Thư viện

Thực chất tình hình nhân quyền của Mỹ qua một “bản ghi chép”

(Tài liệu tham khảo nước ngoài)

Để đáp trả “Báo cáo nhân quyền năm 2004” do Bộ Ngoại giao Mỹ công bố ngày 28-2, trong đó phê phán vấn đề nhân quyền tại Trung Quốc, ngày 3-3, Văn phòng Thông tin Quốc vụ viện Trung Quốc công bố bản “Ghi chép nhân quyền của Mỹ năm 2004”. Dưới đây là nội dung chính của bản ghi chép trên.

Bản ghi chép đưa ra nhiều dẫn chứng nêu rõ tình trạng vi phạm nghiêm trọng của nước Mỹ trong các lĩnh vực: cuộc sống, tự do và an toàn tính mạng; quyền lợi chính trị và tự do; quyền lợi kinh tế, xã hội và văn hóa; kỳ thị sắc tộc; quyền lợi của phụ nữ và trẻ em; việc Mỹ xâm phạm nhân quyền tại các nước khác.

Bản ghi chép cho biết, bạo lực, tội phạm và việc xâm phạm quyền lợi trong tư pháp tại xã hội Mỹ đã trở nên nghiêm trọng, cuộc sống, tự do và an toàn tính mạng của người dân không được bảo đảm. Theo báo cáo của Bộ Tư pháp Mỹ công bố ngày 19-11-2004, số vụ phạm tội của công dân Mỹ, từ 12 tuổi trở lên, gây ra trong năm 2003 lên tới gần 24 triệu vụ, tội phạm bạo lực như mưu sát và cướp của giết người 1.381.259 vụ, bình quân 475 vụ/100 nghìn người. Ngày 21-7-2004, công dân Trung Quốc tên là Triệu Yến đang công tác tại Mỹ bị cảnh sát Cục Di dân Mỹ bắt, đánh đập, gây tổn hại nghiêm trọng về thể xác lẫn tinh thần. Nguồn tin tờ ”Thời báo Niu Oóc” (Mỹ), ngày 12- 10-2004, cho biết, 13% số tù nhân tại các nhà tù của Mỹ bị xâm hại giới tính. 21% số tù nhân trong các nhà tù tại bảy bang miền trung và phía tây nước Mỹ bị xâm hại giới tính ít nhất một lần.

Về quyền lợi chính trị và tự do, bản ghi chép chỉ rõ, nước Mỹ tự xưng là ”hình mẫu dân chủ”, vậy mà dân chủ tại đây lại bị tiền bạc thao túng, tồn tại nhiều tệ nạn. Cuộc bầu cử tại Mỹ trên thực tế là cuộc chạy đua về tiền bạc. Năm 2004, chi phí cho cuộc bầu cử tổng thống và QH Mỹ lên tới gần bốn tỷ USD, trong đó, chi cho bầu cử tổng thống là 1,7 tỷ USD so với 1 tỷ USD năm 2000.

Bản ghi chép trên nêu rõ, ở Mỹ quyền lợi về kinh tế, xã hội và văn hóa của người lao động không được chăm lo. Nghèo khó, đói rét và không có nhà ở luôn tồn tại. Mỹ không chịu gia nhập ”Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa”. Theo số liệu thống kê năm 2004, số người nghèo ở Mỹ liên tiếp tăng trong ba năm; năm 2003 tăng thêm 1,3 triệu người, lên 35,9 triệu người.

Nạn phân biệt chủng tộc là căn bệnh thâm căn cố đế, bộc lộ ở mọi mặt của cuộc sống và xã hội Mỹ. Những người da mầu phải sống nghèo khổ hơn người da trắng. Người da mầu bị giam cầm trong các nhà tù chiếm tỷ lệ cao hơn nhiều so với người da trắng. Theo báo cáo của Bộ Tư pháp Mỹ (công bố tháng 11-2004), hơn 70% số tù nhân tại Mỹ là người da mầu. Tình trạng vi phạm nhân quyền đối với phụ nữ và trẻ em tại Mỹ xảy ra đáng lo ngại. Năm 2003, tại Mỹ có 93.433 vụ hiếp dâm, nghĩa là cứ 100 phụ nữ thì có 63,2 người bị hại. Quyền lợi lao động và xã hội của phụ nữ Mỹ cũng bị vi phạm. Theo số liệu Bộ Lao động Mỹ công bố tháng 1-2004, thu nhập trung bình của phụ nữ làm việc đủ giờ chỉ bằng 81,1% so với nam giới. Khoảng 20 triệu trẻ em Mỹ sống trong ”gia đình lao động thu nhập thấp” không đáp ứng được nhu cầu sinh hoạt cơ bản. Ở Mỹ, khoảng 400 nghìn trẻ em buộc phải bán dâm hoặc làm các công việc đồi trụy.

Về việc Mỹ xâm phạm nhân quyền tại các nước khác, bàn ghi chép cho biết, năm 2004, quân Mỹ ngược đãi và làm nhục tù nhân tại Irắc và những vi phạm nhân quyền tại nhiều nước. Mỹ đã lộ rõ bộ mặt thật, vi phạm thô bạo chủ quyền và nhân quyền tại nhiều nơi trên thế giới. Theo báo chí Mỹ như tờ ”Tuần tin tức’; ”Bưu điện oa-sinh-tơn”, v.v. nhân viên điều tra trong các nhà tù do quân Mỹ kiểm soát tại Áp- ga-ni-xtan đã sử dụng cực hình ép cung, làm nhiều người chết. Hội Chữ thập đỏ quốc tế cho rằng, sự kiện ngược đãi tù nhân trong các nhà tù tại I-rắc là hành vi mang tính hệ thống. Theo đánh giá nghiên cứu tình trạng dân thường chết tại I-rắc, từ khi Mỹ xâm lược I-rắc (năm 2003) đến nay, số dân thường I-rắc bị chết do chiến tranh lên tới 100 nghìn người, trong đó phần lớn là phụ nữ và trẻ em.

Bản ”Ghi chép nhân quyền của Mỹ năm 2004” nêu rõ, trong khi nước Mỹ còn nhiều vấn đề nhân quyền, thì họ lại tiếp tục dương binh múa võ, xâm phạm thô bạo chủ quyền nước khác, liên tiếp tạo ra những bi kịch về xâm phạm nhân quyền trên thế giới. Chính phủ Mỹ hãy xem lại những hành vi của chính mình, nhìn thẳng vào vấn đề nghiêm trọng tồn tại trên đất Mỹ, chứ không phải là ra ”báo cáo nhân quyền” để chỉ trích nước khác.

Theo Quang Thiều, Báo Nhân dân, ngày 5/3/2005

Những luận điệu luẩn quẩn và cũ rích

10:23 | 20/07/2012

Vừa qua, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ công bố Báo cáo thường niên về nhân quyền trên thế giới trong năm 2011. Ngày 26/5/2012, đánh giá nhận xét về tình hình nhân quyền ở Việt Nam của văn bản này, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam đã khẳng định: Báo cáo “vẫn tiếp tục đưa ra một số nhận định thiếu khách quan dựa trên những thông tin sai lệch về tình hình thực thi quyền con người ở Việt Nam”…

Nhiều năm qua, bất chấp tình huống luôn bị phản ứng gay gắt, mỗi năm một lần, qua Báo cáo thường niên về nhân quyền trên thế giới, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ lại tự cho mình “quyền” phán xét tình hình nhân quyền của các nước khác, trừ Hoa Kỳ. Ngày 24/5, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã công bố Báo cáo thường niên về nhân quyền trên thế giới năm 2011 (Báo cáo 2011), trong đó tiếp tục phán xét tình hình nhân quyền ở hàng trăm quốc gia. Ngay lập tức, Báo cáo 2011 đã bị phản ứng gay gắt. Bộ Ngoại giao Cu-ba coi Báo cáo 2011 đề cập tới tình hình nhân quyền ở Cu-ba qua các thông tin “dối trá và vu cáo, vô căn cứ, không đúng thực tế”. Còn Bộ Ngoại giao Trung Quốc khẳng định, Báo cáo 2011 là “tài liệu mang đầy tính phân biệt đối xử”, “coi thường sự thật”, đồng thời kêu gọi Hoa Kỳ “chấm dứt hành động can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác”…

Ngay sau khi Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ công bố Báo cáo 2011, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lương Thanh Nghị đã đánh giá văn bản này: “Trong khi có ghi nhận nhiều thành tựu quan trọng của Việt Nam trong việc đảm bảo quyền con người cho nhân dân Việt Nam, nhưng đáng tiếc vẫn tiếp tục đưa ra một số nhận định thiếu khách quan dựa trên những thông tin sai lệch về tình hình thực thi quyền con người ở Việt Nam”. Qua 48 trang đánh giá tình hình nhân quyền ở Việt Nam, Báo cáo 2011 đưa ra nhiều nhận xét rất phiến diện, sai lệch. Bởi, nếu thật sự am hiểu tình hình nhân quyền ở Việt Nam, có cái nhìn khách quan trong điều kiện Việt Nam dù hoàn cảnh đất nước còn nhiều khó khăn nhưng vẫn nhất quán xác định quan điểm, mục tiêu, chính sách cụ thể và thiết thực… từ đó xây dựng điều kiện thiết yếu, bảo đảm cho mọi người dân được hưởng quyền con người, được phát triển mọi mặt, cuộc sống ngày càng ấm no, hạnh phúc, thì những người soạn thảo Báo cáo 2011 cần tập hợp thông tin nhiều chiều, đặc biệt là cần nắm bắt chính xác nguồn gốc thông tin… Ðáng tiếc, Báo cáo 2011 tiếp tục là sự lặp lại một số luận điệu cũ rích, thậm chí là lặp lại một số sự kiện – vấn đề từ góc nhìn xuyên tạc, bôi đen, dựng đứng, bịa đặt mà các thế lực thù địch với Ðảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam thường rêu rao trên in-tơ-nét, hoặc truyền bá trên một vài diễn đàn được tổ chức với mục đích chống phá, gây tổn hại tới hình ảnh của nước Việt Nam đang trên đường phát triển.

Nói là cũ rích, vì những người soạn thảo Báo cáo 2011 đưa ra nhận định có tính chất vu khống là coi bầu cử Quốc hội năm 2011 ở Việt Nam “không công khai, không công bằng”. Họ đã bất chấp thực tế hiển nhiên là Quốc hội Việt Nam đã, đang vận hành theo tinh thần đổi mới và luôn nhận được sự tin cậy, ủng hộ của nhân dân cả nước. Nói là cũ rích, bởi Báo cáo 2011 tiếp tục đánh đồng tự do báo chí, tự do tôn giáo với hành vi lợi dụng tự do báo chí, lợi dụng tự do tôn giáo để tuyên truyền chống phá Nhà nước, vi phạm pháp luật và đã bị chính quyền xử lý nghiêm khắc. Nói là cũ rích, bởi Báo cáo 2011 vẫn bao che, chạy tội cho mấy “nhà dân chủ cuội” đã cố tình phạm pháp, cố tình gây nhiễu đời sống tinh thần xã hội, hòng kiếm chác từ tài trợ của mấy kẻ là người Việt lưu vong đang sinh sống ở Hoa Kỳ. Nói là cũ rích, vì đã nhiều lần, những người soạn thảo Báo cáo nhân quyền của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ thực hành một nguyên tắc đánh giá rất kỳ quặc, cùng là hành động để bảo đảm sự nghiêm minh của luật pháp, khi chính quyền Hoa Kỳ thực thi thì họ tảng lờ, còn khi chính quyền Việt Nam thực thi thì họ phê phán! Thí dụ: Báo cáo 2011 coi việc cơ quan chức năng của Việt Nam thực thi pháp luật là “đàn áp”, mà quên (hay cố tình quên?) sự kiện: Cảnh sát Hoa Kỳ đã bắt giữ gần 1.000 người chỉ hai tuần sau khi những người tham gia phong trào “Chiếm phố Uôn” tổ chức biểu tình. Khi cho rằng, Việt Nam “tiếp tục dùng các điều khoản an ninh quốc gia và chống vu khống rộng khắp để hạn chế tự do ngôn luận, trong đó có tự do báo chí… các phóng viên nước ngoài phải xin lại visa mỗi ba hay sáu tháng” thì chẳng lẽ những người soạn thảo Báo cáo 2011 lại không biết tới sự kiện trong năm 2011, Thượng nghị viện và Hạ nghị viện Hoa Kỳ đã bỏ phiếu gia hạn các điều khoản về giám sát chống khủng bố trong khuôn khổ Ðạo luật Yêu nước – đạo luật mà nhiều nghị sĩ thuộc cả hai đảng Dân chủ và Cộng hòa khẳng định: “Luật này có thể bị lạm dụng, vi phạm quyền của công dân Mỹ”. Còn nhiều sự kiện nữa có thể dẫn ra để chứng minh những người soạn thảo Báo cáo 2011 là thiếu thiện chí. Ví như việc bà M.Ô-ba-ma – Phu nhân Tổng thống B.Ô-ba-ma, không cho phép hai con gái sử dụng Facebook, bà nói: “Tôi không ủng hộ việc trẻ em sử dụng Facebook”. Ngay cả Tổng thống B.Ô-ba-ma cũng vậy, tới thăm một trường trung học ở Vơ-gi-ni-a, ông nhắc nhở “Hãy cẩn thận về những gì đăng tải trên Facebook” vì chúng “làm ảnh hưởng đến cuộc sống thực của chúng ta vào một lúc nào đó, tại một thời điểm nào đó trong tương lai”.

Có một điều cần nhấn mạnh là, để tiến hành các đánh giá, nhận xét về vấn đề nhân quyền của nước khác, dường như Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ có thói quen khai thác thông tin một chiều, không phân định đúng – sai, không tìm hiểu xuất xứ thông tin? Như một số nhân vật được Báo cáo 2011 gọi là “nhà hoạt động nhân quyền” ở Việt Nam chẳng hạn. Nếu Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ có thiện chí, sẽ không khó để nhận ra đó chỉ là một nhóm các phần tử cơ hội chính trị, lợi dụng vấn đề dân chủ và nhân quyền để “đấu tranh” cho lợi ích cá nhân. Họ chỉ có việc làm duy nhất là hằng ngày “lướt web” rình chộp tin tức về các sự kiện tiêu cực rồi bới móc, bịa đặt, vu cáo, thổi phồng, từ đó bôi đen các giá trị và chính sách ưu việt của Nhà nước Việt Nam,… Do vậy, khi thông tin về tình hình nhân quyền ở Việt Nam mà Báo cáo 2011 đã đề cập chủ yếu khai thác từ kênh thông tin do các thế lực thù địch với Nhà nước và nhân dân Việt Nam truyền bá trên in-tơ-nét, từ một số cơ quan báo chí nước ngoài như BBC, RFA… vốn chưa bao giờ có thiện chí với Việt Nam, thì có thể nghi ngờ tính khách quan và thái độ thiện chí của bản báo cáo này.

