18:12 | 05/03/2005
(ĐCSVN)- “Báo cáo nhân quyền 2004” của Bộ Ngoại giao Mỹ vừa được công bố hôm 28/2 chứa đựng những nội dung xuyên tạc và bóp méo tình hình ở Việt Nam. Báo cáo nói trên là sự can thiệp thô bạo vào công việc nội bộ của Việt Nam, làm tổn thương tình cảm và lòng tự trọng của nhân dân Việt Nam. Việc làm này đi ngược lại xu hướng cải thiện và phát triển quan hệ hợp tác và hữu nghị giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, hoàn toàn trái với lợi ích của nhân dân hai nước”.
Ở Việt Nam, Quyền con người chính là phẩm giá, nhu cầu, lợi ích, năng lực của con người, với tư cách là thành viên của cộng đồng nhân loại, được pháp luật ghi nhận và bảo đảm thực hiện. Quyền con người trong công cuộc đổi mới ở nước ta những năm qua đã đạt được những thành tựu to lớn:
Xác định đúng những quan điểm, chủ trương về quyền con người.
Ngay từ Đại hội VI, khi đất nước tiến hành công cuộc đổi mới, Đảng ta đã khẳng định: “phải tôn trọng và bảo đảm những quyền công dân”. Quyền công dân ở đây chính là những quyền con người đã được ghi nhận trong Hiến pháp và hệ thống pháp luật của một quốc gia có chủ quyền.
Sau Đại hội VII năm 1991, ngày 12/7/1992 Ban Bí thư Trung ương Đảng đã có Chỉ thị số 12/CT/TW- Một văn bản quan trọng về vấn đề quyền con người. Có thể nói vắn tắt những quan điểm đó là:
Thứ nhất: quyền con người là thành quả của cuộc đấu tranh lâu dài trong tự nhiên và trong xã hội qua các thời đại, trở thành giá trị chung của nhân loại.
Thứ hai: trong xã hội có phân chia giai cấp đối kháng, quyền con người mang tính giai cấp sâu sắc.
Thứ ba: chỉ dưới tiền đề độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, thì quyền con người mới có điều kiện đảm bảo rộng rãi, đầy đủ, trọn vẹn nhất.
Thứ tư: quyền con người của cá nhân gắn với việc bảo đảm lợi ích của tập thể, của cộng đồng xã hội.
Thứ năm: quyền dân chủ tự do của mỗi cá nhân không tách rời nghĩa vụ và trách nhiệm công dân.
Thứ sáu: quyền con người gắn với quyền dân tộc cơ bản và thuộc phạm vi chủ quyền quốc gia.
Thứ bảy: quyền con người luôn luôn gắn liền với lịch sử, truyền thống và phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế, văn hóa của đất nước. Do vậy, không thể áp đặt hoặc sao chép máy móc các tiêu chuẩn, mô thức của nước này cho nước khác.
Đến Đại hội VIII (1996), Đảng Cộng sản Việt Nam nêu rõ chủ trương “bồi dưỡng và phát huy nguồn lực con người” và khẳng định: “chăm lo cho con người, cho cộng đồng xã hội là trách nhiệm của toàn xã hội, của mỗi đơn vị, của từng gia đình, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân”. Trong đó, ưu tiên xây dựng các luật về kinh tế, về các quyền công dân, các luật điều chỉnh các hoạt động văn hóa thông tin (Văn kiện Đại hội VIII, tr. 32).
Bước sang Thế kỷ XXI với những sự kiện lịch sử trọng đại, Đảng Đảng Cộng sản Việt Nam tiến hành Đại hội lần thứ IX, xác định: “Chăm lo cho con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mọi người; tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người, mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia” (Văn kiện Đại hội IX). Nội dung đề cập trên thể hiện tính hệ thống các quan điểm của Đảng về quyền con người, là cơ sở cho những thành tựu to lớn đạt được trong vấn đề này ở Việt Nam, chỉ tính từ khi đất nước đổi mới đến nay.
