn của bản thân nó.

Lênin đã từ đó rút ra kết luận: “Quan điểm về đời sống, về thực tiễn, phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức”. Tính chuẩn xác và hiện thực của lý luận đòi hỏi phải gắn liền lý luận với thực tiễn; lý luận phải ở trong thực tiễn và thường xuyên xuất phát từ nhu cầu nhận thức và cải tạo thực tiễn; mặt khác phải đặt tất cả mọi lý luận trong sự khảo nghiệm của thực tiễn và tổng kết thực tiễn để bổ sung và phát triển lý luận mới.

Lý luận rọi sáng thực tiễn và thực tiễn kiểm tra, đánh giá lý luận. Thực tiễn thúc đẩy lý luận và lý luận cung cấp cơ sở khoa học cho mọi hành động cải tạo thực tiễn của con người. Lý luận một khi đã hình thành thì ổn định một cách tương đối. Thực tiễn thì thường xuyên biến đổi. Nó biến đổi nhanh hơn so với sự biến đổi của lý luận. Lênin đã khái quát bản chất mối quan hệ này của thực tiễn và lý luận trong nhận xét: “Thực tiễn cao hơn nhận thức (lý luận) vì nó có ưu điểm không những của tính phổ biến, mà cả của tính hiện thực trực tiếp”.

Đại thi hào Gớt nói một cách hình ảnh rằng: mọi lý thuyết đều là màu xám còn cây đời thì mãi mãi xanh tươi. Quan điểm thực tiễn chẳng những cho ta nhìn nhận đúng đắn, bản chất của lý luận xuất phát từ thực tiễn, thống nhất với thực tiễn, mà còn cho ta hiểu rõ biện chứng của tính tương đối và tuyệt đối của chân lý tức là của những tri thức lý luận phù hợp với khách quan. Chân lý là cụ thể, không có chân lý trừu tượng mặc dù trên con đường nhận thức chân lý, chủ thể nhận thức phải thông qua sự trừu tượng hoá khoa học.

Đó là phương thức đạt tới tư duy lý luận, đưa nhận thức ngày càng đi sâu vào bản chất bên trong của cái cụ thể được nhận thức. Nhờ tư duy lý luận – khoa học mà cái cụ thể cảm tính ban đầu được lấy làm điểm xuất phát của sự nghiên cứu, là hình ảnh bề ngoài về một cái toàn bộ chuyển thành cái cụ thể với tư cách là kết quả của tư duy lý luận, của sự nghiên cứu khoa học phản ánh cái cụ thể trong hiện thực trong hệ thống những khái niệm, phạm trù, quy luật. ở trình độ bản chất này, cái cụ thể, như Mác nói, là sự tổng hợp của nhiều định nghĩa, là sự thống nhất của cái muôn vẻ, là một tổng thể phong phú của rất nhiều quy định và quan hệ.

Nhận thức đi xa cái cụ thể là để nhận thức cái cụ thể sâu sắc hơn và đúng đắn hơn. Tính sâu sắc và đúng đắn hơn của quá trình nhận thức chân lý khách quan và cụ thể đó chính là sự đạt dần tới cái tuyệt đối trong cái tương đối như một quá trình “phân tích cụ thể một tình hình cụ thể” mà Lênin xem như bản chất, linh hồn sống của chủ nghĩa Mác. Theo Hêghen, chân lý không còn là sự gom góp những nguyên lý giáo điều đã có sẵn, những nguyên lý mà người ta chỉ có việc học thuộc lòng một khi đã tìm ra nó.

Chân lý nằm trong bản thân quá trình nhận thức, trong sự phát triển lâu dài của khoa học. Đánh giá cao quan niệm biện chứng này của Hêghen, Lênin xem mỗi chân lý khoa học dù là có tính tương đối vẫn chứa đựng một yếu tố của chân lý tuyệt đối và “mỗi giai đoạn phát triển của khoa học lại đem thêm những hạt mới vào cái tổng số ấy của chân lý tuyệt đối”. Quan điểm thực tiễn như đã trình bày trên đây cần được quán triệt và vận dụng vào nghiên cứu Hồ Chí Minh.