Ðể sáng tỏ vấn đề nói trên, những người soạn thảo Báo cáo 2011 nên tìm đọc các bài viết, xem các vi-đê-ô clíp của nhóm nhà báo là người Mỹ gốc Việt làm việc tại Phố Bolsa TV, Việt Weekly, kbchn.net công bố trên in-tơ-nét sau những chuyến về thăm quê hương. Họ được tự do đi lại, được tiếp xúc với mọi thành phần xã hội, từ lãnh đạo cao cấp của Nhà nước đến học sinh, sinh viên, người lao động bình thường. Họ tận mắt chứng kiến sự phát triển của nước Việt Nam hôm nay. Họ nhận ra sự thật đã bị xuyên tạc. Một nhà báo từng là sĩ quan biệt động của chính quyền Sài Gòn trước đây, đã vừa khóc vừa nói trong một vi-đê-ô clíp: “Hãy về Việt Nam, không đi không thấy, đã nhìn rồi thì phải tin, đã tin rồi thì phải chấp nhận sự thật, sự thay đổi đất nước Việt Nam, quê hương rất thanh bình, quê hương trong 36 năm qua đang trên đà phát triển, tin vào một ngày Việt Nam sẽ trở thành một con rồng châu Á”. Rồi ông viết trên một tờ báo xuất bản ở Hoa Kỳ: “Tôi chỉ nhận thấy cộng sản Việt Nam thay đổi khi tôi về Việt Nam và chứng kiến tận mắt cận cảnh từ Hà Nội vào Sài Gòn và miền Tây. Tôi tự do “mướn xe” khách đi về Long Khánh. Tôi không hề phải khai báo với ai khi đi cũng như khi về và xe mướn của tôi hoàn toàn không bị chặn hỏi xét giấy. Ở lại đêm tại Long Khánh không ai đến nhà gõ cửa hỏi thăm về tội “cư ngụ bất hợp pháp” hoặc “ở lại đêm không khai báo”. Do đó, tôi không tin là Việt Nam có thay đổi trước chuyến đi Việt Nam. Tôi chỉ thay đổi 180 độ sau khi về nhận thức điều mắt thấy, tai nghe và qua những lần nói chuyện với một số lãnh đạo cao cấp từ hành chánh, cơ quan chính phủ, công an…”. Tuy nhiên sự nghiệp đổi mới của Ðảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam lại không làm “vừa lòng” một số người mà nói như GS Trần Chung Ngọc – một người Mỹ gốc Việt, là còn “thiếu trí khôn”! Ðó là những người vẫn không “nuốt trôi” thất bại gần 40 năm trước, những người đã không đủ lương thiện để tin vào một cuộc đổi đời của nhân dân Việt Nam. Ðó là những người mà tinh thần yêu nước chỉ là chiêu bài giúp họ đạt tới các mục đích cá nhân thấp kém, trục lợi và “đánh bạc” trên lưng đồng bào mình. Bởi thế, nếu khi soạn thảo Báo cáo 2011 mà dựa trên các thông tin của họ đưa ra là tiếp tay cho cái xấu, là đi ngược lại xu thế hợp tác cùng phát triển của nhân loại.

Năm 2010, nói chuyện với sinh viên Trường đại học Ngoại thương tại Hà Nội, đề cập tới quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ, cựu Tổng thống Bin Clin-tơn nói: “Tất cả các công việc này chúng ta làm cùng nhau, giúp chúng ta lắng nghe, thêm hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau, để cải thiện khởi đầu mới. Quan hệ không thể nở hoa sau một đêm, nhưng có thể đem lại kết quả qua thời gian, bằng những nỗ lực chung”, đây cũng là điều mà nhiều vị lãnh đạo và chính khách Hoa Kỳ đã nhấn mạnh trong các năm qua. Gần đây, tới thăm Việt Nam theo lời mời của Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam Phùng Quang Thanh, Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Lê-ôn Pa-nét-ta cũng khẳng định: “Chúng ta xây đắp một quan hệ đối tác mạnh mẽ giữa hai nước để nhìn tới tương lai”. Ðó là ý kiến rất xác đáng, không chỉ phù hợp quan hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, mà còn phù hợp xu thế chung của sự phát triển trong thế giới hiện đại. Do vậy để đánh giá, nhận xét vấn đề nhân quyền ở Việt Nam, Hoa Kỳ cần tôn trọng sự lựa chọn của Ðảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam, nhìn thẳng vào những cố gắng và các thành tựu, từ đó nỗ lực hợp tác để quan hệ hai nước ngày càng phát triển. Tin rằng Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ sẽ thay đổi cách thức nhìn nhận và đánh giá, để không còn luẩn quẩn với những điều cũ rích, can thiệp một cách thô bạo vào công việc nội bộ của Việt Nam.

(Trần Quang Hà – Báo Nhân Dân)

Nga phản đối báo cáo nhân quyền của Mỹ

16:39 | 23/04/2013

(ĐCSVN) – Bộ Ngoại giao Nga, ngày 22/4, đã phản đối báo cáo về tình hình nhân quyền năm 2012 mà Bộ Ngoại giao Mỹ vừa đưa ra, đồng thời cáo buộc Washington “đã áp dụng tiêu chuẩn kép” khi đưa ra bản báo cáo này.

Phái viên Bộ Ngoại giao Nga về vấn đề Nhân quyền, dân chủ, quyền tối cao của pháp luật Sergei Dolgov cho rằng, bản báo cáo về tình hình nhân quyền năm 2012 do Ngoại trưởng John Kerry trình lên Quốc hội Mỹ ngày 19/4 đã “lạm dụng” các chủ đề về nhân đạo và quyền con người nhằm phục vụ cho những lợi ích chính trị của Washington.

Ông Dolgov nói: “Bản báo cáo nhân quyền năm 2012 của Bộ Ngoại giao Mỹ đã đi theo lối mòn của các bản báo cáo trước… Bản báo cáo nhân quyền năm 2012 của Bộ Ngoại giao Mỹ đã đưa ra những kết luận thiếu căn cứ… Các đối tác Mỹ đã cố tình bỏ qua những công việc mà các nhà lãnh đạo Nga đang theo đuổi nhằm tăng cường hệ thống pháp luật và chính trị, cải cách các cơ quan thi hành luật và chống lại tệ nạn tham nhũng”.

Ông Doglov cho rằng, Moscow ”rất khó hiểu” trước nội dung trong bản báo cáo nhân quyền 2012 của Mỹ cho rằng, một cuộc xung đột đang diễn ra tại vùng Bắc Capcaz giữa quân đội Liên bang Nga và các lực lượng nổi dậy, các nhóm tội phạm và các phần tử cực đoan đã tạo ra một “tình trạng miễn trừ và vi phạm nhân quyền tại Nga”. Các cơ quan thi hành luật của Nga và các nhà chức trách ở Bắc Capcaz đang chống lại những mối đe dọa của chủ nghĩa khủng bố và đây cũng là một “nhiệm vụ tiềm năng” mà các nhà chức trách Mỹ đang theo đuổi, điển hình như vụ tấn công bom khủng bố tại giải marathon ở Boston vừa qua. Qua đó, quan chức trên cho rằng, Nga “dứt khoát” không thể chấp nhận một cách tiếp cận bị chính trị hóa một cách công khai được đề cập trong bản báo cáo nhân quyền 2012 của Mỹ. “Moscow hy vọng Mỹ sẽ đưa ra cách tiếp cận cân bằng và khách quan hơn đối với vấn đề nhân quyền…Nga luôn sẵn sàng tham gia vào các cuộc đối thoại cởi mở, bình đẳng, mang tính chất xây dựng, tôn trọng lẫn nhau và hợp tác với Mỹ về vấn đề nhân quyền”, ông Doglov nói.

Theo quan điểm của ông Doglov, không có một quốc gia nào trên thế giới có thể “miễn nhiễm” trước các vấn đề về nhân quyền và Mỹ cũng không phải là một trường hợp ngoại lệ. Cụ thể, hiện một số vấn đề về nhân quyền mà nước Mỹ phải đối mặt bao gồm bất bình đẳng xã hội, phân biệt chủng tộc, giam cầm tù nhân mà không thông qua xét xử, vi phạm quyền cử tri, hạn chế internet …

Trước Bộ Ngoại giao Nga, ngày 21/4, Văn phòng Thông tin Quốc vụ viện Trung Quốc đã ra báo cáo về tình hình nhân quyền ở Mỹ, “đáp trả” báo cáo về tình hình nhân quyền năm 2012 mà Bộ Ngoại giao Mỹ đưa ra ngày 19/4.

Nhận xét về báo cáo nhân quyền các quốc gia của Bộ Ngoại giao Mỹ, Trung Quốc cho rằng, cũng như những năm trước, bản báo cáo đầy những “đánh giá vô trách nhiệm và chỉ trích về tình hình ở hơn 190 quốc gia và khu vực, trong đó có Trung Quốc. Tuy nhiên, Mỹ lại nhắm mắt làm ngơ, không đả động một từ nào đến tình hình nhân quyền ở chính nước mình”. Trung Quốc nhấn mạnh có những vấn đề nghiêm trọng về nhân quyền ở Mỹ dẫn tới nhiều chỉ trích mạnh mẽ trên thế giới, trong khi Mỹ một lần nữa tự cho mình là “người phán xét về nhân quyền thế giới”./.

T.L (Theo Xinhua, www.rferl.org)

Bộ mặt thật dưới chiêu bài nhân quyền

16:35 | 11/03/2005

Cái gọi là “Báo cáo tình hình thực thi nhân quyền trên thế giới năm 2004” do Bộ Ngoại giao Mỹ công bố (ngày 28-2-2005) đã làm dấy lên làn sóng phản đối mạnh mẽ từ khắp các châu lục. Lặp lại trò cũ rích, tự cho mình quyền phán xét nước khác, thái độ vu cáo, trịch thượng của Bộ Ngoại giao Mỹ xúc phạm tất cả những người có lương tri, tôn trọng lẽ phải và công lý. Việt Nam, Trung Quốc, CHDCND Lào, Cuba, Nga và nhiều quốc gia khác đã bác bỏ bản báo cáo phi lý đó, đồng thời vạch trần Mỹ là nước vi phạm nhân quyền nhất thế giới, đáng bị lên án. 

Bộ Ngoại giao Mỹ đưa 196 nước và vùng lãnh thổ vào danh sách các nước vi phạm nhân quyền. Cũng như mọi lần, một số tổ chức “theo đóm ăn tàn”, khoác áo nhân quyền ra kiến nghị áp đặt cấm vận, trừng phạt nước này, nước kia vì đã vi phạm quyền con người, tự do và dân chủ. Nhưng màn kịch vụng về, quá nhàm của họ chỉ 1àm tăng sự phẫn nộ và phản đối trong dư luận. Chiêu bài nhân quyền của Bộ Ngoại giao Mỹ nhằm che đậy tình trạng Mỹ vi phạm nhân quyền của nước mình và tại các nước khác. Bản “Ghi chép nhân quyền của Mỹ năm 2004”, do Văn phòng Thông tin Quốc vụ viện Trung Quốc công bố (ngày 3-3) nêu rất nhiều bằng chứng mà Mỹ không thể chối cãi. Đó là tình trạng tội phạm trong xã hội Mỹ xảy ra tràn lan; năm2003 có gần 24 triệu vụ phạm tội của công dân Mỹ từ 12 tuổi trở lên trong đó có 1.381.258 vụ cướp của, giết người và các tội phạm khác (Bộ Tư pháp Mỹ). Đó là cuộc sống và an toàn tính mạng của người dân Mỹ không được bảo đảm, tới 13% số tù nhân bị xâm hại giới tính (Thời báo Niu Oóc, Mỹ). Đó còn là tình trạng tệ nạn xã hội tràn lan; trong ba năm qua số người nghèo liên tục tăng, năm 2003 tăng 1,3 triệu, lên 35,9 triệu người; người da màu nghèo hơn, thường bị giam cầm nhiều hơn người da trắng, chiếm tới 70% số tù nhân cả nước (Bộ Tư pháp Mỹ). Theo Cục điều tra Liên bang Mỹ (FBI) năm 2003, cứ 100 nghìn phụ nữ thì 60,2 người là nạn nhân các vụ hiếp dâm; một phụ nữ làm việc cả ngày chỉ kiếm được số tiền bằng 81,1% so với nam giới làm cùng công việc (Bộ Lao động Mỹ). Mỗi năm hơn 4,5 triệu trẻ em ở Mỹ bị lạm dụng tình dục ở trong các nhà trẻ và nhà trường với tỷ lệ khoảng 10% (AP), v.v. Nực cười là, Mỹ vẫn vỗ ngực khoe khoang xứ sở của Nữ thần Tự do là “hình mẫu dân chủ”, vậy mà cho đến nay Mỹ nằm trong số rất ít nước chưa phải là thành viên (mới ký mà chưa phê chuẩn) của ít nhất hai công ước cơ bản của LHQ. Công ước về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ và Công ước về quyền trẻ em, Thật lố bích hết chỗ nói!

Điều nghiêm trọng hơn nữa là, Mỹ còn ngang ngược vi phạm nhân quyền tại nhiều nơi trên thế giới. Cùng với những bằng chứng mà bản “Ghi chép nhân quyền của Mỹ” do Trung Quốc công bố nêu ra, Hội Chữ thập đỏ quốc tế, dư luận các nước Mi-an-ma, Nga, Tây Ban Nha, Xy-ri, thậm chí ngay cảc báo Mỹ như Tuần tin tức, Bưu điện Oa-sinh-tơn cũng lên tiếng tố cáo lính Mỹ ngược đãi, làm nhục tù nhân tại nhà tù A-bu Gra-íp (I-rắc), cáo buộc Mỹ làm hơn 100 nghìn dân thường I-rắc, trong đó phần lớn là phụ nữ và trẻ em chết từ khi Mỹ gây ra cuộc chiến tranh tại nước này, lên án lính Mỹ ngược đãi cả tù nhân bị thương, giam giữ không xét xử hàng trăm người tại căn cứ quân sự của Mỹ trên đảo Goan-ta-na-mô của Cu-ba. Các tổ chức bảo vệ nhân quyền quốc tế nhiều lần phẫn nộ đòi Mỹ phải chấm dứt việc biện minh cho kế hoạch hạt nhân nhằm “răn đe”, thậm chí để “đánh đòn phủ đầu” các nước, trong khi chính mình lại hung hăng đe đọa trừng phạt các nước khác với cái cớ là họ phát triển vũ khí hạt nhân. Hội đồng bảo vệ các nguồn tài nguyên thiên nhiên có trụ sở tại Niu Oóc vạch rõ “Mỹ đang tàng trữ tại châu Âu 480 vũ khí hạt nhân, lớn hơn kho vũ khí hạt nhân của bất cứ quốc gia châu Âu nào, dù không còn lý do để duy trì”, đồng thời đòi Oa-sinh-tơn “phải nhanh chóng hủy bỏ số vũ khí đang trở thành mối đe doạ đối với châu Âu”. Dư luận cũng bức xúc trước việc những năm gần đây Mỹ bắt giữ hàng chục nhà báo tại các sân bay Mỹ, cấm phóng viên các nước I-ran, Cu-ba, Xu-đăng… vào Mỹ; bất bình trước việc Mỹ áp đặt thực thi luật “Hành động vì nền dân chủ ở Bê-la-rút”, “Phát triển dân chủ ở Ucrai-na”, lên kế hoạch sát hại Tổng thống Vê-nê-xu-ê-la, thúc ép các nước A-rập ủng hộ kế hoạch “Đại Trung Đông”,.v.v; đồng thời vạch rõ mưu toan áp đặt tự do, dân chủ kiểu Mỹ là không thể chấp nhận. Chính phủ các nước nêu rõ rằng, những hành động Mỹ lợi dụng nhân quyền hòng can thiệp, phá hoại nội bộ các nước không thể làm chệch hướng phát triển mà dân tộc đã lựa chọn, mà chỉ gây phương hại mối quan hệ giữa Mỹ và các nước. Chắc chắn, chính nhân dân Mỹ cũng sẽ đòi hỏi chính quyền Oa-sinh-ton sớm chấm dứt sự lặp lại những điều dối trá, che đậy và đạo đức giả về nhân quyền, nhìn thẳng vào vấn đề nhân quyền nghiêm trọng của Mỹ, chứ không phải là ra “báo cáo nhân quyền” chỉ trích nước khác. Bởi vì, điều này chẳng đem lại lợi ích gì cho chính nước Mỹ, cũng như nỗ lực chung của nhân dân thế giới xây dựng một thế giới hòa bình, ổn định, để các dân tộc cùng phát triển bình đẳng, tiến bộ và phồn vinh.