Sự ghi nhận tổng quát quyền con người trong Điều 50 của Hiến pháp 1992 là một sự kế thừa những giá trị nhân văn cao quý của nhân loại và là sự khẳng định những thành quả của cách mạng Việt Nam trên lĩnh vực nhân quyền. Trong Hiến pháp 1992, vấn đề quyền con người được thể hiện ở rất nhiều điều khoản, trong tất cả các chương nhằm bảo đảm cho mỗi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, được pháp luật bảo vệ mọi quyền và lợi ích chính đáng và tạo điều kiện để có cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc.
Đạo luật cơ bản của Việt Nam nêu rõ: mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật; công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương…
Mở rộng quyền cư trú, quyền tự do đi lại, quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài trở về nước theo qui định của pháp luật; bảo đảm quyền của người Việt Nam định cư ở nước ngoài và người nước ngoài cư trú ở Việt Nam.
Quy định thêm một số điều khoản quan trọng về hình sự và tố tụng hình sự ở mức độ quy phạm lập hiến: “Không ai bị coi là có tội, và phải chịu hình phạt khi chưa có bản kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật; người bị bắt, bị tạm giam, bị truy tố xét xử trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất và phục hồi danh dự. Người làm trái pháp luật trong việc bắt giam giữ, truy tố, xét xử gây thiệt hại cho người khác phải xử lý nghiêm minh” (Điều 72).
Qui định rõ đại biểu các cơ quan dân cử còn phải chịu trách nhiệm khi không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của cử tri.
Hiến pháp Nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng nêu rõ: quyền con người trong những lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, thể hiện chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa…
Làm rõ mối quan hệ giữa quyền lợi và nghĩa vụ của công dân: “Quyền của công dân không tách rời nghĩa vụ của công dân. Nhà nước đảm bảo các quyền của công dân; công dân phải làm tròn nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước” (Điều 51)…
Có thể khẳng định quyền con người là giá trị bền vững, cao quí mà các bản Hiến pháp của Việt Nam đã trang trọng qui định, đồng thời không ngừng bổ sung, nâng cao và phát triển. Từ 13 quyền ở Hiến pháp 1946, đã được nâng lên 21 quyền ở Hiến pháp 1959, 29 quyền ở Hiến pháp 1980 và 34 quyền ở Hiến pháp 1992. Nhà nước Việt Nam đã tham gia phê chuẩn 8 Công ước quốc tế về quyền con người.
Để đảm bảo thực hiện tốt quyền con người, quyền công dân theo qui định của Hiến pháp nước ta và phù hợp với Công ước quốc tế, đến nay Nhà nước ta đã sửa đổi bổ sung Hiến pháp 1992, tiếp tục sửa đổi và ban hành nhiều bộ luật khác, như: Bộ luật Dân sự, Bộ luật Lao động, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Tổ chức và hoạt động của Nhà nước, Luật Hành chính, Luật Hôn nhân gia đình, Luật chống tham nhũng, Luật Khiếu nại tố cáo, Luật Chăm sóc bảo vệ và giáo dục trẻ em v.v.
Trong những năm qua, Việt Nam đã đạt được những thành tựu lớn, có ý nghĩa quan trọng về quyền con người trên những lĩnh vực quyền cơ bản.
Quyền dân sự là những quyền thuộc về nhân thân, gắn với mỗi cá nhân như các quyền: quyền sống, quyền đối với họ tên, quốc tịch, hình ảnh, quyền không bị tra tấn nhục hình và đối xử vô nhân đạo, quyền tự do cư trú và đi lại, quyền an ninh cá nhân, bất khả xâm phạm về thân thể, quyền được bảo vệ danh dự và nhân phẩm, quyền được xét xử công bằng, quyền được bí mật về thư tín và đời tư…
Để thấy rõ những thành tựu to lớn về nhân quyền của Việt Nam, trước hết cần khẳng định lại một vấn đề rất cơ bản : Đánh giá tình hình nhân quyền ở một quốc gia cụ thể, cần xem xét những mặt cơ bản và cụ thể tạo nên bức tranh tổng thể về nhân quyền của một dân tộc cụ thể ở một quốc gia cụ thể. Không có thứ nhân quyền chung chung. Biểu hiện cao nhất, cụ thể nhất, thiêng liêng nhất của nhân quyền đối với một đất nước, chính là quốc gia ấy phải được độc lập, nhân dân phải được tự do, đời sống vật chất và tinh thần của các tầng lớp nhân dân ngày càng được cải thiện.