Đây cũng chính là nét đặc sắc nổi bật trong phương pháp luận của Hồ Chí Minh với tư cách một nhà tư tưởng, nhà biện chứng thực hành. Hồ Chí Minh đến với lý luận bắt đầu từ hoạt động thực tiễn và nghiên cứu sâu sắc thực tiễn đã giúp Người tổng kết thành lý luận, có những phát hiện tư tưởng và lý luận mới mẻ, đầy sáng tạo. Câu nói nổi tiếng, phản ánh sự quan tâm sâu sắc của Người đối với lý luận và sự chú ý đặc biệt của Người tới thực tiễn và tổng kết kinh nghiệm thực tiễn là: thống nhất lý luận với thực tiễn là bản chất của chủ nghĩa Mác – Lênin.

Thực tiễn không có lý luận là thực tiễn mù quáng và lý luận không gắn với thực tiễn là lý luận suông. Người đòi hỏi lý luận phải gắn liền với thực tiễn và học phải đi đôi với hành. Hồ Chí Minh hình dung thấy lý luận, học thuyết, chủ nghĩa là cái cần thiết hàng đầu cho một đảng cách mạng tiên phong, nó như bàn chỉ nam cho con tầu trên biển.

Do đó, học lý luận cốt thâu cái tinh thần và phương pháp của nó để ứng xử đúng, hành động phù hợp với hoàn cảnh. Người cũng biết rất rõ một nhược điểm lớn của cán bộ, đảng viên ta là yếu về lý luận. Song không thể vì mà học lý luận theo kiểu nhớ chữ, thuộc sách, xem lý luận là cứu cánh, lấy lý luận để giải thích lý luận. Người đòi hỏi phải đứng trên quan điểm thực tiễn mà đề cao, mà tôn trọng lý luận.

Vì vậy chỉ có trên quan điểm thực tiễn của Hồ Chí Minh mới có thể vừa khắc phục chủ nghĩa hình thức và bệnh giáo điều, chủ nghĩa kinh nghiệm và thói thực dụng tầm thường, lại vừa khắc phục được bệnh sách vở, lý thuyết suông xa rời thực tiễn; phát huy tính độc lập tự chủ, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam để giải quyết đúng đắn các vấn đề của cách mạng Việt Nam.

Không chỉ thấm nhuần thực tiễn trong công tác tư tưởng, lý luận, Hồ Chí Minh còn thường xuyên chú trọng thực tiễn, công việc thực tế hàng ngày và hiệu quả của hành động. Người coi tính thiết thực là một phẩm chất cần thiết trong tư duy và hành động của người cách mạng. Lập luận của Hồ Chí Minh là muốn thực sự phục vụ nhân dân, vì nhân dân thì nói và làm bất cứ cái gì cũng phải thiết thực, không phù phiếm, khoa trương.

Sự tỉ mỷ, cụ thể trong công việc và cách thức giải quyết công việc, sự ân cần chu đáo trong quan hệ với con người của Hồ Chí Minh từ việc lớn đến việc nhỏ, đối với mọi người, mọi giới, mọi lứa tuổi… đã từ lâu trở thành nét bản chất và bản sắc riêng của Hồ Chí Minh. Bản chất và bản sắc đó có cơ sở sâu sắc trong nhận thức, trong đạo đức, lối sống và nhân cách của Hồ Chí Minh. Thấm nhuần quan điểm thực tiễn, vận dụng nhất quán quan điểm đó vào nghiên cứu Hồ Chí Minh là điều kiện để hiểu đúng bản chất đối tượng nghiên cứu.

3. Quan điểm hệ thống và quan điểm phát triển

Sự ra đời của phương pháp hệ thống – cấu trúc đánh dấu một bước thay đổi quan trọng trong tư duy khoa học. Xét trên ý nghĩa phương pháp luận, đây cũng là quan điểm tiếp cận và quan điểm nghiên cứu đối tượng. Đó là quan điểm hệ thống, phức hợp được áp dụng không chỉ trong nghiên cứu khoa học tự nhiên mà còn trong khoa học xã hội. Phương pháp hệ thống – cấu trúc xem xét sự vật, hiện tượng như một hệ thống có cấu trúc bên trong. Phương pháp này hình thành từ kết quả của sự thống nhất hai quan điểm: hệ thống và cấu trúc. Hệ thống là một tập hợp các yếu tố có liên hệ và tác động qua lại với nhau. Mỗi yếu tố chỉ tồn tại trong quan hệ với những yếu tố khác.