Đối với Việt Nam, báo cáo nhân quyền của Bộ Ngoại giao Mỹ đã thừa nhận những thành tựu và tiến bộ nhiều mặt năm 2004, tuy nhiên vẫn nhìn nhận sai lệch, xuyên tạc sự thật. Báo cáo nhai lại luận điệu vu cáo Việt Nam hạn chế quyền của công dân thay đổi chính phủ của mình (!); hạn chế tự do ngôn luận, báo chí, kỳ thị tôn giáo, dân tộc.v.v Chúng ta kịch liệt bác bỏ sự vu cáo trắng trọn đó của Bộ Ngoại giao Mỹ. Chính sách nhất quán cùng những nỗ lực to lớn của Đảng và Nhà nước Việt Nam xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân, thành tựu mọi mặt của nhân dân ta thu được trong công cuộc đổi mới đất nước được cộng đồng quốc tế ghi nhận và đánh giá cao. Lãnh đạo các nước An-giê-ri, CHLB Đức, Tây Ban Nha, Hy Lạp, Manta… mới đây nhấn mạnh sự phát triển ổn định và bền vững ở Việt Nam ngày càng nâng cao vị thế của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới. Rất nhiều nhà hoạt động chính trị, nhà nghiên cứu, khách du lịch, nhà báo các nước tiếp tục coi Việt Nam là “điểm du lịch hấp dẫn”, là “điểm đến, đầu tư an toàn”. Dư luận Anh, Hàn Quốc, Niu Di-lân, Nam Phi và nhiều nước khác chia sẻ đau thương, mất mát với các nạn nhân chất độc da cam/đi-ô-xin, đòi chính quyền Oa-sinh-tơn phải có trách nhiệm và pháp lý về hành động tội ác đã gây ra đối với nhân dân Việt Nam. Đó là một vài trong vô vàn bằng chứng sinh động nêu bật đường lối đổi mới, chính sách tôn trọng quyền làm chủ, quyền công dân và quyền con người của Đảng và Nhà nước Việt Nam được nhân dân thế giới, trong đó có nhân dân Mỹ ủng hộ và đánh giá cao.

Việt Nam hoàn toàn bác bỏ báo cáo nhân quyền xuyên tạc của Bộ Ngoại giao Mỹ. Những người Mỹ hiểu rõ tình hình Việt Nam, tôn trọng thực tế, có cái nhìn khách quan đã, đang và tiếp tục phản đối lên án việc làm vô lý, sai trái đó. Không chịu xem lại chính mình trước những tiếng chuông cảnh tỉnh, cố tình lặp lại những việc làm vi phạm luật pháp quốc tế, những thế lực lỗi thời trong chính quyền Mỹ ngày càng lạc lõng và bị cô lập!

Theo Phương Hà
Báo Nhân dân, ngày 10/3/2005

Việt Nam sẵn sàng đối thoại về các vấn đề nhân quyền

17:04 | 17/03/2005

Ngày 16/3, phát biểu tại khóa họp thường niên 61 của Ủy ban Nhân quyền Liên Hợp Quốc tại Giơnevơ (Thuỵ Sỹ), Trưởng phái đoàn Việt Nam, Trợ lý Bộ trưởng Ngoại giao Đào Việt Trung khẳng định Việt Nam sẵn sàng đối thoại và hợp tác với tất cả các nước về các vấn đề nhân quyền cùng quan tâm.

Tại phần tham luận cấp cao của khóa họp, đại diện Việt Nam nêu rõ xuất phát từ kinh nghiệm của mình, Việt Nam cho rằng cần phải giải quyết một cách toàn diện tất cả các quyền con người. Việc chỉ ưu tiên hoặc tuyệt đối hóa các quyền dân sự, chính trị và một số quyền tự do cá nhân, không quan tâm thích đáng đến quyền phát triển, các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa là cách đề cập phiến diện, không thể hiện đầy đủ, toàn diện các quyền cơ bản của con người.

Trưởng đoàn Việt Nam khẳng định đối với Việt Nam, đảm bảo quyền con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp xây dựng đất nước. Những thành tựu về mọi mặt của Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội trong năm 2004 khẳng định Nhà nước Việt Nam luôn phần đấu hết sức mình để đảm bảo cho mọi người dân được hưởng tối đa quyền con người.

Về vấn đề cải tổ Uỷ ban Nhân quyền Liên hợp quốc, trưởng đoàn Việt Nam nhấn mạnh uỷ ban Nhân quyền Liên hợp quốc cần phải được cải tổ về cách tiếp cận đối với các vấn đề nhân quyền. Sự đối đầu về ý thức hệ, thái độ “chuẩn mực kép” và chính trị hoá cần được thay thế bằng đối thoại và hợp tác. Uỷ ban Nhân quyền phải trở thành một diễn đàn để tất cả các nước, dù lớn hay nhỏ, cùng nhau trao đổi quan điểm, đối thoại và cùng nhau tìm kiếm giải pháp thúc đẩy và bảo vệ nhân quyền thế giới.

Theo ông Trung, thời gian qua, Uỷ ban Nhân quyền đã quá tập trung vào các quyền dân sự và chính trị, không quan tâm thích đáng đến các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội và quyền phát triển; đồng thời Ủy ban bị một số nước, tổ chức phi chính phủ lạm dụng, biến thành diễn đàn để công kích, gây sức ép các nước đang phát triển.

Ông nêu rõ Việt Nam ủng hộ những nỗ lực thúc đẩy hợp tác quốc tế trong khuôn khổ đa phương và song phương về nhân quyền trên cơ sở đối thoại bình đẳng, xây dựng, tôn trọng và hiểu biết lẫn nhau, vì mục tiêu chung là thúc đẩy và bảo vệ các quyền con người, đồng thời cho rằng không nước nào có quyền sử dụng vấn đề nhân quyền như một công cụ gây đối đầu, gây sức ép chính trị hoặc đặt điều kiện trong quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại với nước khác./.

BTK-TTX

“Miếng đất nhân quyền” màu mỡ

10:34 | 23/08/2005

Bức tranh toàn diện, trung thực về thành tựu bảo vệ và phát triển nhân quyền ở Việt Nam đã được giới thiệu rộng rãi cho dư luận trong và ngoài nước với việc Bộ Ngoại giao Việt Nam cho công bố sách trắng về nhân quyền Việt Nam.

Đây là lần đầu tiên Việt Nam cho công bố Sách trắng về nhân quyền để khẳng định những gì mình đã làm vì con người và quyền cơ bản của con người. Tuy nhiên, không phải đến bây giờ vấn đề nhân quyền mới có sự mở đầu, mới được quan tâm chú ý ở Việt Nam. Lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc ta là lịch sử đấu tranh kiên cường vì quyền cao cả nhất, thiêng liêng nhất của một dân tộc là phải được sống trong hòa bình, độc lập, tự do, phải được tự định đoạt con đường phát triển của mình. Cái quyền đó ngày nay đã trở thành nguyên tắc có tính nền tảng có thể tìm thấy trong Hiến chương Liên hợp quốc và rất nhiều văn bản quốc tế khác.
Hay như trong Tuyên ngôn Độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã long trọng tuyên bố với toàn thế giới : “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào quyền tự do”. 60 năm đã trôi qua, mỗi khi nhìn lại, chúng ta lại càng thấy rõ hơn cống hiến vô giá này của dân tộc Việt Nam trong việc phát triển tư tưởng nhân quyền như một giá trị văn minh của nhân loại.

Ngay cả trong “cuộc đọ sức lịch sử” để giành lấy quyền lớn nhất được sống trong hòa bình, tự do, độc lập, khi sự nghiệt ngã của chiến tranh, sự khắc nghiệt của những quy định thời chiến tưởng như không thể dung hòa với bất cứ một “khoảng trời riêng nào”, chính sách đối với con người vẫn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm đặc biệt, bởi con người luôn được xác định vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Có lẽ chính biết quan tâm chăm lo đến con người, biết khơi dậy và khai thác tiềm năng của con người Việt Nam đã tạo ra động lực làm bùng nên sức mạnh vô tận giúp chúng ta vượt qua những thử thách cực kỳ khắc nghiệt của chiến tranh trước đây và lập nên kỳ tích của thời kỳ Đổi mới ngày nay, làm rạng rỡ đất nước, làm cả thế giới phải khâm phục

Với việc công bố Sách trắng về nhân quyền, bức tranh toàn diện và trung thực về thành tựu nhân quyền của Việt Nam đã được tái hiện rõ nét. Nhìn vào những số liệu và bằng chứng sinh động nêu trong cuốn sách, chúng ta hoàn toàn có thể tự hào về những gì mà mình đã làm được. Không chỉ được quy định trong hiến pháp và các văn bản pháp quy của Việt Nam, quyền con người ở Việt Nam đã được cụ thể hóa thành những thực tế mà cả thế giới công nhận và ca ngợi. Chỉ xin nêu vài ví dụ. Nói đến nhân quyền thì trước hết phải xem chính phủ đã làm được gì để cải thiện đời sống kinh tế, văn hóa, tinh thần cho người dân, nhất là ở đất nước còn nghèo và kém phát triển như Việt Nam. Trong hàng thập kỷ qua, tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam luôn ở nhóm cao nhất thế giới. Nhưng điều đáng nói hơn là sự khởi sắc này đã chuyển hóa đến từng người dân, nhất là những người nghèo. Chính vì thế mà Cơ quan phát triển Liên hợp quốc đã đánh giá: “Việt Nam đã đạt được những tiến bộ đáng khâm phục trong việc phát triển con người và giảm tỷ lệ nghèo kể từ khi công cuộc Đổi mới bắt đầu. Việt Nam đã sử dụng thu nhập của mình cho mục tiêu phát triển con người tốt hơn nhiều nước có thu nhập cao hơn mình”.

Trong điều kiện đất nước còn nghèo, Đảng và Chính phủ luôn chủ trương tăng trưởng kinh tế phải đi liền với công bằng và tiến bộ xã hội, Nhiều chương trình xóa đói giảm nghèo, xây dựng nhà tình nghĩa, phát triển cơ sở hạ tầng ở vùng sâu vùng xa, trợ giúp người nghèo, bảo hiểm y tế cho người dân…đã được thực hiện. Nỗ lực đó đã đưa đến kết quả là theo chuẩn nghèo của quốc tế, trong vòng 2 thập kỷ qua, Việt Nam đã giảm 50% số người nghèo, đạt được mục tiêu số 1 trong các mục tiêu thiên niên kỷ mà LHQ đề ra trước thời hạn năm 2015. Đó là bức tranh sống động nhất, chân thực nhất về nỗ lực vì con người của Việt Nam với đầy tinh thần nhân ái, là bằng chứng rõ ràng cho thấy Việt Nam luôn đặt mục tiêu vì dân, do dân, lấy cuộc sống ấm no, hạnh phúc của người dân làm cái đích phấn đấu của mình.

Tất cả những dẫn chứng nêu trên là thực tế hùng hồn bác bỏ các quan điểm sai trái từ trước đến nay coi nhân quyền là “miếng đất trống khô cằn” ở Việt Nam, là chủ đề xa lạ, là điều cấm kỵ, là sản phẩm phải được tạo ra dưới sức ép từ bên ngoài, mà những thế lực thiếu thiện chí với Việt Nam thường bịa đặt lên. Khẳng định nhân quyền và nghĩa vụ thực hiện nhân quyền là mối quan tâm chung của nhân loại, chia rẽ quan điểm quyền con người vừa mang tính phổ biến thể hiện khát vọng chung của nhân loại, vừa có tính đặc thù đối với từng xã hội và cộng đồng, cuốn Sách trắng một lần nữa nhắc lại quan điểm của Chính phủ Việt Nam cho rằng, trong một thế giới ngày càng đa dạng, khi tiếp cận và xử lý vấn đề quyền con người cần kết hợp hài hòa các chuẩn mực, nguyên tắc chung của luật pháp quốc tế với những điều kiện đặc thù về lịch sử, chính trị, kinh tế – xã hội, các giá trị văn hoá, tôn giáo, tín ngưỡng, phong tục tập quán của mỗi quốc gia và khu vực. Không một nước nào có quyền áp đặt mô hình chính trị, kinh tế, văn hoá của mình cho một quốc gia khác. Có thể nói, trong lĩnh vực này, Sách trắng sẽ là công cụ sắc bén và hữu hiệu trong cuộc đấu tranh chống lại các thế lực đang lợi dụng vấn đề nhân quyền để can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam với mục đích xấu.

Tất nhiên, Việt Nam không cho rằng mình đã hoàn hảo mọi việc trong vấn đề nhân quyền, chúng ta còn phải làm rất nhiều để đảm bảo và tiếp tục hoàn thiện các quyền của người dân. Việc công bố Sách trắng về nhân quyền là thể hiện sự quan tâm, là cam kết của Việt Nam tiếp tục phấn đấu phát triển không ngừng quyền con người ở Việt Nam, tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh chống xu hướng chính trị hoá và thái độ “tiêu chuẩn kép” trong vấn đề nhân quyền, đồng thời đảm bảo công cuộc thúc đẩy và bảo vệ quyền con người Việt Nam trở thành nhân tố quan trọng cho sự phát triển bền vững, bảo đảm thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.

60 năm lập nước là thời điểm lịch sử để chúng ta nhìn lại và tự hào khi chứng kiến “miếng đất nhân quyền” màu mỡ ở Việt Nam. Có thể nói đó là kết quả của sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa bản chất ưu việt, tiến bộ của chế độ xã hội chủ nghĩa với truyền thống nhân đạo, nhân văn của dân tộc Việt Nam, giữa chính sách nhất quán của Nhà nước Việt Nam luôn đặt con người là trọng tâm trong sự phát triển đất nước, với việc thực hiện nghiêm túc các chuẩn mực và nghĩa vụ được quy định trong các Công ước quốc tế cơ bản về quyền con người mà Việt Nam đã tham gia.

Theo Mạnh Tường, báo QĐ ND ngày 19/8/2005

Nhân quyền và Quyền con người ở Việt Nam được đảm bảo tốt nhất

18:12 | 05/03/2005

(ĐCSVN)- “Báo cáo nhân quyền 2004” của Bộ Ngoại giao Mỹ vừa được công bố hôm 28/2 chứa đựng những nội dung xuyên tạc và bóp méo tình hình ở Việt Nam. Báo cáo nói trên là sự can thiệp thô bạo vào công việc nội bộ của Việt Nam, làm tổn thương tình cảm và lòng tự trọng của nhân dân Việt Nam. Việc làm này đi ngược lại xu hướng cải thiện và phát triển quan hệ hợp tác và hữu nghị giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, hoàn toàn trái với lợi ích của nhân dân hai nước”.

Ở Việt Nam, Quyền con người chính là phẩm giá, nhu cầu, lợi ích, năng lực của con người, với tư cách là thành viên của cộng đồng nhân loại, được pháp luật ghi nhận và bảo đảm thực hiện. Quyền con người trong công cuộc đổi mới ở nước ta những năm qua đã đạt được những thành tựu to lớn:

Xác định đúng những quan điểm, chủ trương về quyền con người.

Ngay từ Đại hội VI, khi đất nước tiến hành công cuộc đổi mới, Đảng ta đã khẳng định: “phải tôn trọng và bảo đảm những quyền công dân”. Quyền công dân ở đây chính là những quyền con người đã được ghi nhận trong Hiến pháp và hệ thống pháp luật của một quốc gia có chủ quyền.

Sau Đại hội VII năm 1991, ngày 12/7/1992 Ban Bí thư Trung ương Đảng đã có Chỉ thị số 12/CT/TW- Một văn bản quan trọng về vấn đề quyền con người. Có thể nói vắn tắt những quan điểm đó là:

Thứ nhất: quyền con người là thành quả của cuộc đấu tranh lâu dài trong tự nhiên và trong xã hội qua các thời đại, trở thành giá trị chung của nhân loại.

Thứ hai: trong xã hội có phân chia giai cấp đối kháng, quyền con người mang tính giai cấp sâu sắc.

Thứ ba: chỉ dưới tiền đề độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, thì quyền con người mới có điều kiện đảm bảo rộng rãi, đầy đủ, trọn vẹn nhất.

Thứ tư: quyền con người của cá nhân gắn với việc bảo đảm lợi ích của tập thể, của cộng đồng xã hội.

Thứ năm: quyền dân chủ tự do của mỗi cá nhân không tách rời nghĩa vụ và trách nhiệm công dân.

Thứ sáu: quyền con người gắn với quyền dân tộc cơ bản và thuộc phạm vi chủ quyền quốc gia.

Thứ bảy: quyền con người luôn luôn gắn liền với lịch sử, truyền thống và phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế, văn hóa của đất nước. Do vậy, không thể áp đặt hoặc sao chép máy móc các tiêu chuẩn, mô thức của nước này cho nước khác.

Đến Đại hội VIII (1996), Đảng Cộng sản Việt Nam nêu rõ chủ trương “bồi dưỡng và phát huy nguồn lực con người” và khẳng định: “chăm lo cho con người, cho cộng đồng xã hội là trách nhiệm của toàn xã hội, của mỗi đơn vị, của từng gia đình, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân”. Trong đó, ưu tiên xây dựng các luật về kinh tế, về các quyền công dân, các luật điều chỉnh các hoạt động văn hóa thông tin (Văn kiện Đại hội VIII, tr. 32).