Chính vì phấn đấu cho mục tiêu thiêng liêng đó, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân Việt Nam đã kiên trì chiến đấu hơn bảy thập kỷ qua. Nhân dân Việt Nam đã đánh thắng thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, giải phóng và thống nhất đất nước, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, bảo vệ toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ quốc gia. Sau gần 20 năm, với đường lối đổi mới đất nước, Việt Nam đang từng bước thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đấy là biểu hiện cao nhất và cụ thể nhất của nhân quyền ở Việt Nam.
Đảng Cộng sản Việt Nam được nhân dân Việt Nam thừa nhận là Đảng lãnh đạo đất nước, xã hội và tin theo suốt 75 năm qua. Cương lĩnh của Đảng được nhân dân, cả dân tộc Việt Nam đồng tình ủng hộ vì Đảng đồng thời là đại diện lợi ích của nhân dân, của dân tộc Việt Nam. Nhờ vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam quy tụ và nhân lên sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, đã đánh thắng những tên đế quốc lớn nhất của thời đại. Hiến pháp là sự thể hiện ý chí và nguyện vọng của nhân dân. Hiến pháp của Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam Việt Nam đã được bổ sung, sửa đổi nhiều lần, đặc biệt là lần sửa đổi Hiến pháp năm 1992 tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa X vừa qua. Đông đảo quần chúng và nhân dân không có ai đề nghị thay đổi hoặc bổ sung Điều 4 của Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Điều 4 ấy khẳng định rõ : Đảng Cộng sản Việt Nam đại diện trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động, của dân tộc Việt Nam, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội Việt Nam.
Sở dĩ tuyệt đại đa số nhân dân Việt Nam khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam vì Đảng là người khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới đất nước, đã và đang gắn bó với các tầng lớp nhân dân làm nên những thành tựu to lớn của đất nước trong thời kỳ đổi mới. Đó chính là sự biểu hiện toàn diện, tập trung và sâu sắc nhất về nhân quyền. Nguyên nhân của tất cả những thành tựu không ai có thể phủ nhận đó của chúng ta bắt nguồn từ đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà nước Việt Nam mà thực tế đang vận hành và đem lại hiệu quả, lợi ích cụ thể trên tất cả các bình diện của đời sống kinh tế – xã hội đất nước. Chúng ta có quyền tự hào về những cố gắng và tiến bộ lớn trong việc phát triển nhân quyền ở nước Việt Nam.
Trong những năm qua, Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng trên nhiều lĩnh vực, tạo ra những tiền đề và điều kiện vật chất tốt hơn để thực hiện và phát huy các quyền và quyền tự do cơ bản của người dân. Việt Nam đã được quốc tế ghi nhận là một trong những quốc gia hàng đầu về xoá đói, giảm nghèo, là nơi có môi trường an ninh chính trị, xã hội ổn định cao và quyền con người được bảo đảm. Hệ thống luật pháp của Việt Nam đang dần được hoàn chỉnh để bảo đảm tốt hơn các quyền và quyền tự do cơ bản của người dân. Từ năm 1986 đến nay, trên 40 bộ luật, hơn 100 pháp lệnh và hàng nghìn văn bản pháp luật khác, trong đó có những văn bản quan trọng liên quan đến quyền con người đã được ban hành. Các văn bản pháp luật trên đã thể chế hoá các quyền con người, trở thành công cụ điều chỉnh các mối quan hệ xã hội trong một Nhà nước pháp quyền mà mục tiêu cốt lõi là vì con người.