Sự biến đổi của một yếu tố trong hệ thống sẽ gây nên sự biến đổi nhất định của những yếu tố khác của hệ thống, cũng như gây ảnh hưởng đến sự biến đổi của cả hệ thống nói chung. Chỉ ở trong hệ thống, sự vật mới biểu hiện ra là cái gì, mới có thể định tính được cái thuộc về bản chất của nó. Cũng chỉ ở trong hệ thống, mỗi yếu tố, mỗi bộ phận, mỗi mặt cấu thành của nó mới xác định được vị trí, vai trò, chức nǎng và tác dụng của chúng đối với những cái khác và đối với cả hệ thống. Nói một cách khác, mỗi phần tử chỉ xác lập ý nghĩa của nó ở trong hệ thống.

Sự biệt lập, tách rời khỏi hệ thống làm mất đi ý nghĩa, làm suy yếu cái sức mạnh của nó, thậm chí có thể triệt tiêu cả ý nghĩa lẫn sức mạnh ấy. Cũng như vậy, sức mạnh của hệ thống được tạo ra từ sự tổng hợp các sức mạnh cá thể trong mối liên hệ với hệ thống, tức là từ một tổng hợp những lực tác động cùng chiều của các phần tử hợp thành. Hệ thống là đặc trưng bản chất của sự vật, là điều kiện tất yếu để sự vật vận động và bộc lộ bản chất. Cùng với tính hệ thống, sự vật vận động và biến đổi dù phức tạp như thế nào, đặc biệt là sự vận động xã hội – lịch sử, cuối cùng cũng tự vạch ra cho mình sự phát triển tiến lên không ngừng. Phát triển là khuynh hướng, xu hướng chung của mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới.

Lênin nói tới hai quan niệm về sự phát triển, sự phát triển coi như là giảm đi và tǎng lên, như là lặp lại, và sự phát triển coi như là sự thống nhất của các mặt đối lập… Theo Lênin, quan niệm thứ nhất là chết cứng, nghèo nàn, khô khan. Quan niệm thứ hai là sinh động, nó cho ta chìa khoá của sự tự vận động, của những bước nhảy vọt, của sự gián đoạn tiệm tiến, của sự chuyển hoá thành mặt đối lập, của sự tiêu diệt cái cũ và nảy sinh ra cái mới .

Quan điểm hệ thống và phát triển, đòi hỏi khi nghiên cứu các đối tượng, các quá trình xã hội phải có cái nhìn toàn diện, lịch sử cụ thể và phát triển. Các tác giả kinh điển của chủ nghĩa Mác đã đặc biệt nhấn mạnh ý nghĩa và vai trò phương pháp luận của các quan điểm này. Yêu cầu cơ bản của lôgích biện chứng là muốn thực sự hiểu được sự vật, cần thiết phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả sự liên hệ và “sự trung gian” của vật đó.

Chúng ta không thể làm được điều đó một cách hoàn toàn đầy đủ, nhưng sự cần thiết phải xem tất cả mọi mặt sẽ phòng cho chúng ta khỏi phạm sai lầm và sự cứng nhắc. Đó là yêu cầu hàng đầu của lôgích biện chứng. Vận dụng quan điểm phát triển vào việc nghiên cứu nhằm phát hiện cái mới về mặt lý luận, nhằm bổ sung và phát triển lý luận mácxít cho phù hợp với đà biến đổi của thực tiễn, Lênin cũng chỉ rõ: Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là một cái gì xong xuôi hẳn hoặc bất khả xâm phạm.

Trái lại chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng của môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống. Là một nhà mácxít sáng tạo, Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng quan điểm hệ thống và quan điểm phát triển trong hoạt động lý luận và đấu tranh chính trị, trong chỉ đạo các công tác thực tiễn hàng ngày.

Do đó, để hiểu đúng và đánh giá chính xác về Hồ Chí Minh, đặc biệt trong nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh cần phải ra sức trau dồi quan điểm phương pháp luận quan trọng này, mà bản thân Hồ Chí Minh đã là một mẫu mực trong tư duy lý luận và thực hành đấu tranh cách mạng. Nhờ nhất quán với quan điểm hệ thống, quan điểm phát triển, Người đã phát hiện từ rất sớm mối liên hệ giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới, giữa các mục tiêu của cách mạng dân tộc dân chủ với cách mạng xã hội chủ nghĩa, gắn liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.