Bước sang Thế kỷ XXI với những sự kiện lịch sử trọng đại, Đảng Đảng Cộng sản Việt Nam tiến hành Đại hội lần thứ IX, xác định: “Chăm lo cho con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mọi người; tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người, mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia” (Văn kiện Đại hội IX). Nội dung đề cập trên thể hiện tính hệ thống các quan điểm của Đảng về quyền con người, là cơ sở cho những thành tựu to lớn đạt được trong vấn đề này ở Việt Nam, chỉ tính từ khi đất nước đổi mới đến nay.

Sự ghi nhận tổng quát quyền con người trong Điều 50 của Hiến pháp 1992 là một sự kế thừa những giá trị nhân văn cao quý của nhân loại và là sự khẳng định những thành quả của cách mạng Việt Nam trên lĩnh vực nhân quyền. Trong Hiến pháp 1992, vấn đề quyền con người được thể hiện ở rất nhiều điều khoản, trong tất cả các chương nhằm bảo đảm cho mỗi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, được pháp luật bảo vệ mọi quyền và lợi ích chính đáng và tạo điều kiện để có cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc.

Đạo luật cơ bản của Việt Nam nêu rõ: mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật; công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương…

Mở rộng quyền cư trú, quyền tự do đi lại, quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài trở về nước theo qui định của pháp luật; bảo đảm quyền của người Việt Nam định cư ở nước ngoài và người nước ngoài cư trú ở Việt Nam.

Quy định thêm một số điều khoản quan trọng về hình sự và tố tụng hình sự ở mức độ quy phạm lập hiến: “Không ai bị coi là có tội, và phải chịu hình phạt khi chưa có bản kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật; người bị bắt, bị tạm giam, bị truy tố xét xử trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất và phục hồi danh dự. Người làm trái pháp luật trong việc bắt giam giữ, truy tố, xét xử gây thiệt hại cho người khác phải xử lý nghiêm minh” (Điều 72).

Qui định rõ đại biểu các cơ quan dân cử còn phải chịu trách nhiệm khi không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của cử tri.

Hiến pháp Nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng nêu rõ: quyền con người trong những lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, thể hiện chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa…

Làm rõ mối quan hệ giữa quyền lợi và nghĩa vụ của công dân: “Quyền của công dân không tách rời nghĩa vụ của công dân. Nhà nước đảm bảo các quyền của công dân; công dân phải làm tròn nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước” (Điều 51)…

Có thể khẳng định quyền con người là giá trị bền vững, cao quí mà các bản Hiến pháp của Việt Nam đã trang trọng qui định, đồng thời không ngừng bổ sung, nâng cao và phát triển. Từ 13 quyền ở Hiến pháp 1946, đã được nâng lên 21 quyền ở Hiến pháp 1959, 29 quyền ở Hiến pháp 1980 và 34 quyền ở Hiến pháp 1992. Nhà nước Việt Nam đã tham gia phê chuẩn 8 Công ước quốc tế về quyền con người.

Để đảm bảo thực hiện tốt quyền con người, quyền công dân theo qui định của Hiến pháp nước ta và phù hợp với Công ước quốc tế, đến nay Nhà nước ta đã sửa đổi bổ sung Hiến pháp 1992, tiếp tục sửa đổi và ban hành nhiều bộ luật khác, như: Bộ luật Dân sự, Bộ luật Lao động, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Tổ chức và hoạt động của Nhà nước, Luật Hành chính, Luật Hôn nhân gia đình, Luật chống tham nhũng, Luật Khiếu nại tố cáo, Luật Chăm sóc bảo vệ và giáo dục trẻ em v.v.

Trong những năm qua, Việt Nam đã đạt được những thành tựu lớn, có ý nghĩa quan trọng về quyền con người trên những lĩnh vực quyền cơ bản.

Quyền dân sự là những quyền thuộc về nhân thân, gắn với mỗi cá nhân như các quyền: quyền sống, quyền đối với họ tên, quốc tịch, hình ảnh, quyền không bị tra tấn nhục hình và đối xử vô nhân đạo, quyền tự do cư trú và đi lại, quyền an ninh cá nhân, bất khả xâm phạm về thân thể, quyền được bảo vệ danh dự và nhân phẩm, quyền được xét xử công bằng, quyền được bí mật về thư tín và đời tư…

Để thấy rõ những thành tựu to lớn về nhân quyền của Việt Nam, trước hết cần khẳng định lại một vấn đề rất cơ bản : Đánh giá tình hình nhân quyền ở một quốc gia cụ thể, cần xem xét những mặt cơ bản và cụ thể tạo nên bức tranh tổng thể về nhân quyền của một dân tộc cụ thể ở một quốc gia cụ thể. Không có thứ nhân quyền chung chung. Biểu hiện cao nhất, cụ thể nhất, thiêng liêng nhất của nhân quyền đối với một đất nước, chính là quốc gia ấy phải được độc lập, nhân dân phải được tự do, đời sống vật chất và tinh thần của các tầng lớp nhân dân ngày càng được cải thiện.

Chính vì phấn đấu cho mục tiêu thiêng liêng đó, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân Việt Nam đã kiên trì chiến đấu hơn bảy thập kỷ qua. Nhân dân Việt Nam đã đánh thắng thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, giải phóng và thống nhất đất nước, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, bảo vệ toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ quốc gia. Sau gần 20 năm, với đường lối đổi mới đất nước, Việt Nam đang từng bước thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đấy là biểu hiện cao nhất và cụ thể nhất của nhân quyền ở Việt Nam.

Đảng Cộng sản Việt Nam được nhân dân Việt Nam thừa nhận là Đảng lãnh đạo đất nước, xã hội và tin theo suốt 75 năm qua. Cương lĩnh của Đảng được nhân dân, cả dân tộc Việt Nam đồng tình ủng hộ vì Đảng đồng thời là đại diện lợi ích của nhân dân, của dân tộc Việt Nam. Nhờ vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam quy tụ và nhân lên sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, đã đánh thắng những tên đế quốc lớn nhất của thời đại. Hiến pháp là sự thể hiện ý chí và nguyện vọng của nhân dân. Hiến pháp của Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam Việt Nam đã được bổ sung, sửa đổi nhiều lần, đặc biệt là lần sửa đổi Hiến pháp năm 1992 tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa X vừa qua. Đông đảo quần chúng và nhân dân không có ai đề nghị thay đổi hoặc bổ sung Điều 4 của Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Điều 4 ấy khẳng định rõ : Đảng Cộng sản Việt Nam đại diện trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động, của dân tộc Việt Nam, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội Việt Nam.

Sở dĩ tuyệt đại đa số nhân dân Việt Nam khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam vì Đảng là người khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới đất nước, đã và đang gắn bó với các tầng lớp nhân dân làm nên những thành tựu to lớn của đất nước trong thời kỳ đổi mới. Đó chính là sự biểu hiện toàn diện, tập trung và sâu sắc nhất về nhân quyền. Nguyên nhân của tất cả những thành tựu không ai có thể phủ nhận đó của chúng ta bắt nguồn từ đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà nước Việt Nam mà thực tế đang vận hành và đem lại hiệu quả, lợi ích cụ thể trên tất cả các bình diện của đời sống kinh tế – xã hội đất nước. Chúng ta có quyền tự hào về những cố gắng và tiến bộ lớn trong việc phát triển nhân quyền ở nước Việt Nam.

Trong những năm qua, Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng trên nhiều lĩnh vực, tạo ra những tiền đề và điều kiện vật chất tốt hơn để thực hiện và phát huy các quyền và quyền tự do cơ bản của người dân. Việt Nam đã được quốc tế ghi nhận là một trong những quốc gia hàng đầu về xoá đói, giảm nghèo, là nơi có môi trường an ninh chính trị, xã hội ổn định cao và quyền con người được bảo đảm. Hệ thống luật pháp của Việt Nam đang dần được hoàn chỉnh để bảo đảm tốt hơn các quyền và quyền tự do cơ bản của người dân. Từ năm 1986 đến nay, trên 40 bộ luật, hơn 100 pháp lệnh và hàng nghìn văn bản pháp luật khác, trong đó có những văn bản quan trọng liên quan đến quyền con người đã được ban hành. Các văn bản pháp luật trên đã thể chế hoá các quyền con người, trở thành công cụ điều chỉnh các mối quan hệ xã hội trong một Nhà nước pháp quyền mà mục tiêu cốt lõi là vì con người.

Thắng lợi của các cuộc kháng chiến bảo vệ nền độc lập của dân tộc ta là thắng lợi của tư tưởng nhân quyền cao cả, mà dân tộc Việt Nam là chiến sĩ tiên phong, là thắng lợi của ý chí hòa bình, độc lập và phẩm giá con người. Với hai chiến thắng vĩ đại này, dân tộc ta có vinh dự lớn là biểu tượng cho lương tri nhân loại, là chiến sĩ tiên phong bảo vệ quyền con người được sống trong độc lập hòa bình và nhân phẩm. Sau Đại thắng mùa Xuân 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, Việt Nam bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội. 30 năm qua từ khi đất nước hoàn toàn độc lập, nhất là sau gần 20 năm đổi mới toàn diện đất nước, với những thành tựu rất quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội…, chúng ta đã hiện thực hóa một bước rất quan trọng các quyền con người và quyền công dân trên cả bình diện pháp lý và đời sống hiện thực:

Trong lĩnh vực chính trị, Việt Nam đã từng bước hoàn thiện hệ thống chính trị của dân, do dân, vì dân. Quyền của người dân tham gia quản lý công việc Nhà nước và xã hội, điều này thể hiện rõ ở các cuộc bầu cử: ở Quốc hội khóa XI nhiệm kỳ 2000-2007 và bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp ngày 25/4/2004 vừa qua, đã có tới hơn 99% số cử tri đi bầu. Quyền tự ứng cử của công dân được khẳng định. Quốc hội khóa X có 8 người tự ứng cử, trúng cử 3; còn Quốc hội khóa XI có 11 người tự ứng cử, trúng cử 3. Số đại biểu nữ ở Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp cũng tăng rõ rệt, khóa sau tăng hơn khóa trước.

Xây dựng một hệ thống pháp luật nhằm bảo đảm về mặt Nhà nước các quyền con người và quyền công dân. Quyền khiếu nại tố cáo: Pháp lệnh khiếu nại tố cáo của công dân năm 1991, đã được thay thế bằng Luật khiếu nại tố cáo của công dân năm 1998 với sự mở rộng cả về chủ thể và đối tượng khiếu nại.

Các quyền tự do dân chủ: Thể hiện nhu cầu phát triển cao nhất của con người bao gồm: Tự do ngôn luận, tự do báo chí: Luật báo chí 1989 thay thế sắc lệnh về báo chí từ năm 1957, với các văn bản pháp quy cụ thể hóa Luật báo chí và luật sửa đổi bổ sung (1999). Đến nay, Việt Nam đã có hơn 500 cơ quan báo chí với hơn 650 ấn phẩm báo chí các loại, 47 nhà xuất bản, mỗi năm xuất bản hàng vạn đầu sách, in và phát hành trên 600 triệu bản báo. Luật xuất bản (1993) quy định cá nhân được quyền tự do công bố tác phẩm của mình mà không bị kiểm duyệt.

Quyền tự do tín ngưỡng và tôn giáo: Tất cả các Hiến pháp ở Việt Nam từ trước đến nay, đều ghi nhận việc tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Nghị định 26/NĐ- CP ngày 4/9/1999 của Chính phủ về các hoạt động tôn giáo đã cụ thể hóa quan điểm đó. Việt Nam có 6 tôn giáo chính là: Phật giáo, Thiên chúa giáo, Tin lành, Cao đài, Hòa hảo, Hồi giáo với trên 20 triệu tín đồ. Trong các tôn giáo lớn ở Việt Nam thì Phật giáo có khoảng trên 9 triệu tín đồ, 3.300 nhà sư, 14.000 nơi thờ tự; Thiên chúa giáo có hơn 6 triệu tín đồ với trên 2.200 linh mục, giám mục, hồng y, 8.000 tu sĩ; 10.783 xứ đạo, 4.698 họ đạo, giảng sư và 440 nhà thờ, nhà nguyện; Cao đài có trên 2 triệu tín đồ, 5.000 chức sắc, trên 500 thánh thất; Hòa hảo có 1,5 triệu tín đồ; Hồi giáo có trên 10 vạn tín đồ.

Tiếp tục cải cách hành chính xây dựng thiết chế dân chủ, để hiện thực hóa một bước quan trọng quyền làm chủ đại diện và làm chủ trực tiếp của nhân dân, chống sự tha hóa của một bộ phận cán bộ trong hệ thống chính trị.

Trong lĩnh vực kinh tế, đường lối phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đã tăng đáng kể quyền tự chủ kinh tế cho nhân dân, khơi dậy mạnh mẽ tính năng động kinh tế – xã hội, tính tích cực công dân của mỗi con người. Chủ trương xóa đói, giảm nghèo đã từng bước tạo điều kiện cho việc thực hiện quyền bình đẳng về kinh tế. Nhờ đường lối phát triển kinh tế đúng đắn và quyền con người trên lĩnh vực kinh tế được bảo đảm mà những năm qua, chúng ta đã “khơi dậy nguồn lực trong nhân dân đầu tư vào phát triển sản xuất, kinh doanh. Tỷ lệ huy động vốn đầu tư trong GDP tăng dần (năm 2001 là 34%, năm 2002 là 34,3%, năm 2003 khoảng 35%, năm 2004 là 36,5%). Trong đó cơ cấu đầu tư xã hội, tỷ trọng vốn đầu tư trong nước gia tăng (chiếm 70% tổng số vốn đầu tư), nguồn vốn huy động trong dân tăng mạnh”, chỉ tính từ Đại hội IX đến nay đã có 72.601 doanh nghiệp tư nhân được đăng ký, với số vốn lớn tới 9.5 tỉ USD, nhờ đó mức sống và chất lượng sống của mỗi con người các tầng lớp nhân dân đã được cải thiện và nâng cao.

Trong lĩnh vực văn hóa giáo dục, chúng ta đã phát triển mạnh mẽ sự nghiệp giáo dục, hiện nay có tới 24 triệu người đi học, 1,3 triệu người có trình độ đại học, 1,3 vạn người có trình độ tiến sĩ và tiến sĩ khoa học, 10 nghìn người có trình độ thạc sĩ, ngày càng bảo đảm tốt hơn quyền được học tập của mọi công dân. Trên thực tế, việc bảo đảm quyền con người trên lĩnh vực văn hóa được thể hiện những nội dung cụ thể là:

Quyền được tiếp cận với văn hóa thông tin: mỗi năm xuất bản phát hành hàng ngàn cuốn, hàng trăm triệu bản báo các loại; mạng lưới báo chí được tổ chức một cách hệ thống từ Trung ương đến địa phương gồm đủ các loại hình, dành cho nhiều đối tượng, nhiều lứa tuổi. Đặc biệt mạng lưới báo điện tử đã phát triển rộng rãi, với 19 đơn vị được cấp phép là nhà cung cấp thông tin trên mạng… đã và đang phát huy vai trò quan trọng trong việc bảo đảm quyền tiếp cận văn hóa thông tin của người dân. Phát thanh truyền hình được phủ sóng rộng rãi, đảm bảo cho trên 70% dân số được xem truyền hình và trên 80% dân số được nghe Đài tiếng nói Việt Nam.

Quyền được thưởng thức văn hóa, nghệ thuật: Năm 2002 cả nước có 116 đoàn văn hóa nghệ thuật chuyên nghiệp, có 813 đơn vị chiếu phim phục vụ công chúng trên mọi miền đất nước.