Thắng lợi của các cuộc kháng chiến bảo vệ nền độc lập của dân tộc ta là thắng lợi của tư tưởng nhân quyền cao cả, mà dân tộc Việt Nam là chiến sĩ tiên phong, là thắng lợi của ý chí hòa bình, độc lập và phẩm giá con người. Với hai chiến thắng vĩ đại này, dân tộc ta có vinh dự lớn là biểu tượng cho lương tri nhân loại, là chiến sĩ tiên phong bảo vệ quyền con người được sống trong độc lập hòa bình và nhân phẩm. Sau Đại thắng mùa Xuân 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, Việt Nam bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội. 30 năm qua từ khi đất nước hoàn toàn độc lập, nhất là sau gần 20 năm đổi mới toàn diện đất nước, với những thành tựu rất quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội…, chúng ta đã hiện thực hóa một bước rất quan trọng các quyền con người và quyền công dân trên cả bình diện pháp lý và đời sống hiện thực:
Trong lĩnh vực chính trị, Việt Nam đã từng bước hoàn thiện hệ thống chính trị của dân, do dân, vì dân. Quyền của người dân tham gia quản lý công việc Nhà nước và xã hội, điều này thể hiện rõ ở các cuộc bầu cử: ở Quốc hội khóa XI nhiệm kỳ 2000-2007 và bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp ngày 25/4/2004 vừa qua, đã có tới hơn 99% số cử tri đi bầu. Quyền tự ứng cử của công dân được khẳng định. Quốc hội khóa X có 8 người tự ứng cử, trúng cử 3; còn Quốc hội khóa XI có 11 người tự ứng cử, trúng cử 3. Số đại biểu nữ ở Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp cũng tăng rõ rệt, khóa sau tăng hơn khóa trước.
Xây dựng một hệ thống pháp luật nhằm bảo đảm về mặt Nhà nước các quyền con người và quyền công dân. Quyền khiếu nại tố cáo: Pháp lệnh khiếu nại tố cáo của công dân năm 1991, đã được thay thế bằng Luật khiếu nại tố cáo của công dân năm 1998 với sự mở rộng cả về chủ thể và đối tượng khiếu nại.
Các quyền tự do dân chủ: Thể hiện nhu cầu phát triển cao nhất của con người bao gồm: Tự do ngôn luận, tự do báo chí: Luật báo chí 1989 thay thế sắc lệnh về báo chí từ năm 1957, với các văn bản pháp quy cụ thể hóa Luật báo chí và luật sửa đổi bổ sung (1999). Đến nay, Việt Nam đã có hơn 500 cơ quan báo chí với hơn 650 ấn phẩm báo chí các loại, 47 nhà xuất bản, mỗi năm xuất bản hàng vạn đầu sách, in và phát hành trên 600 triệu bản báo. Luật xuất bản (1993) quy định cá nhân được quyền tự do công bố tác phẩm của mình mà không bị kiểm duyệt.
Quyền tự do tín ngưỡng và tôn giáo: Tất cả các Hiến pháp ở Việt Nam từ trước đến nay, đều ghi nhận việc tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Nghị định 26/NĐ- CP ngày 4/9/1999 của Chính phủ về các hoạt động tôn giáo đã cụ thể hóa quan điểm đó. Việt Nam có 6 tôn giáo chính là: Phật giáo, Thiên chúa giáo, Tin lành, Cao đài, Hòa hảo, Hồi giáo với trên 20 triệu tín đồ. Trong các tôn giáo lớn ở Việt Nam thì Phật giáo có khoảng trên 9 triệu tín đồ, 3.300 nhà sư, 14.000 nơi thờ tự; Thiên chúa giáo có hơn 6 triệu tín đồ với trên 2.200 linh mục, giám mục, hồng y, 8.000 tu sĩ; 10.783 xứ đạo, 4.698 họ đạo, giảng sư và 440 nhà thờ, nhà nguyện; Cao đài có trên 2 triệu tín đồ, 5.000 chức sắc, trên 500 thánh thất; Hòa hảo có 1,5 triệu tín đồ; Hồi giáo có trên 10 vạn tín đồ.
Tiếp tục cải cách hành chính xây dựng thiết chế dân chủ, để hiện thực hóa một bước quan trọng quyền làm chủ đại diện và làm chủ trực tiếp của nhân dân, chống sự tha hóa của một bộ phận cán bộ trong hệ thống chính trị.