Hồ Chí Minh với những đóng góp thiên tài về lý luận cách mạng giải phóng dân tộc, chống chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa thực dân đã chứng tỏ tầm nhìn sâu rộng của Người trong khi phát hiện thấy mối liên hệ giữa cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở các nước thuộc địa với phong trào vô sản ở ngay trong lòng các nước tư bản đế quốc (chính quốc). Người cũng thấy rõ từ cách tiếp cận hệ thống, chỉnh thể, tính tất yếu của đoàn kết quốc tế bởi sự gắn liền giữa chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản, phối hợp thành mặt trận chung giữa đoàn kết quốc tế với đoàn kết, đại đoàn kết dân tộc. Chỉ khi nào biết kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, như hình tượng của “một con chim hai cánh”, thì mới đủ sức chiến thắng chủ nghĩa tư bản thực dân, cùng một lúc chặt đứt hai cái vòi của con đỉa hút máu – một vòi ở chính quốc và một vòi ở các thuộc địa.

Đồng thời với sự phân tích khoa học – thực tiễn và lịch sử – cụ thể, nhìn thấu suốt xu hướng phát triển của lịch sử trong thời đại cách mạng vô sản được mở ra từ Cách mạng Tháng Mười, Hồ Chí Minh đã nhìn thấy ở Việt Nam, nhiệm vụ lịch sử hàng đầu là giải phóng dân tộc, giành lấy độc lập tự do, xem đó là tiền đề, điều kiện để giải phóng giai cấp vô sản, giải phóng xã hội và con người. Tất cả những cuộc giải phóng ấy là để từng bước tiến tới chủ nghĩa xã hội; và chỉ có đặt cách mạng giải phóng dân tộc vào quỹ đạo của cách mạng vô sản do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo, tiến theo mục tiêu chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản thì sự nghiệp cách mạng mới thành công.

Người quyết định lựa chọn chủ nghĩa Mác – Lênin và chủ nghĩa xã hội vì tìm thấy ở học thuyết và con đường ấy các nhân tố đảm bảo tốt nhất, chắc chắn nhất, hợp quy luật lịch sử để thực hiện hoài bão, khát vọng lớn lao nhất: độc lập cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân, hoà bình hữu nghị và sự phồn vinh, hạnh phúc cho tất cả các dân tộc trên trái đất. Là một nhà chiến lược và sách lược xuất sắc nhất của cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã sử dụng quan điểm hệ thống và phát triển để phân tích khoa học những chuyển biến qua từng thời kỳ lịch sử các mâu thuẫn, các tương quan và thế lực, những khả nǎng xuất hiện và chín muồi của tình thế và thời cơ cách mạng, của các nhân tố “Thiên thời, Địa lợi, Nhân hoà” để từ đó vạch ra khẩu hiệu đấu tranh, điều chỉnh biện pháp, lấy sự biến hoá khôn lường của các biện pháp để giành thế chủ động trong việc thực hiện nguyên tắc, mục tiêu phù hợp với từng hoàn cảnh, từng thời điểm.

Hồ Chí Minh đã tỏ rõ trong thực tiễn sự vận động, biểu hiện của khoa học và nghệ thuật cách mạng. Chỉ đạo trực tiếp các cuộc đấu tranh giành và giữ chính quyền, các chiến lược cách mạng dân tộc dân chủ và xã hội chủ nghĩa trong nhiều thập kỷ, Hồ Chí Minh đã làm nổi bật cả trong lý luận lẫn thực tiễn tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, sự kết hợp trong chỉnh thể các vấn đề về mục tiêu, bản chất, động lực, bước đi và biện pháp (cách làm) của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Quan điểm hệ thống và phát triển đã đặt cơ sở cho những luận chứng của Hồ Chí Minh về xây dựng kinh tế gắn với phát triển vǎn hoá, bảo vệ an ninh quốc phòng; phát triển nông nghiệp, nông thôn với xây dựng công nghiệp và đời sống đô thị; giữa cải tạo và xây dựng; giữa sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước; giữa tập trung và dân chủ; giữa tổ chức bộ máy với chất lượng cán bộ; giữa pháp luật và kỷ luật với đoàn kết và dân chủ; giữa phát huy và bảo tồn truyền thống với cách tân, đổi mới theo hiện đại và thời đại… Câu thơ nổi tiếng của Người: “Phải nhìn cho rộng suy cho kỹ, kiên quyết không ngừng thế tiến công” là sự thâu tóm muôn ý tưởng sâu sắc ấy.