Quan điểm đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam đã nói rõ: tăng trưởng kinh tế đi liền với việc giải quyết các vấn đề xã hội, đảm bảo sự tiến bộ và công bằng xã hội. Thực hiện chính sách xã hội nhằm làm lành mạnh hóa xã hội, thực hiện công bằng trong phân phối dưới nhiều hình thức, tạo động lực mạnh mẽ phát triển sản xuất, tăng năng suất lao động, thực hiện bình đẳng trong các quan hệ xã hội, khuyến khích nhân dân làm giàu hợp pháp. Đây là quan điểm thể hiện sự khác biệt về chất giữa chế độ xã hội chủ nghĩa và chế độ tư bản chủ nghĩa. Một trong những thành tựu được Liên hợp quốc đánh giá cao là, chính sách xóa đói giảm nghèo của Việt Nam trong những năm qua trên phạm vi cả nước đạt kết quả nổi bật.

Những thành tựu về nhân quyền và quyền con người của Việt Nam là một thực tế không ai có thể chối cãi, Thực tế đó đó đã được nhiều quốc gia và không ít quan chức và nhân dân Mỹ chứng kiến, khẳng định khi sang Việt Nam. Vậy thì lấy cớ gì để Bộ Ngoại giao Mỹ đưa ra những thông tin xuyên tạc trắng trợn tình hình Việt Nam. Để đánh giá tình hình nhân quyền ở một quốc gia cụ thể, cần xem xét những mặt cơ bản và cụ thể tạo nên bức tranh tổng thể về nhân quyền của một dân tộc cụ thể ở một quốc gia cụ thể. Không có thứ nhân quyền chung chung. Biểu hiện cao nhất, cụ thể nhất, thiêng liêng nhất của nhân quyền đối với một đất nước, chính là quốc gia ấy phải được độc lập, nhân dân phải được tự do, đời sống vật chất và tinh thần của các tầng lớp nhân dân ngày càng được cải thiện.

Như nhiều người đã rõ, hiện nay các thế lực thù địch đang thực thi dưới mọi thủ đoạn chiến lược “diễn biến hòa bình” nhằm vào nước ta, trước hết trên lĩnh vực tư tưởng – văn hóa cốt làm lung lay ý thức hệ xã hội chủ nghĩa, gây nghi ngờ, chia rẽ nội bộ giữa các tầng lớp nhân dân ta với Đảng, Nhà nước, làm suy yếu khối đại đoàn kết toàn dân ; tiến tới xóa bỏ Đảng ta và chế độ ta. Để thực hiện mưu toan thâm độc ấy, chúng triệt để lợi dụng chiêu bài “dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền” để kích động những người nhẹ dạ, cả tin có những hành vi chống đối Đảng và chính quyền ; tiếp sức và biến những phần tử cơ hội chính trị, bất mãn thoái hóa biến chất ở trong nước thành “cái loa” phụ họa và tuyên truyền những điều mà chúng đã, đang bịa đặt, vu cáo Việt Nam.

Các thế lực đế quốc chủ nghĩa với thái độ giả nhân, giả nghĩa, chúng giương ngọn cờ nhân quyền để phục vụ cho các âm mưu đen tối phá hoại các nước xã hội chủ nghĩa và các nước độc lập có chủ quyền.

Dưới chiêu bài “bảo vệ nhân quyền” chúng tiến hành các hoạt động phá hoại về tư tưởng, tuyên truyền cho nền dân chủ tư sản và những quan điểm giá trị của phương Tây, vu cáo, bôi nhọ chủ nghĩa xã hội và sự lãnh đạo của Đảng ta. Chúng khuyến khích, tập hợp, hỗ trợ cho bọn phản động trong các tôn giáo, trong dân tộc ít người và bọn cơ hội, bất mãn, hình thành lực lượng đối lập , gắn liền vấn đề quyền con người còn lâu dài, phức tạp, với chiến lược “diễn biến hòa bình” và gây bạo loạn lật đổ. Chúng ta cần tỉnh táo trước những âm mưu thâm độc đó để chủ động đối phó, kiên quyết đánh bại âm mưu của các thế lực thù địch.

Khẳng định thành tựu và những cống hiến của dân tộc ta trong lĩnh vực này, dân tộc Việt Nam tiếp tục vững tin con đường cách mạng mà Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân Việt Nam đã lựa chọn, là con đường nhân đạo và nhân văn cao cả, con đường duy nhất đúng để thực hiện lý tưởng độc lập dân tộc và tự do, hạnh phúc cho mọi con người. Khẳng định điều này, một lần nữa, Việt Nam nghiêm khắc lên án những thế lực thù địch đã tiến hành cuộc chiến tranh tàn bạo ở nhiều nơi trên thế giới; họ không có tư cách để dạy bảo các nước về quyền con người và càng không được phép lợi dụng nó để can thiệp, phá hoại sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta.

M.H – (Tổng Hợp)
dangcongsan.vn

Không thể phủ nhận những giá trị dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam

(ĐCSVN)- Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân, vì dân; mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân. Đảng ta sinh ra, trưởng thành và phát triển trong lòng dân tộc, được nhân dân nuôi dưỡng, đùm bọc, chở che.

Vì thế, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định Đảng ta không chỉ là Đảng của giai cấp công nhân mà còn là Đảng của dân tộc Việt Nam. Trong diễn văn đọc tại Lễ kỷ niệm 60 năm ngày thành lập Đảng (3-2-1990), đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đã nhắc lại tư tưởng nêu trên của Bác Hồ. Đảng chỉ khẳng định: Đảng ta đó là Đảng “của dân, do dân, dựa vào dân và vì dân”.

Xác định Đảng và Nhà nước ta đều là của dân, do dân, vì dân, cho nên vấn đề dân chủ, nhân quyền, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” luôn được Đảng và Nhà nước ta coi là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu.

Như thế, về mặt quan điểm là rõ ràng và nhất quán. Song, vấn đề quan trọng là ở chỗ phải xem xét một cách thật khách quan trong tiến trình lãnh đạo cách mạng suốt 75 năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã đạt được những giá trị đích thực gì về dân chủ, nhân quyền. Trước hết, cần khẳng định mặc dù còn nhiều thiếu sót, tồn tại, thậm chí có cả sai lầm, song Đảng và Nhà nước ta đã mang lại cho dân những giá trị dân chủ, nhân quyền đích thực như:

– Nhân dân ta, dân tộc ta thoát khỏi vòng nô lệ, kìm kẹp của chế độ phong kiến, thực dân, trở thành một dân tộc độc lập, tự do. Đó chính là giá trị dân chủ, nhân quyền vĩ đại nhất mà Đảng và Nhà nước ta đã giành lại được cho nhân dân, cho dân tộc.

– Trong thời kỳ đổi mới hiện nay, nhân dân ta đã có quyền làm chủ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội (kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền…). Đảng và Nhà nước đã có những quy định rất cụ thể về việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Tinh thần cơ bản của những quy định đó là “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Hội nghị Trung ương 7 (khóa IX) đã ra Nghị quyết rất quan trọng về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Những nội dung cơ bản của Nghị quyết này là: đánh giá tình hình khối đại đoàn kết toàn dân tộc; xác định rõ mục tiêu, quan điểm, những chủ trương và giải pháp chủ yếu để phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; đồng thời cũng nêu ra các bước và cách thức tiến hành tổ chức thực hiện sao cho Nghị quyết nhanh chóng đi vào cuộc sống. Có thể nói đó là những bước tiến rất lớn cả về lượng và chất trên con đường xây dựng những giá trị dân chủ và nhân quyền đích thực. Chỉ tính riêng từ Đại hội VI đến nay, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành khá nhiều nghị quyết, chỉ thị về tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân, về đại đoàn kết toàn dân, về tôn giáo, dân tộc, về Mặt trận và các đoàn thể nhân dân… Thông qua việc thực hiện các nghị quyết, chỉ thị đó, quyền làm chủ của nhân dân trong tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, xã hội đã từng bước được phát huy, góp phần tích cực vào việc động viên nhân dân phấn khởi đẩy mạnh sản xuất, thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ kinh tế, văn hóa, xã hội, củng cố quốc phòng an ninh, đưa công cuộc đổi mới lên một tầm cao mới và chiều sâu mới. Đó là thực tế hiển nhiên không thể phủ nhận được.

Mặc dù vậy, các thế lực thù địch vẫn ra sức phá hoại khối đại đoàn kết của nhân dân ta. Bọn chúng luôn tìm mọi cách kích động những vấn đề rất nhạy cảm về dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo để ly gián, chia rẽ Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Những luận điệu, thủ đoạn của các thế lực thù địch không có gì mới mẻ. Nhưng nó nguy hiểm là ở chỗ bọn chúng rất kiên trì theo phương châm: “Mưa dầm thấm lâu”, “Nói dối mãi rồi người ta sẽ tin”. Có thể tóm tắt bài bản của chúng trong ba vấn đề sau đây:

+ Một là, bọn chúng cho rằng Đảng cộng sản độc quyền lãnh đạo với việc thực thi dân chủ, nhân quyền là hai đại lượng tỷ lệ nghịch . Nghĩa là Đảng độc quyền thì dân mất quyền. Muốn cho dân có quyền thì Đảng phải từ bỏ vai trò lãnh đạo của mình; chí ít cũng phải chấp nhận đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập. Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã bác bỏ luận điệu sai trái đó. Bởi vì, hơn bảy thập kỷ qua, Đảng cộng sản độc quyền lãnh đạo cách mạng là một tất yếu khách quan. Đó không phải là sự áp đặt ý muốn chủ quan của Đảng đối với nhân dân, với dân tộc, với lịch sử, mà là sự giao phó của nhân dân, của dân tộc, của lịch sử cho Đảng Cộng sản thông qua quá trình sàng lọc hết sức nghiêm khắc. Nhân dân ta bằng sự thể nghiệm xương máu của mình đã có dịp đối chiếu, so sánh cương lĩnh và hoạt động của các đảng phái khác nhau để rồi cuối cùng “chọn mặt gửi vàng”, thừa nhận Đảng Cộng sản là người lãnh đạo duy nhất của dân tộc Việt Nam. Thực tiễn cách mạng Việt Nam khẳng định: Đảng Cộng sản Việt Nam đã hoàn thành xuất sắc sứ mệnh lịch sử của mình. Từ đó, có thể khẳng định rằng: yếu tố quyết định dân chủ, nhân quyền không phải do một đảng hay nhiều đảng lãnh đạo. Nhìn nhận vấn đề dân chủ, nhân quyền ở một nước là phải xem đảng cầm quyền ở đó thực thi dân chủ, nhân quyền như thế nào chứ không thể căn cứ vào việc họ nói như thế nào về dân chủ, nhân quyền. Chính phủ Mỹ nói rất hay về dân chủ, nhân quyền, có những khẩu hiệu rất kêu về dân chủ, nhân quyền, nhưng trên thực tế họ lại vi phạm dân chủ, nhân quyền nhiều nhất. Thí dụ, họ ngang nhiên đem máy bay ném bom, đánh phá các nước có độc lập, chủ quyền, bất chấp sự phản đối của cộng đồng quốc tế và phớt lờ cả Liên hợp quốc. Ở Mỹ có 20% dân số là những người giàu. Số này chiếm 85% tài sản của nước Mỹ. Số dân còn lại (80%) chia nhau 15% tài sản quốc gia. Trong 80% số người không thuộc diện giàu có của nước Mỹ, rất nhiều người bị chết đói, chết rét, chết bệnh vì thiếu cái ăn, cái mặc, không có nhà ở, không có thuốc chữa bệnh và không có bảo hiểm y tế. Thử hỏi cái “quyền được sống” của con người mà chính quyền Mỹ rêu rao có thật không, hay chỉ là bánh vẽ. Lại nữa, trong lịch sử nước Mỹ chưa có người nghèo nào thắng cử trong các cuộc bầu cử. Các nghị sĩ, dân biểu đều là những người giàu. Vậy ai sẽ bênh vực người nghèo ? Như thế có thể gọi là một xã hội dân chủ được không ?

+ Hai là, các thế lực thù địch cho rằng Việt Nam thực hiện kinh tế thị trường nhưng lại đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và theo định hướng xã hội chủ nghĩa như thế thì chẳng khác nào “đầu Ngô mình Sở” hoặc “treo đầu dê, bán thịt chó”, bởi vì cái kinh tế thị trường kiểu ấy thực chất là bóp nghẹt dân chủ về kinh tế. Phải khẳng định ngay rằng: kinh tế thị trường không phải là cái “riêng có” của chủ nghĩa tư bản. Đó là thành tựu chung của văn minh nhân loại. Có kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa thì cũng có kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Chúng ta luôn chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, khuyến khích các thành phần kinh tế cùng phát triể, hợp tác với nhau lâu dài và cạnh tranh lành mạnh. Thực tế cho thấy, chỉ có dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì nền kinh tế nước ta mới phát triển nhanh chóng, lành mạnh và đạt hiệu quả cao.

+ Ba là, các thế lực thù địch cho rằng Việt Nam một mặt nói thực thi dân chủ nhưng mặt khác lại đề cao chuyên chính. Theo họ, chuyên chính thì không có dân chủ, cũng chẳng có nhân quyền. Từ đó họ yêu cầu phải “tự do tuyệt đối”, “dân chủ vô bờ bến”, “dân chủ không giới hạn”. Song thực tế cho thấy, khi nào buông lỏng chuyên chính để cho kẻ xấu lộng hành thì quyền dân chủ của nhân dân lập tức bị xâm phạm, thậm chí bị tước đoạt. Vì thế, dân chủ phải đi liền với chuyên chính. Không có chuyên chính sẽ không có dân chủ và không bảo đảm được nhân quyền.

Tiến Hải
dangcongsan.vn

Những thành tựu lý luận và việc thực hiện quyền con người của Việt Nam

14:25 | 09/12/2008

(ĐCSVN) – Cách đây 60 năm, thể hiện khát vọng cao cả của loài người, Liên hợp quốc đã thông qua bản Tuyên ngôn nhân quyền toàn thế giới. Tuy đã hàm chứa nhiều giá trị về quyền con người nhưng cả 30 điều luật quốc tế trong bản tuyên ngôn này lại chưa phản ánh được một vấn đề rất hệ trọng là quyền con người trong một trạng thái môi trường thích hợp và trong một hình thức thích hợp. 

Thế nhưng cách đây vừa tròn 63 năm, nghĩa là trước khi có Tuyên ngôn nhân quyền toàn thế giới 3 năm, tiếp thu và vận dụng sáng tạo tư tưởng nhân quyền trong Tuyên ngôn độc lập 1776 của Mỹ và tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp 1791 và nhất là tư tưởng cách mạng và khoa học trong học thuyết Mác-Lênin, Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đã long trọng tuyên bố một khát vọng lớn của mọi quốc gia dân tộc: Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do. Đây thực sự là một cống hiến vô giá của dân tộc Việt Nam trong việc phát triển tư tưởng nhân quyền: khi khẳng định những quyền cơ bản của con người phải gắn chặt với quyền được sống trong độc lập, trong hoà bình, trong môi trường sinh thái trong lành.

Từ lịch sử cuộc đấu tranh giành độc lập ở Mỹ 1776, cuộc cách mạng lật đổ chế độ phong kiến ở Pháp năm 1789 và lịch sử cuộc đấu tranh cách mạng giành độc lập tự do cho dân tộc Việt Nam, Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam đã rút ra một kết luận lịch sử: quyền con người cho dù được gọi là quyền tự nhiên không phải tự nhiên mà có, không từ trên trời rơi xuống, càng không phải do các lực lượng thống trị ban phát mà phải do mỗi con người và mỗi dân tộc ý thức được và đấu tranh giành và giữ vững các quyền đó. Chân lý này đã được thể hiện trong đoạn kết của Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do độc lập, và sự thật đã trở thành nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do độc lập ấy”.

Chúng ta đã chứng kiến một sự thật lịch sử là: Những quyền cá nhân mà các cuộc cách mạng tư sản đem lại là bước tiến quan trọng về dân chủ và nhân quyền của nhân loại nhưng các dân tộc thuộc địa lại không được hưởng các quyền này. Muốn giành được tự do, hạnh phúc, các dân tộc thuộc địa phải tự mình đứng lên đánh đổ bọn đế quốc, thực dân giành lại độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia. Độc lập dân tộc tuy không trực tiếp đem lại quyền lợi cho cá nhân nhưng nó là tiền đề, điều kiện cơ bản, là trạng thái, môi trường thích hợp, quan trọng nhất để đảm bảo cho các quyền và tự do của mỗi cá nhân.