Trong lĩnh vực kinh tế, đường lối phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đã tăng đáng kể quyền tự chủ kinh tế cho nhân dân, khơi dậy mạnh mẽ tính năng động kinh tế – xã hội, tính tích cực công dân của mỗi con người. Chủ trương xóa đói, giảm nghèo đã từng bước tạo điều kiện cho việc thực hiện quyền bình đẳng về kinh tế. Nhờ đường lối phát triển kinh tế đúng đắn và quyền con người trên lĩnh vực kinh tế được bảo đảm mà những năm qua, chúng ta đã “khơi dậy nguồn lực trong nhân dân đầu tư vào phát triển sản xuất, kinh doanh. Tỷ lệ huy động vốn đầu tư trong GDP tăng dần (năm 2001 là 34%, năm 2002 là 34,3%, năm 2003 khoảng 35%, năm 2004 là 36,5%). Trong đó cơ cấu đầu tư xã hội, tỷ trọng vốn đầu tư trong nước gia tăng (chiếm 70% tổng số vốn đầu tư), nguồn vốn huy động trong dân tăng mạnh”, chỉ tính từ Đại hội IX đến nay đã có 72.601 doanh nghiệp tư nhân được đăng ký, với số vốn lớn tới 9.5 tỉ USD, nhờ đó mức sống và chất lượng sống của mỗi con người các tầng lớp nhân dân đã được cải thiện và nâng cao.
Trong lĩnh vực văn hóa giáo dục, chúng ta đã phát triển mạnh mẽ sự nghiệp giáo dục, hiện nay có tới 24 triệu người đi học, 1,3 triệu người có trình độ đại học, 1,3 vạn người có trình độ tiến sĩ và tiến sĩ khoa học, 10 nghìn người có trình độ thạc sĩ, ngày càng bảo đảm tốt hơn quyền được học tập của mọi công dân. Trên thực tế, việc bảo đảm quyền con người trên lĩnh vực văn hóa được thể hiện những nội dung cụ thể là:
Quyền được tiếp cận với văn hóa thông tin: mỗi năm xuất bản phát hành hàng ngàn cuốn, hàng trăm triệu bản báo các loại; mạng lưới báo chí được tổ chức một cách hệ thống từ Trung ương đến địa phương gồm đủ các loại hình, dành cho nhiều đối tượng, nhiều lứa tuổi. Đặc biệt mạng lưới báo điện tử đã phát triển rộng rãi, với 19 đơn vị được cấp phép là nhà cung cấp thông tin trên mạng… đã và đang phát huy vai trò quan trọng trong việc bảo đảm quyền tiếp cận văn hóa thông tin của người dân. Phát thanh truyền hình được phủ sóng rộng rãi, đảm bảo cho trên 70% dân số được xem truyền hình và trên 80% dân số được nghe Đài tiếng nói Việt Nam.
Quyền được thưởng thức văn hóa, nghệ thuật: Năm 2002 cả nước có 116 đoàn văn hóa nghệ thuật chuyên nghiệp, có 813 đơn vị chiếu phim phục vụ công chúng trên mọi miền đất nước.
Quan điểm đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam đã nói rõ: tăng trưởng kinh tế đi liền với việc giải quyết các vấn đề xã hội, đảm bảo sự tiến bộ và công bằng xã hội. Thực hiện chính sách xã hội nhằm làm lành mạnh hóa xã hội, thực hiện công bằng trong phân phối dưới nhiều hình thức, tạo động lực mạnh mẽ phát triển sản xuất, tăng năng suất lao động, thực hiện bình đẳng trong các quan hệ xã hội, khuyến khích nhân dân làm giàu hợp pháp. Đây là quan điểm thể hiện sự khác biệt về chất giữa chế độ xã hội chủ nghĩa và chế độ tư bản chủ nghĩa. Một trong những thành tựu được Liên hợp quốc đánh giá cao là, chính sách xóa đói giảm nghèo của Việt Nam trong những năm qua trên phạm vi cả nước đạt kết quả nổi bật.