4. Quan điểm kết hợp cái lịch sử với cái lôgích và quan điểm so sánh

Nhận thức khoa học đòi hỏi phải nắm được bản chất, quy luật của sự vật, đồng thời nắm lịch sử của sự vật, quá trình phát sinh, phát triển của nó. Mỗi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội đều có quá trình phát sinh, phát triển và diệt vong của nó. Quá trình đó biểu hiện ra trong toàn bộ tính cụ thể của nó, bao gồm cả những sự thay đổi và những bước quanh co của sự phát triển với những ngẫu nhiên phức tạp của hoàn cảnh nhiều hình vẻ. Đó chính là lịch sử của sự vật. Đối với lịch sử, tính quy luật của nó, có đặc điểm là: tính liên tục của những sự kiện, sự biến trong thời gian và quá trình, nó bao gồm cả những ngẫu nhiên. Phương pháp lịch sử đòi hỏi sự phản ánh trong tư duy quá trình lịch sử – cụ thể của sự phát triển đó.

Phương pháp lịch sử còn đòi hỏi phải nắm lấy sự vận động lịch sử trong toàn bộ tính phong phú của nó, phải bám sát sự vật – đối tượng nghiên cứu, theo dõi mọi bước phát triển của nó theo trình tự thời gian. Nhưng đồng thời quá trình phát triển lịch sử của sự vật, dù có phức tạp, muôn vẻ và có nhiều ngẫu nhiên đến đâu thì bao giờ cũng bị chi phối bởi cái tất nhiên, cái chung, cái quy luật phổ biến, nội tại và khách quan của nó. Đó chính là lôgích khách quan của lịch sử của sự vật. Lôgích của tư duy, lý luận là phản ánh cái lôgích khách quan đó.

Vì vậy, phương pháp lôgích là hình thức đặc biệt phản ánh quá trình lịch sử. Phương pháp lôgích phải vạch ra bản chất , tính tất nhiên, tính quy luật của sự vật, dưới hình thức lý luận trừu tượng và khái quát. So với phương pháp lịch sử, phương pháp lôgích có ưu thế hơn ở chỗ, nó không những phản ánh bản chất, tính tất nhiên, quy luật của sự vật mà đồng thời còn phản ánh được lịch sử phát triển của sự vật ở những nét chủ yếu. Nhờ vậy, phương pháp lôgích có khả nǎng kết hợp trong bản thân nó hai yếu tố của sự nghiên cứu: kết cấu (cấu trúc) của sự vật và lịch sử của nó trong sự thống nhất chặt chẽ của chúng.

Phương pháp lôgích cũng phản ánh lịch sử nhưng phản ánh một cách tóm tắt, khái quát, với những mốc chính, những giai đoạn chủ yếu của sự phát triển chứ không bám sát chi tiết tiến trình các sự kiện lịch sử. Bộ Tư bản của Mác là một kiểu mẫu của sự phân tích lôgích đối với phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Bằng sự phân tích lôgích, bằng một hệ thống khái niệm, phạm trù kinh tế, Mác đã vạch ra quy luật phát sinh, phát triển và dự báo sự diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản.

Lênin nhận xét rằng, chính sự phân tích lôgích này đã giúp ta hình dung rõ lịch sử của chủ nghĩa tư bản và sự phân tích những khái niệm tóm tắt lịch sử ấy. Phương pháp lịch sử và phương pháp lôgích trong sự kết hợp chỉnh thể của nó đã bao hàm cả phương pháp (quan điểm) so sánh, phân tích. Chúng là những phương pháp khác nhau nhưng thống nhất với nhau, quy định và biểu hiện lẫn nhau. Theo Ǎngghen, phương pháp lôgích không phải cái gì khác là phương pháp lịch sử, chỉ có điều là nó đã thoát khỏi những hình thức lịch sử và những ngẫu nhiên pha trộn.

Lịch sử bắt đầu từ đâu, quá trình tư duy cũng phải bắt đầu từ đó. Và sự vận động tiếp tục thêm nữa của nó chẳng qua chỉ là sự phản ánh quá trình lịch sử dưới một hình thức trừu tượng và nhất quán về mặt lý luận. Nó là sự phản ánh đã được uốn nắn lại nhưng uốn nắn theo những quy luật mà bản thân quá trình lịch sử thực tế đã cung cấp, hơn nữa mỗi một nhân tố đều có thể xem xét ở cái điểm phát triển mà ở đó quá trình đạt tới chỗ hoàn toàn chín muồi, đạt tới cái hình thái cổ điển của nó. Cần nhấn mạnh rằng phương pháp lôgích là sự phân tích khoa học biện chứng của sự phát triển thực tế của sự vật chứ không phải rút một khái niệm này từ một khái niệm khác một cách tư biện Sự phù hợp giữa lôgích và lịch sử là một nguyên tắc phương pháp luận của lôgích biện chứng mácxít.