Cách mạng tháng 8/1945, thắng lợi của hai cuộc kháng chiến đánh thắng 2 tên hung nô của thế kỷ 20 là thắng lợi của tư tưởng nhân quyền cao cả mà dân tộc Việt Nam là chiến sỹ tiên phong, là thắng lợi của ý chí hoà bình, độc lập và phẩm giá con người, là thắng lợi của lương tri nhân loại. Việt Nam có quyền tự hào là chiến sỹ tiên phong trong cuộc đấu tranh giành và bảo vệ quyền con người được sống trong độc lập, hoà bình và nhân phẩm.
Đi vào sự nghiệp xây dựng đất nước từ thực tiễn cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát triển, cụ thể hoá một bước tư tưởng nhân quyền khi Người chỉ rõ: Nước độc lập rồi mà nhân dân còn nghèo khổ thì độc lập không có ý nghĩa gì. Thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh, trên 20 năm tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng XHCN, với những thành tựu có ý nghĩa lịch sử trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế xã hội, văn hoá, an ninh, quốc phòng, đối ngoại chúng ta đã hiện thực hoá một bước rất quan trọng các quyền con người và quyền công dân trên cả bình diện pháp lý và hiện thực.

Trong lĩnh vực chính trị chúng ta đã đổi mới và hoàn thiện một hệ thống chính trị của dân, do dân, vì dân: Xây dựng hệ thống pháp luật nhằm đảm bảo về mặt nhà nước các quyền con người và quyền công dân.

Một ví dụ nhỏ nhưng chứng minh sinh động cho thành tựu này, năm 2006 Quốc hội nước ta đã thông qua Luật phòng chống HIV/AIDS, trong luật có điều quy định về quyền và nghĩa vụ của những người nhiễm HIV/AIDS. Với luật này càng làm nổi bật bước phát triển lớn và sâu rộng việc hiện thực hoá về mặt pháp lý và thực tế bảo vệ quyền con người.

Đẩy mạnh cải cách hành chính, xây dựng và thực hiện ngày một tốt hơn thiết chế dân chủ để cụ thể hoá một bước quan trọng quyền làm chủ đại diện, làm chủ trực tiếp và làm chủ tự quản của nhân dân.

Trên lĩnh vực kinh tế, bằng đường lối phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường định hướng XHCN, nền kinh tế nước ta đã tăng trưởng liên tục với tốc độ khá cao. Tiềm lực kinh tế của đất nước tăng đáng kể, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt, từ vấn đề ăn, mặc, ở, đi lại, chữa bệnh đến việc học tập của nhân dân. Chiến lược xóa đói giảm nghèo đã phát huy được sức mạnh của cả nhà nước, của các đoàn thể, của từng địa phương và của cả quốc tế nên chúng ta đẩy lùi diện đói nghèo từ 60% trước đổi mới nay chỉ còn 12%.

Chặng đường qua, nhà nước ta, nhân dân ta không chỉ phấn đấu hiện thực hóa ngày một tốt hơn các quyền con người và quyền công dân trên đất nước ta mà còn chủ động tích cực tham gia và thực hiện nghiêm chỉnh các công ước về nhân quyền của liên hợp quốc như:

– Ngăn ngừa, trừng trị tội ác diệt chủng (6-1981)
– Loại trừ và trừng phát Apácthai (6-1991)
– Loại trừ mọi hình thái phân biệt chủng tộc (6-1981)
– Loại trừ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (2-1982)
– Về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa (9-1982)
– Về các quyền chính trị và dân sự (9-1982)
– Quyền về trẻ em (9-1982)

Bên cạnh những thành tựu, những bước phát triển quan trọng về mặt nhận thức, lý luận và việc thực hiện quyền con người trên cả phương diện pháp lý và thực tiễn, chúng ta cũng còn không ít hạn chế, bất cập và khuyết điểm trên lĩnh vực này. Chúng ta cần tổng kết nghiêm túc vấn đề này để phát triển lý luận, hoàn thiện thể chế, tổ chức thực tiễn ngày một tốt hơn quyền làm chủ của nhân dân trên tất cả các lĩnh vực.

Hiện nay đâu đó có một số tổ chức cá nhân phê phán chúng ta vi phạm dân chủ nhân quyền. Về cơ bản và tổng thể các loại ý kiến đó là xuyên tạc, vu cáo, với ý đồ can thiệp vào nội bộ của ta, phá hoại sự ổn định công tác của nước ta. Về vấn đề này chúng ta cần kiên định quan điểm: quyền con người là giá trị chung của nhân loại. Quyền con người trong thời đại ngày nay phải gắn với độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia. Bảo đảm quyền con người cho dân tộc ta phải dựa trên bản chất của chế độ xã hội, đặc thù về cộng sản và văn hóa của dân tộc. Chúng ta không chấp nhận sự áp đặt mô hình dân chủ nhân quyền của nước ngoài cho Việt Nam.

Những khác biệt nào đó về quyền con người giữa các quốc gia dân tộc chỉ có thể được giải quyết trên nguyên tắc đối thoại, bình đẳng, tôn trọng chủ quyền quốc gia, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Chúng ta đã tổ chức đối thoại nhân quyền với EU, Mỹ, Australia… Đối với chúng ta quyền con người, cũng như quyền công dân, quyền phải đi đôi với nghĩa vụ. Không thể hiểu nhân quyền chỉ có quyền tự do mà không có trách nhiệm và nghĩa vụ.

Trong Luật nhân quyền quốc tế, cũng như luật quốc gia, trách nhiệm của tất cả mọi người là phải tuân thủ pháp luật, phải chấp nhận sự hạn chế nào đó vì lợi ích của xã hội và của người khác. Nhiệm vụ của công tác tư tưởng đối với việc thực hiện luật nhân quyền là phải tăng cường tổng kết thực tiễn phát triển lý luận về quyền con người, bổ xung, hoàn thiện đường lối, chính sách về quyền con người, hướng dẫn và động viên thực hiện có hiệu quả thực hiện trên thực tế quyền con người, quyền công dân và đấu tranh bác bỏ kịp thời mọi luận điệu xuyên tạc vu cáo chúng ta về vấn đề dân chủ nhân quyền.

PGS.TS Đào Duy Quát
Chuyên gia cao cấp Ban Tuyên giáo TW
Tổng Biên tập Báo điện tử ĐCS Việt Nam
dangcongsan.vn

Ngoại giao nhân dân chủ động vận động, đấu tranh về dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo

15:11 | 19/07/2011

Triển khai Nghị quyết Đại hội XI của Đảng vào cuộc sống, Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam đã đề ra chương trình hành động cụ thể. Một trong những nội dung của chương trình hành động đó là tích cực, chủ động tham gia vận động, đấu tranh dư luận trên các vấn đề dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo.

Dân chủ và nhân quyền là những giá trị tiến bộ mà nhân loại luôn vươn tới trong suốt quá trình hình thành và phát triển của xã hội loài người. Sự phát triển về kinh tế-xã hội, văn hóa và cuộc đấu tranh giai cấp trong nhiều thập niên qua đã đem đến những thành quả nhất định về dân chủ và nhân quyền ở nhiều nước trên thế giới. Tăng cường dân chủ và cải thiện nhân quyền đang trở thành nguyện vọng đông đảo của nhân dân các nước và xu hướng khách quan của thời đại. Vấn đề nhân quyền ngày càng được dư luận quốc tế quan tâm rộng rãi.

Trong những năm gần đây, lợi dụng xu thế nêu trên và so sánh lực lượng trong tình hình quốc tế hiện nay, Mỹ và một số nước phương Tây đã chọn vấn đề nhân quyền là một trong những trụ cột của chính sách đối ngoại của họ để can thiệp vào các quốc gia, các khu vực trên thế giới nhằm áp đặt một số quyền chính trị, dân sự, áp đặt thứ tự ưu tiên và cách diễn giải của các quyền, khẳng định tính phổ biến của các quyền này, đề ra học thuyết “nhân quyền cao hơn chủ quyền”, áp dụng “tiêu chuẩn kép” về nhân quyền trong quan hệ đối với các quốc gia, sử dụng nhiều tổ chức phi chính phủ và phương tiện thông tin đại chúng để tạo dư luận và nguy hiểm nhất là sử dụng các biện pháp trừng phạt đơn phương hoặc đa phương đối với các nước liên quan, kích động và hỗ trợ các nhóm chống đối hoạt động chống lại và lật đổ chính phủ các nước. Các nước XHCN nói chung và Việt Nam nói riêng là mục tiêu hàng đầu trong cuộc chiến tiến công về nhân quyền của họ.

Trong bối cảnh đó, cuộc đấu tranh về nhân quyền có ý nghĩa chiến lược lâu dài đối với an ninh quốc gia, có ảnh hưởng quan trọng đến việc đảm bảo ổn định và phát triển đất nước. Thực tế đấu tranh về nhân quyền là một mặt trận có sự tham gia rộng rãi của nhiều lực lượng ở cả trong nước và nước ngoài, trong quan hệ song phương, đa phương, khu vực và quan hệ với các tổ chức phi chính phủ nước ngoài (TCPCPNN). Trong tổng thể hoạt động đối ngoại của nước ta, bao gồm ngoại giao Nhà nước, đối ngoại Đảng, đối ngoại nhân dân đóng vai trò quan trọng trên mặt trận này. Đặc biệt, công tác vận động bạn bè quốc tế luôn chiếm vị trí then chốt và công tác thông tin đối ngoại phục vụ cho công tác vận động, tập hợp bạn bè thường xuyên được quan tâm cải tiến, nâng cao chất lượng và hiệu quả.

Đối ngoại nhân dân có thể nói là mặt trận ngoại giao rộng rãi nhất, có điều kiện tiếp xúc rộng rãi với nhiều tầng lớp nhân dân, chính giới, phi chính giới, các tổ chức phi chính phủ và cộng đồng phi chính phủ tại Việt Nam. Phương pháp tiếp cận với những đối tượng trên của ngoại giao nhân dân rất đa dạng, uyển chuyển, phù hợp với từng bối cảnh nhất định. Đối tượng của ngoại giao nhân dân nói chung có thể được chia thành 3 nhóm chính: Nhóm đối tượng rất có thiện chí đối với Việt Nam, có hiểu biết, trong đó có một số lực lượng nòng cốt luôn ủng hộ Việt Nam trong mọi hoàn cảnh; nhóm đối tượng có định kiến và thiếu thiện chí với Việt Nam; nhóm đối tượng trung gian và là nhóm đối tượng đông đảo, rộng rãi nhất.

Căn cứ vào những nhóm đối tượng cụ thể như vậy, ngoại giao nhân dân có những phương thức vận động và đấu tranh rất khác nhau phù hợp với từng loại đối tượng.

Đối với nhóm đối tượng có thiện chí với Việt Nam, ngoại giao nhân dân thực hiện các biện pháp nhằm củng cố và xây dựng lực lượng nòng cốt, tạo điều kiện để họ có vũ khí trực tiếp giúp ta phản bác những luận điệu phản động, chống phá Việt Nam trên mọi phương diện; không ngừng cung cấp thông tin, tạo điều kiện cho các bạn bè, đối tác thân Việt Nam có cơ hội tiếp cận với tình hình thực tế về nhân quyền ở Việt Nam; thông qua các tài liệu chính thức, các cuộc tiếp xúc với lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước ta khi cần thiết, thăm các địa phương là những địa bàn điển hình về các thành tựu xóa đói, giảm nghèo, các chính sách hỗ trợ nạn nhân chiến tranh, nạn nhân chất độc da cam; tổ chức các buổi nói chuyện, các buổi tọa đàm chuyên đề để trực tiếp cung cấp cho họ những thông tin thực tế về tình hình phát triển kinh tế-xã hội của Việt Nam nói chung và tình hình nhân quyền nói riêng.

Đối với nhóm đối tượng thù địch, biện pháp đấu tranh là kiên quyết bác bỏ những lập luận thù địch của họ, đưa ra những dẫn chứng thuyết phục về những thành tựu kinh tế-xã hội, những tiến bộ về tự do tôn giáo và nhân quyền mà thế lực thù địch không có cơ sở để xuyên tạc. Việc tuyên truyền về những thành tựu này của chúng ta được thực hiện trên nhiều phương diện, trong các cuộc tiếp xúc trực tiếp của ta với các nhóm đối tượng, trên các phương tiện truyền thông và thông qua kênh đối thoại không chính thức với các đối tác như Viện Can dự Toàn cầu (IGE), một số tổ chức và bạn bè khác…

Với nhóm đối tượng trung gian, vốn dễ bị tác động bởi những tuyên truyền phản động, thù địch thì ngoại giao nhân dân tạo ra những tác động gián tiếp nhằm giới thiệu cho họ những vấn đề liên quan đến hậu quả chiến tranh, ảnh hưởng của bom mìn còn lại sau chiến tranh đến cuộc sống của người dân Việt Nam trong thời bình, các chương trình rà phá bom mìn… Đó là những sự thật có thể làm lay động lương tâm của bạn bè, giúp họ hiểu đúng hơn về Việt Nam. Qua đó họ sẽ thấy những nỗ lực của chính phủ Việt Nam trong việc giải quyết những vấn đề tồn đọng sau cuộc chiến và họ sẽ thấy thực tế rằng, trong khi Việt Nam đang nỗ lực hàn gắn những vết thương, khắc phục những hậu quả của chiến tranh, đầu tư xây dựng và phát triển đất nước thì những thế lực phản động, thù địch lại vừa xuyên tạc, chống phá và bôi nhọ, đồng thời cố tình lảng tránh những vấn đề như chất độc da cam hay hậu quả chiến tranh mỗi khi những vấn đề này được nêu lên.

Ngoại giao nhân dân chủ yếu thực hiện bốn nhóm hoạt động chủ công: Đối thoại không chính thức, phát huy lợi thế của mặt trận nhân dân, tác động trực tiếp vào chính giới phương Tây; cung cấp thông tin cho các đối tác trung gian được thể hiện cụ thể thông qua các hoạt động như tổ chức việc trao đổi đoàn, tham gia các diễn đàn và hoạt động nhân dân ở khu vực và quốc tế; chủ động, tích cực đối thoại và đấu tranh dư luận về các vấn đề nhạy cảm, tổ chức các đợt hoạt động đối ngoại nhân dân lớn; các đợt tuyên truyền lớn, cung cấp và trao đổi thông tin với các đối tác qua kênh điện tử…

Công tác đấu tranh bảo vệ nhân quyền được thực hiện thông qua kênh ngoại giao nhân dân bước đầu đã có những bước chuyển biến tích cực và đạt được những thành tựu nhất định, bước đầu đã ngăn chặn nhiều âm mưu chống phá Việt Nam của các thế lực thù địch trên vấn đề nhân quyền; tập hợp được mạng lưới bạn bè ngày càng đông đảo, là cơ sở để khẳng định rằng ngoại giao nhân dân của ta, trong đó có hoạt động song phương, đa phương, khu vực và các tổ chức phi chính phủ nước ngoài của Liên hiệp hoàn toàn có thể đóng góp tích cực hơn nữa trong bối cảnh hội nhập, tiếp xúc ngày càng rộng rãi như hiện nay.

Diễn biến mới của tình hình đòi hỏi phải tiếp tục tăng cường, mở rộng, đổi mới nhằm phát huy tính chủ động và nâng cao hơn nữa hiệu quả của lĩnh vực công tác này, xác định kênh đối thoại trên những lĩnh vực nhạy cảm, về những vấn đề nhạy cảm và vào những thời điểm nhạy cảm hơn. Qua quá trình hoạt động, công tác ngoại giao nhân dân nói chung đã tích lũy được những kinh nghiệm quý báu về phương hướng, nội dung, phương pháp và đối tượng vận động và đấu tranh. Thông qua các hoạt động thực tiễn, chúng ta phát huy những thành tựu, kinh nghiệm vào hoàn cảnh mới, bước đầu huy động mạng lưới bạn bè rộng rãi và lực lượng quần chúng trên mặt trận nhân dân tham gia cuộc đấu tranh bảo vệ nhân quyền tiến tới có cơ sở đẩy mạnh hơn nữa các mặt hoạt động ngoại giao nhân dân kể trên.