Những thành tựu về nhân quyền và quyền con người của Việt Nam là một thực tế không ai có thể chối cãi, Thực tế đó đó đã được nhiều quốc gia và không ít quan chức và nhân dân Mỹ chứng kiến, khẳng định khi sang Việt Nam. Vậy thì lấy cớ gì để Bộ Ngoại giao Mỹ đưa ra những thông tin xuyên tạc trắng trợn tình hình Việt Nam. Để đánh giá tình hình nhân quyền ở một quốc gia cụ thể, cần xem xét những mặt cơ bản và cụ thể tạo nên bức tranh tổng thể về nhân quyền của một dân tộc cụ thể ở một quốc gia cụ thể. Không có thứ nhân quyền chung chung. Biểu hiện cao nhất, cụ thể nhất, thiêng liêng nhất của nhân quyền đối với một đất nước, chính là quốc gia ấy phải được độc lập, nhân dân phải được tự do, đời sống vật chất và tinh thần của các tầng lớp nhân dân ngày càng được cải thiện.
Như nhiều người đã rõ, hiện nay các thế lực thù địch đang thực thi dưới mọi thủ đoạn chiến lược “diễn biến hòa bình” nhằm vào nước ta, trước hết trên lĩnh vực tư tưởng – văn hóa cốt làm lung lay ý thức hệ xã hội chủ nghĩa, gây nghi ngờ, chia rẽ nội bộ giữa các tầng lớp nhân dân ta với Đảng, Nhà nước, làm suy yếu khối đại đoàn kết toàn dân ; tiến tới xóa bỏ Đảng ta và chế độ ta. Để thực hiện mưu toan thâm độc ấy, chúng triệt để lợi dụng chiêu bài “dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền” để kích động những người nhẹ dạ, cả tin có những hành vi chống đối Đảng và chính quyền ; tiếp sức và biến những phần tử cơ hội chính trị, bất mãn thoái hóa biến chất ở trong nước thành “cái loa” phụ họa và tuyên truyền những điều mà chúng đã, đang bịa đặt, vu cáo Việt Nam.
Các thế lực đế quốc chủ nghĩa với thái độ giả nhân, giả nghĩa, chúng giương ngọn cờ nhân quyền để phục vụ cho các âm mưu đen tối phá hoại các nước xã hội chủ nghĩa và các nước độc lập có chủ quyền.
Dưới chiêu bài “bảo vệ nhân quyền” chúng tiến hành các hoạt động phá hoại về tư tưởng, tuyên truyền cho nền dân chủ tư sản và những quan điểm giá trị của phương Tây, vu cáo, bôi nhọ chủ nghĩa xã hội và sự lãnh đạo của Đảng ta. Chúng khuyến khích, tập hợp, hỗ trợ cho bọn phản động trong các tôn giáo, trong dân tộc ít người và bọn cơ hội, bất mãn, hình thành lực lượng đối lập , gắn liền vấn đề quyền con người còn lâu dài, phức tạp, với chiến lược “diễn biến hòa bình” và gây bạo loạn lật đổ. Chúng ta cần tỉnh táo trước những âm mưu thâm độc đó để chủ động đối phó, kiên quyết đánh bại âm mưu của các thế lực thù địch.
Khẳng định thành tựu và những cống hiến của dân tộc ta trong lĩnh vực này, dân tộc Việt Nam tiếp tục vững tin con đường cách mạng mà Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân Việt Nam đã lựa chọn, là con đường nhân đạo và nhân văn cao cả, con đường duy nhất đúng để thực hiện lý tưởng độc lập dân tộc và tự do, hạnh phúc cho mọi con người. Khẳng định điều này, một lần nữa, Việt Nam nghiêm khắc lên án những thế lực thù địch đã tiến hành cuộc chiến tranh tàn bạo ở nhiều nơi trên thế giới; họ không có tư cách để dạy bảo các nước về quyền con người và càng không được phép lợi dụng nó để can thiệp, phá hoại sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta.
M.H – (Tổng Hợp)
dangcongsan.vn
Bạn phải đăng nhập để bình luận.