Muốn hiểu bản chất, quy luật của sự vật thì phải hiểu lịch sử phát sinh, phát triển của nó. Ngược lại, chỉ có nắm được bản chất và quy luật của sự vật thì mới nhận thức được lịch sử của nó một cách đúng đắn. Dựng lại cái lôgích khách quan của sự phát triển của sự vật là nhiệm vụ của phương pháp lôgích. Muốn vậy, khi nghiên cứu sự vật phải bắt đầu từ hình thức phát triển tương đối hoàn thiện và chín muồi nhất của nó chứ không thể tuỳ tiện. Nếu lịch sử chính là bản thân cuộc sống thì lôgích là bản chất của cuộc sống do nghiên cứu lý luận chỉ ra Không có sự khác nhau về nguyên tắc giữa lịch sử và lôgích.

Vấn đề đặt ra là ở chỗ sự kết hợp giữa chúng một cách nhuần nhuyễn trong nghiên cứu đối tượng sao cho đối tượng được hiện ra với một diện mạo lịch sử trung thực, đúng như bản thân nó và trong đó nổi bật lôgích về sự vận động, sinh thành, phát triển của nó. Phương pháp phân tích so sánh là sự hỗ trợ cần thiết làm nổi bật tính thống nhất giữa lịch sử và lôgích. Đó là sự so sánh giữa đối tượng này với đối tượng khác trong những điều kiện, hoàn cảnh xác định chi phối chúng, cho phép nhìn rõ nét tương đồng và sự khác biệt, nhận rõ những cái riêng có cùng một cái chung bản chất hoặc những dấu hiệu phân biệt cái riêng này với cái riêng khác.

Phương pháp phân tích so sánh cũng có thể dựa trên những cái mốc của sự kiện và thời gian của cùng một cái trục vận động lịch sử để lần tìm ra sự phát triển khác nhau của cùng một đối tượng, chỉnh thể trong những thời điểm và hoàn cảnh khác nhau. Sự kết hợp lịch đại và đồng đại trong nghiên cứu sự phát triển của một đối tượng, của những đối tượng khác nhau trở nên cần thiết một cách khách quan. Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối với nghiên cứu quá trình hình thành tư tưởng, sự chuyển đổi thế giới quan của một nhân vật lịch sử, hoặc những cống hiến khác nhau của những nhân vật khác nhau trong cùng một thời đại cũng như trong những thời đại lịch sử khác nhau.

Nghiên cứu Hồ Chí Minh nằm trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học các vĩ nhân, các danh nhân, cần đến sự ứng dụng những phương pháp này. Phương pháp lịch sử được ứng dụng vào đây cho phép vạch ra tiến trình các sự kiện hoạt động trong cuộc đời, tư tưởng, sự nghiệp Hồ Chí Minh, cho thấy quá trình hình thành và phát triển tư tưởng của Người. Phương pháp lôgích cho phép hình dung những nhân tố khách quan và chủ quan, những ảnh hưởng qua lại của dân tộc, truyền thống, thời đại, vǎn hoá và lịch sử tạo nên giá trị, bản lĩnh, bản sắc, phong cách Hồ Chí Minh – một lãnh tụ kiểu mới của giai cấp vô sản trong thời đại cách mạng vô sản.

Phương pháp so sánh cho phép vạch ra mối liên hệ chung – riêng, phổ biến và đặc thù giừa Hồ Chí Minh với các vĩ nhân, danh nhân vǎn hoá khác. ở đây, phương pháp so sánh trên cơ sở phân tích cụ thể một tình hình cụ thể cho phép nhân chân những đóng góp và cống hiến riêng có của Hồ Chí Minh đối với lịch sử… Đó là những nét đại thể về các quan điểm duy vật biện chứng về lịch sử cần được áp dụng vào nghiên cứu Hồ Chí Minh.

PGS, PTS. Hoàng Chí Bảo; GS. Nguyễn Đǎng Mạnh;

cpv.org.vn

Advertisement