Tuy nhiên, cuộc đấu tranh bảo vệ nhân quyền là một cuộc đấu tranh lâu dài, phức tạp và nhạy cảm trong khi các lực lượng chống đối sử dụng những thủ đoạn phá hoại ngày càng tinh vi và xảo quyệt hơn, như lợi dụng các vấn đề khiếu kiện để đưa ra vấn đề dân chủ, nhân quyền, móc nối với các thế lực ở trong và ngoài nước chống phá ta trên mọi mặt. Liên hiệp xác định nhiệm vụ bao trùm là: Phát huy kết quả bước đầu, phối hợp chặt chẽ hơn với công tác thông tin đối ngoại của cả nước, phát huy tính chủ động, tích cực, sáng tạo và linh hoạt của các tổ chức thành viên, khai thác lợi thế của đối ngoại nhân dân, tiến bộ về thông tin điện tử của nước ta và công nghệ thông tin hiện đại, tiếp tục cải tiến phương pháp, nâng cao chất lượng, hiệu quả thông tin đối ngoại trong vận động, tập hợp bạn bè quốc tế. Các mặt hoạt động vừa qua tuy đạt được những kết quả nhất định, nhưng chúng ta cần rút kinh nghiệm để có phương pháp đấu tranh nhằm đạt hiệu quả tốt hơn trong các hoạt động, tiếp tục mở rộng quan hệ đối thoại không chính thức với một số đối tượng khác. Tiếp tục tăng cường tuyên truyền, giáo dục, phổ biến rộng rãi cho nhân dân, trang bị cho họ những thông tin về các vấn đề của đất nước trong đó có những vấn đề liên quan đến tôn giáo, dân tộc, dân chủ và nhân quyền để chính nhân dân ta trở thành những “sứ giả” khi tiếp xúc với bạn bè nước ngoài vì tiếng nói nhân dân là tiếng nói thuyết phục nhất.

Những năm tới đây, ngoại giao nhân dân sẽ phát huy tối đa sức mạnh và nội lực của mình trong công cuộc đấu tranh chung bảo vệ nhân quyền, phối hợp với các lực lượng khác để cuộc đấu tranh này đạt được nhiều thành tựu hơn.

(Theo Báo QĐND)

Sự can thiệp thô bạo khoác áo nhân quyền

Nhân quyền (quyền con người) là giá trị của nền văn minh nhân loại, là thành quả của quá trình đấu tranh gian khổ và lâu dài vì tự do, công bằng, hoà bình và phát triển. 

Tuy nhiên, lĩnh vực quyền con người hiện đang bị một số lực lượng chính trị bá quyền lợi dụng như là một ngọn cờ tập hợp lực lượng hòng can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia độc lập, có chủ quyền. Bởi vậy, quyền con người đang trở thành vấn đề hết sức nhạy cảm và phức tạp trong đời sống chính trị quốc tế hiện nay.

Mỹ và một số nước phương Tây lớn tiếng rêu rao ”nhân quyền cao hơn chủ quyền quốc gia”, ”nhân quyền không biên giới”.

Vậy thực chất cái gọi là ”nhân quyền cao hơn chủ quyền quốc gia”, ”nhân quyền không biên giới”… ở đây là gì ?

Đó chính là chiêu bài mà Mỹ và một số nước phương Tây đừng làm cái cớ để ”can thiệp nhân đạo” vào công việc nội bộ các nước có chủ quyền. Dưới ngọn cờ ”nhân quyền”, Mỹ và các nước phương Tây muốn áp đặt ”nhân quyền” mang màu sắc siêu cường của họ lên các nước khác. Nếu không chấp nhận quan niệm giá trị đó họ sẽ tìm mọi cách gây sức ép bằng kinh tế, chính trị, công nghệ… uy hiếp vũ trang, thậm chí, lật đổ hoặc áp đặt bằng vũ lực. Có thể nói, thực chất đó là những hành động của chủ nghĩa thực dân mới ngày nay, núp dưới danh nghĩa bảo vệ ”nhân quyền” của Mỹ và phương Tây.

Trên thực tế, từ năm 1990 đến nay, núp dưới ngọn cờ ”nhân quyền”, Mỹ đã hơn 40 lần sử dụng vũ lực đối với một nước. Đặc biệt, cuối tháng 3 năm 1999, NATO do Mỹ cầm đầu đã phớt lờ luật pháp quốc tế, ngang nhiên bỏ qua Hội đồng bảo an Liên hiệp quốc, oanh tạc Nam Tư – một quốc gia có chủ quyền suốt 78 ngày. Bốn năm sau, (3/2003) một lần nữa, Mỹ- Anh lại bất chấp Liên hợp quốc, tiến công Irắc với cái cớ ”I-rắc có vũ khí huỷ diệt hàng loạt”.

Nếu quả thật nhân quyền cao hơn chủ quyền quốc gia, thì phải chăng vì nhân quyền có thể không cần đến chủ quyền ? Và không có chủ quyền quốc gia thì căn cứ vào đâu họ nhân danh quốc gia có ”nhân quyền” can thiệp vào quốc gia ”vi phạm nhân quyền”, căn cứ vào đâu để xác định sự tồn tại của một quốc gia độc lập? Và khi chủ quyền của một quốc gia – dân tộc bị xâm phạm và chà đạp thì nhân quyền của quốc gia dân tộc đó có còn được bảo đảm hay không ? Và thử hỏi, liệu có thể có những vụ ném bom mang tính nhân đạo hay không, nhất là khi nhiều vụ ném bom ”nhầm” vào khu dân cư, phá huỷ bệnh viện, trường học, những công trình dân sinh… giết chết hàng trăm người dân vô tội, khiến bao gia đình tan nát hoặc lâm vào cảnh màn trời chiếu đất. Thử hỏi, những giá trị nhân quyền của Mỹ và các nước phương Tây ở đây là gì ?

Là một dân tộc từng bị chủ nghĩa thực dân cũ và mới xâm lược, áp bức, hơn ai hết chúng ta hiểu sâu sắc rằng khi 1à ”vong quốc nô” thì không thể có nhân quyền, và chỉ khi nào giành được độc lập dân tộc thì mới có được những quyền cơ bản của con người. Một quốc gia không có hoặc chưa có chủ quyền thì không thể nói đến nhân quyền, đến ”quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc”. Ngược lại, nước độc lập mà nhân dân không đủ cơm ăn, áo mặc, không được học hành thì độc lập, tự do cũng chẳng nghĩa lý gì, nền độc lập đó không thể bền vững.

Như vậy, chủ quyền quốc gia và nhân quyền có mối quan hệ biện chứng, làm tiền đề tồn tại và phát triển cho nhau. Chủ quyền quốc gia 1à điều kiện tiên quyết, cơ bản để thực hiện đầy đủ nhân quyền và một khi nhân quyền được thừa nhận và phát triển thì đó là nền tảng của tự do, công bằng và hoà bình. Vì lẽ đó, không thể có cái gọi là ”nhân quyền cao hơn chủ quyền”.

Đã từ lâu, Mỹ đã theo đuổi và sử dụng ngoại giao nhân quyền như là một chính sách cơ bản trong chiến lược ”diễn biến hoà bình” nhằm chống phá các nước XHCN, trong đó có Việt Nam. Sau thất bại ở Việt Nam, Mỹ càng đẩy mạnh hơn nữa việc thực hiện chính sách ngoại giao nhân quyền để chống phá nước ta. Ngày 19/10/1982, Bộ Ngoại giao Mỹ tổ chức Hội nghị ”Lên án sự vi phạm nhân quyền của cộng sản Việt Nam”. Tháng 12/1983, Bộ Ngoại giao Mỹ trình Quốc hội Mỹ rằng, Việt Nam là một nước không có nhân quyền. Ngày 8/12/1991, Quốc hội Mỹ lên tiếng phản đối Việt Nam vi phạm nhân quyền. Ngày 6/9/2001, Hạ viện Mỹ thông qua Dự luật nhân quyền Việt Nam (VHRA), nhưng không được Thượng viện Mỹ thông qua. Đặc biệt, ngày 15/7/2003,Hạ viện Mỹ đã thông qua điều khoản bổ sung cho Dự luật chi tiêu đối ngoại của Bộ ngoại giao Mỹ trong năm tài chính 2004-2005 (HR. 1950), gắn các điều kiện về nhân quyền với viện trợ không liên quan đến mục đích nhân đạo cho Việt Nam.

Sau gần một tuần thảo luận từ 14/7 đến 19/7/2004, Hạ Nghị viện Hoa Kỳ đã bỏ phiếu với 232 phiếu thuận, 45 phiếu chống, 65 không bỏ phiếu, thông qua cái gọi là luật Nhân quyền Việt Nam năm 2004 mang số hiệu H.R.1587.
Cái gọi là ”Luật Nhân quyền Việt Nam” năm 2004 hay còn gọi là hồ sơ H.R.1587 gồm 3 chương, trong đó liệt kê 10 điều xuyên tạc về dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam, áp đạt điều kiện vô lý cho việc cải thiện quan hệ hữu nghị và hợp tác đang trên đà phát triển theo chiều hướng thuận giữaViệt Nam và Hoa Kỳ. Tệ hại hơn, dự luật này còn đề nghị dành một quỹ đặc biệt để khuyến khích việc gây ra tình hình bất ổn về chính trị ở Việt Nam.

Mỹ tự cho mình cái quyền phán xét tình hình nhân quyền của các nước khác, trong khi chính Mỹ đang bị dư luận chỉ trích vì vi phạm nhân quyền và bị các nước đồng loạt gạt khỏi Ủy ban nhân quyền của Liên hiệp quốc trong cuộc bỏ phiếu tại Hội đồng kinh tế-xã hội (ECOSOC) (3/5/2001). Điều mỉa mai là nước luôn đòi ”can thiệp nhân đạo” vào công việc nội bộ của các nước khác để giải quyết vấn đề nhân quyền, thì chính họ lại vi phạm nhân quyền nhiều nhất. Ngày 1/3/2004, Văn phòng Quốc Vụ viện Trung Quốc đã công bố báo cáo “Về quyền con người ở Mỹ năm 2003”, trong đó đặc biệt nhấn mạnh, sau sự kiện ngày 11/9, dưới chiêu bài chống khủng bố, chính phủ Mỹ đã ra hàng loạt đạo luật vi phạm quyền và sự tự do của công dân.

Ở Mỹ hiện có không ít người không đủ điều kiện thực hiện quyền cơ bản của con người và quyền sống của con người bị đe dọa bởi chính sách bóc lột, đàn áp, bởi tệ phân biệt chủng tộc, bởi bạo lực tràn lan và các tệ nạn xã hội. Các số liệu thống kê cho thấy, năm 2002 số người không có chỗ ở của Mỹ đã vượt quá con số 3 triệu, những người giàu chỉ chiếm 1% dân số lại nắm trong tay tổng số tài sản vượt quá tổng tài sản của 40% dân số, có đến 21.500 nhóm mafia với 731.000 thành viên, có khoảng 200 triệu cây súng đang lưu hành trong dân, 11,9 triệu vụ án giết người, hiếp dâm, cướp bóc. Gần đây, nhiều vụ việc cảnh sát hành hung người da đen ngay trên đường phố mà không bị xét xử nghiêm minh, cho thấy sự phân biệt chủng tộc vẫn còn nặng nề. Trong tháng 4,5 vừa qua, trên phương tiện thông tin đại chúng đang rộ lên hình ảnh lính Mỹ ngược đãi tù binh I-rắc đang làm hoen ố hình ảnh nước Mỹ và đương kim Tổng thống Buts. Về điều này, ông uỷ viên Hội đồng thành phố New York – Wenden Photxto, đã phải thừa nhận rằng, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc là đặc trưng của nền pháp lý Mỹ. Nó là bệnh ung thư đang tàn phá chúng ta. Hãy dẹp bỏ câu chuyện hoang đường rằng nước Mỹ là xứ sở của nhân quyền và tự do.

Ở Việt Nam, đảm bảo và phát triển quyền con người đã là một mục tiêu chính trị chủ đạo và nhất quán trong sự nghiệp cách mạng của Đảng và Nhà nước ta. Đường lối nhất quán và xuyên suốt từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến sự nghiệp đổi mới đất nước và tất cả vì sự nghiệp giải phóng con người, vì quyền con người đích thực. Đường lối này là kết tinh những giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc và quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về quyền con người. Không chỉ dừng lại ở việc ghi nhận như là một tuyên ngôn chính trị, quyền con người đã và đang được thể chế hoá và hiện thực hóa trong đời sống thực tiễn ở Việt Nam, nhất là trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước.

Cho đến nay, chúng ta đã có được một hệ thống văn bản pháp luật tương đối toàn diện về bảo đảm quyền con người, quyền công dân.

Cùng với việc khẳng định: Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức” (Điều 2, Hiếnpháp năm 1992 đã được sửa đổi năm 2001), Hiến pháp còn xác định cách thức thực hiện quyền làm chủ trên thực tế. ”Công dân có quyền tham gia quản lý Nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương, kiến nghị với các cơ quan nhà nước, biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu ý dân” (Điều 53). Hiến pháp còn quy định những quyền công dân hết sức cụ thể: quyền bầu cử và ứng cử, quyền miễn nhiệm đối với đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân, quyền khiếu nại, tố cáo, các quyền tự do về báo chí, ngôn luận, hội họp, lập hội…

Bên cạnh đó, công tác thông tin cho cử tri về hoạt động của các cơ quan nhà nước, đặc biệt là truyền hình trực tiếp (hoặc truyền thanh) về các phiên họp của cơ quan dân cử; công tác tiếp xúc cử tri; việc tổ chức các đợt góp ý kiến của nhân dân về các dự án luật; việc ban hành và đẩy mạnh thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở… là những tiền đề hết sức quan trọng trong việc đảm bảo quyền lực thuộc về nhân dân, trong việc xây dựng nền dân chủ XHCN.

Đảm bảo và phát huy quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân sẽ làm tăng khả năng hiện thực của việc bảo đảm quyền con người. Tuy nhiên, trình độ phát triển kinh tế, những điều kiện sinh hoạt vật chất luôn là nền tảng và mang tính quyết định đối với việc hiện thực hoá và mở rộng các quyền con người, quyền công dân. Thực tế hơn 17 năm đổi mới vừa qua cho thấy, Đảng và Nhà nước ta rất chú trọng đến phát triển kinh tế và xem đây là nhiệm vụ trung tâm. Việc thừa nhận và thể chế hoá trong Hiến pháp 6 thành phần kinh tế ở nước ta hiện nay chính là sự tôn trọng và khuyến khích những người có năng lực và điều kiện tham gia phát triển kinh tế, làm giàu chính đáng.

Bên cạnh chú trọng nâng cao đời sống vật chất, Đảng và Nhà nước ta cũng rất quan tâm chăm lo đời sống tinh thần của nhân dân, đặc biệt là trong đời sống tín ngưỡng, tôn giáo. Những năm qua, nhiều lễ hội và ngày lễ lớn của các tôn giáo, các kỳ đại hội và hoạt động lớn của các tôn giáo được tổ chức trọng thể ở mọi miền của Tổ quốc trong không khí trang nghiêm, an toàn, thu hút hàng vạn tín đồ tham gia.

Thống kê cho thấy: ở Việt Nam hiện có khoảng 10 trường đại học tôn với hàng ngàn tăng ni sinh, chủng sinh, sinh viên đang theo học.

Hầu hết các cơ sở thờ tự của tôn giáo đều được xây dựng, duy tu, bảo dưỡng…

Nhìn tổng quát, những nỗ lực và thành tựu cơ bản trên đây có tính chất nền tảng và bao trùm trên tất cả những lĩnh vực chủ yếu về quyền con người như: chính trị, dân sự, kinh tế-xã hội, văn hoá ở Việt Nam hiện nay.

Điều đó, một mặt, chứng minh sự quan tâm đặc biệt và chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước ta trong việc đảm bảo các quyền con người, quyền công dân, nhưng mặt khác, khẳng định tính tôn trọng và tự nguyện thực hiện các cam kết quốc tế về quyền người mà Nhà nước Việt Nam đã tham gia ký kết, phê chuẩn. Đồng thời, chính thực tiễn đầy sức thuyết phục đó đã bác bỏ hoàn toàn những luận điệu xuyên tạc, bịa đặt vu cáo trong vấn đề nhân quyền của các thế lực thù địch.

(Theo Võ Công Khôi
Phân viện Đà Nẵng
Tạp chí Tư tưởng-Văn hóa, tháng 8/2004)

cpv.org.vn

Sự sai trái của quan điểm “Nhân quyền cao hơn chủ quyền”

“Nhân quyền cao hơn chủ quyền”, ”Nhân quyền không biên giới”, ”Chủ quyền hạn chế”, ”Can thiệp nhân đạo”… là những cách diễn đạt khác nhau của cùng một tư tưởng lý luận và ý đồ chính trị của các thế lực cực hữu phương Tây dùng dân chủ, nhân quyền làm công cụ để can thiệp vào công việc nội bộ của các nước XHCN và các quốc gia đi theo con đường độc lập dân tộc.

Để bác bỏ luận điểm ”Nhân quyền cao hơn chủ quyền”, chúng ta cần phân tích luận điểm này một cách có hệ thống trên cả hai bình diện: tư tưởng chính trị và pháp lý quốc tế.

Xét về tư tưởng chính trị, quyền con người là giá trị chung của nhân loại. Tất cả các quốc gia dân tộc đều có những đóng góp vào giá trị đó. Quyền con người là thành quả của các cuộc đấu tranh: đấu tranh giai cấp, chống áp bức, bóc lột; đấu tranh giành độc lập dân tộc và đấu tranh chống lại sự suy thoái về đạo đức, lối sống, hướng đến sự hoàn thiện phẩm giá con người. Với chúng ta, bảo đảm quyền con người chân chính thuộc bản chất của chế độ xã hội XHCN của Đảng và của Nhà nước ta.

Nói đến ”quyền” là nói đến pháp luật. Nói đến pháp luật không thể không nói tới vai trò của Nhà nước.

Là một dân tộc có bề dày lịch sử và một nền văn hiến rực rỡ, có truyền thống nhân đạo, bảo vệ con người, vào thế kỷ XI, dưới thời nhà Lý, chúng ta đã có “Bộ luật hình”. Trong đó đã có nhiều điều bảo vệ quyền con người – tất nhiên còn nhiều hạn chế bởi các điều kiện kinh tế và quan điểm giai cấp. Vào thời nhà Lê, thế kỷ XV, chúng ta có bộ luật ”Quốc triều hình luật”, còn gọi là bộ luật “Hồng Đức”. Bộ luật có tới 712 điều, trong đó không chỉ chứa đựng những quy phạm xã hội tiến bộ mà còn thể hiện những tư tưởng nhân đạo, nhân quyền sâu sắc như bảo vệ quyền của bị can, bị cáo, tư tưởng về bình đẳng trước pháp luật, về quyền của phụ nữ, về sự khoan dung đối với người già và người chưa thành niên…

Như vậy, có thể nói, trong xã hội nô lệ, phong kiến tuy chưa có chế định quyền con người, nhưng đã có những chế định pháp luật có nội dung bảo vệ con người.

Chủ nghĩa Mác- Lênin đã đặt quyền con người vào trong tiến trình lịch sử, rằng, những quyền đó gắn liền với Nhà nước và pháp luật. Quyền con người, do đó không thể không in dấu ấn giai cấp, nhất là khi vận dụng nó trong cuộc đấu tranh giai cấp cũng như đấu tranh giành độc lập dân tộc. Quyền con người đã từng là vũ khí đấu tranh của giai cấp tư sản nhằm lật đổ sự thống trị bởi vương quyền, thần quyền và dùng để củng cố địa vị thống trị của mình.

Xét trên phương diện pháp lý quốc tế trước khi tổ chức Liên hợp quốc ra đời, quyền con người chỉ tồn tại trong Luật Hiến pháp, có nghĩa chỉ điều chỉnh các quan hệ xã hội trong phạm vi nội bộ của mỗi quốc gia. Từ khi Liên hợp quốc thành lập (1945) cùng với Hiến chương Liên hợp quốc và các Công ước quốc tế cơ bản về quyền con người ra đời, quyền con người đã trở thành một chế định trong Luật quốc tế. Từ đây, quyền con người được bảo đảm bởi cả hai cơ chế, cơ chế quốc gia và cơ chế quốc tế. Đây chính là cơ sở lịch sử – chính trị của luận điểm ”Nhân quyền cao hơn chủ quyền”.

Cơ chế quốc tế bảo vệ quyền con người gồm những yếu tố sau:

– Hệ thống các cơ quan bảo vệ quyền con người của Liên hợp quốc bao gồm: Đại hội Đồng Liên hợp quốc; Hội đồng kinh tế – xã hội, Ủy ban nhân quyền, Cao ủy nhân quyền, các ủy ban nhân quyền của một số công ước… Hội đồng Bảo an cũng có vai trò quan trọng, là tổ chức ra quyết định có can thiệp bằng quân sự khi xuất hiện tình trạng vi phạm nhân quyền nghiêm trọng, phổ biến ở một quốc gia nào đó không?

– Cùng với sự ra đời hệ thống các cơ quan nhân quyền là hệ thống các văn kiện pháp lý về quyền con người, đó là Hiến chương Liên hợp quốc, Tuyên ngôn thế giới về quyền con người, các công ước quốc tế về quyền con người, đặc biệt là hai công ước – Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa; Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị (1966). Ngày nay, giới lý luận xem Tuyên ngôn thế giới về quyền con người và hai công ước trên là ”Bộ luật quốc tế về quyền con người”.

Bác bỏ luận điểm ”Nhân quyền cao hơn chủ quyền” cần phân tích mối quan hệ giữa độc lập dân tộc, quyền dân tộc tự quyết với cơ chế quốc tế bảo đảm quyền con người.

V.I.Lênin đã đề cập tới quyền dân tộc tự quyết trên tinh thần cách mạng và khoa học. Người nói:

”Quyền dân tộc tự quyết có nghĩa là sự phân lập của các dân tộc đó, với tư cách là quốc gia, ra khỏi tập thể các dân tộc khác, có nghĩa là sự thành lập một quốc gia dân tộc độc lập”. Người còn nhấn mạnh, quan điểm của chủ nghĩa xã hội đối với các dân tộc bị áp bức là: ”Chủ nghĩa xã hội thắng lợi nhất thiết phải lập nên chế độ dân chủ hoàn toàn và do đó, không những làm cho các dân tộc hoàn toàn bình đẳng với nhau, mà còn thực hành quyền tự quyết của các dân tộc bị áp bức”. Thực tiễn lịch sử ghi nhận, nhà nước Xô-viết đã giành quyền dân tộc tự quyết cho các dân tộc chung sống trong Liên bang cộng hòa XHCN Xô-viết bao gồm cả quyền tách khỏi Liên bang như trưởng hợp Phần Lan.

Tiếp nối và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê nin về quyền dân tộc tự quyết, Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong “Tuyên ngôn độc lập”, không chỉ nói đến ”quyền phân lập” với ”mẫu quốc” mà nhấn mạnh đến quyền đấu tranh giành độc lập dân tộc, đồng thời khẳng định dân tộc Việt Nam có đủ điều kiện và quyết tâm bảo vệ nền độc lập đó. Điều đó có nghĩa, Việt Nam không cần đến cái gọi là ”chế độ quản thác” của bất cứ ai, kể cả Liên hợp quốc.

Sau “Tuyên ngôn độc lập” của Việt Nam 15 năm, vào những năm 60 của thế kỷ XX, cộng đồng quốc tế mới chính thức thừa nhận quyền dân tộc tự quyết trong “Văn kiện Tuyên ngôn về trao trả độc lập cho các nước và dân tộc thuộc địa”. Điều này còn được khẳng định lại trong hai công ước: Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa, Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị, năm 1966.

Với hai công ước quốc tế về quyền con người năm 1966, Tuyên bố Viên và Chương trình hành động, 1993, quyền dân tộc tự quyết chẳng những được khẳng định trong Luật quốc tế nói chung mà còn là quyền tập thể trong hệ thống quyền con người. Các văn kiện nói trên còn lưu ý rằng, việc bảo đảm các quyền con người trước hết thuộc trách nhiệm của các quốc gia.

Như vậy là luận điểm ”Nhân quyền cao hơn chủ quyền” trên phương diện Luật quốc tế, không có căn cứ bởi vì chủ thể của Luật quốc tế là các quốc gia, chứ không phải là các cá nhân. Không phủ nhận rằng, trong Luật quốc tế về quyền con người, tư cách pháp lý của cá nhân cũng có thể được xác lập với điều kiện có sự cam kết của các chính phủ tham gia Nghị định thư không bắt buộc thứ nhất. Song, cho đến nay, Việt Nam và nhiều quốc gia chưa thừa nhận Nghị định thư này. Xét về nội dung việc bảo đảm các quyền con người ở mỗi quốc gia theo Công ước quốc tế còn phải căn cứ vào các điều kiện cụ thể về chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa của mỗi nước. Pháp luật quốc tế không cho phép bất cứ quốc gia nào hay tổ chức quốc tế nào được phép can thiệp vào vấn đề nhân quyền của mỗi nước. Những mâu thuẫn hoặc khác biệt nào đó giữa các quốc gia trên lĩnh vực này chỉ có thể được giải quyết trên tinh thần bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau và đối thoại xây dựng.

Nhằm ngăn chặn ý đồ thông qua vấn đề nhân quyền để can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia cũng như việc áp đặt hệ tư tưởng tư sản, đại diện của Liên Xô đã bác bỏ những đề xuất ban đầu của Tiểu ban soạn thảo Tuyên ngôn ở một số điểm sau:

Thứ nhất, bác bỏ khái niệm ”Công ước” quốc tế về quyền con người mà thực chất là Bộ luật quốc tế về quyền con người Nói cách khác là bác bỏ tính ràng buộc về mặt pháp lý của Văn kiện này. Cuối cùng các thành viên đã nhất trí tính chất của văn bản là ”Tuyên ngôn”, một văn kiện không ràng buộc về mặt pháp lý.

Thứ hai, bác bỏ tư cách cá nhân của các thành viên tham gia Tiểu ban soạn thảo, thay vào đó là tư cách đại diện của mỗi quốc gia.

Thứ ba, mặc dù không đưa ra nguyên tắc đa số hay đồng thuận, song trên thực tế, nguyên tắc đồng thuận là nguyên tắc làm việc của Tiểu ban (vì lúc đó trong Tiểu ban chỉ có một đại diện của Nhà nước XHCN – đó là Liên Xô).

Thứ tư, về nội dung các quyền, đại diện Nhà nước Xô-viết bác bỏ quan điểm tuyệt đối hóa các quyền dân sự, chính trị và quyền tự do cá nhân… thay vào đó là sự bảo đảm hài hòa giữa các quyền dân sự, chính trị với các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa… Tuy nhiên, văn kiện này đã để ”ngỏ” vấn đề chủ quyền quốc gia.

Mặc dù còn một số hạn chế, Tuyên ngôn thế giới về quyền con người vẫn là một Văn kiện chứa đựng những tư tưởng lớn, tiến bộ, có giá trị bền vững trên lĩnh vực quyền con người. Hiện nay, cùng với Hiến chương Liên hợp quốc, Văn kiện này được tất cả các quốc gia thành viên Liên hợp quốc, mặc nhiên thừa nhận và xem đó như một Văn kiện mang tính đạo lý và có tính pháp lý mà các quốc gia cần phải tôn trọng.

Vào thập kỷ 60, thế kỷ XX do phong trào giải phóng dân tộc phát triển mạnh mẽ, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô đã thu được những thành tựu to lớn, chủ nghĩa đế quốc không thể phát động chiến tranh xâm lược, Hoa Kỳ đã đẩy mạnh chiến lược diễn biến hòa bình đối với các nước XHCN. Ngoại giao nhân quyền được xem là phương thức quan trọng của chiến lược đó.

Luận điểm ”Nhân quyền cao hơn chủ quyền” là một trong những nội dung cơ bản của cuốn sách “Ngoại giao nhân quyền” do D.Niu sơn viết và xuất bản tại Hoa Kỳ năm 1966. Các lực lượng cầm quyền Hoa Kỳ cho rằng, hệ tư tưởng tư sản với tự do, dân chủ nhân quyền là thế mạnh của họ. Hoa Kỳ có thể giành được ưu thế chính trị nếu biết dựa trên quan niệm dân chủ, nhân quyền trong hoạt động đối ngoại.

Chính sách ngoại giao nhân quyền của Hoa Kỳ lấy quan niệm dân chủ, nhân quyền của họ ”làm nền tảng”. Tùy theo tương quan lực lượng và điều kiện khách quan, chủ quan mà họ đề cập tới vấn đề nhân quyền với quốc gia nào và ở mức độ nào. Đôi khi Hoa Kỳ đặt vấn đề nhân quyền là điều kiện tiên quyết để thiết lập và duy trì quan hệ ngoại giao. Tuy nhiên, bản chất ngoại giao nhân quyền là dùng khái niệm dân chủ, nhân quyền để can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác. Trên lĩnh vực tư tưởng, ngoại giao nhân quyền hướng vào phê phán, bài bác các quan điểm nhân quyền mác-xít, truyền bá quan điểm nhân quyền tư sản nhằm làm biến đổi ý thức hệ Mác-Lênin từ đó làm thay đổi tận gốc chế độ xã hội XHCN ở các quốc gia, áp đặt một xã hội theo ”hình ảnh” của họ.

Trong chiến lược ”diễn biến hòa bình”, ngoại giao nhân quyền là một vũ khí lợi hại của chủ nghĩa đế quốc. Vào những năm 1918 – 1922, khi nước Nga Xô-viết vừa ra đời, đứng giữa vòng vây và cuộc can thiệp quân sự của nhiều nước đế quốc nhưng nước Nga Xô-viết vẫn tồn tại và phát triển. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Hồng quân Liên Xô là lực lượng chủ yếu đánh bại chủ nghĩa phát xít, bảo vệ vững chắc Tổ quốc XHCN, đồng thời còn góp phần giải phóng cho nhiều dân tộc khác. Thế nhưng, với chiến lược truyền bá tư tưởng ”dân chủ”, ”công khai”, ”đa nguyên, đa đảng”, ”nhân quyền”… các thế lực đế quốc đã làm sụp đổ ý thức hệ Mác-Lênin ở Liên Xô, Đông Âu. Đây là một trong những nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự sụp đổ một bộ phận quan trọng của hệ thống XHCN vào những năm 1989 – 1991.

Sau khi Liên Xô tan rã, các nước XHCN Đông Âu sụp đổ, đế quốc Mỹ thúc đẩy chiến lược ”diễn biến hòa bình” và ngoại giao nhân quyền, sử dụng luận điểm ”Nhân quyền cao hơn chủ quyền” để can thiệp vào công việc nội bộ của các nước. Năm 1991, Hoa Kỳ dùng quân sự can thiệp vào cuộc chiến tranh Irắc – Côoét. Năm 1999, Hoa Kỳ và NATO kiếm cớ bảo vệ nhân quyền của người An-ba-ni xâm lược Nam Tư. Năm 2001 , họ xâm lược Áp-ga-ni-xtan và năm 2003 họ xâm lược I-rắc cùng với những lý do dân chủ, nhân quyền.

Đối với Việt Nam, sau khi buộc phải rút quân, Hoa Kỳ đã áp dụng nhiều chiến lược phá hoại, từ các ”kế hoạch hậu chiến”, nuôi dưỡng những phần tử có hận thù với cách mạng, xây dựng lực lượng chính trị, quân sự trong nước và ngoài nước… đến việc đưa biệt kích xâm nhập nội địa, mưu toan gây bạo động chính trị, vực dậy lực lượng phản động trong nước… nhưng họ đã bị thất bại. Trong mục tiêu chiến lược đánh đổ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, kịch bản ”diễn biến hòa bình”, dựa trên lợi dụng dân chủ, nhân quyền như đã từng diễn ra ở Liên Xô, Đông Âu (1989 – 1991) được xem là phương thức chủ yếu, là điều mong muốn nhất của họ.

Khác với các giai đoạn trước đây, điểm mới trong chiến lược ”diễn biến hòa bình” cũng là điểm mới trong việc sử dụng luận điểm ”Nhân quyền cao hơn chủ quyền” của Hoa Kỳ là song song với việc truyền bá hệ tư tưởng tư sản, lối sống, văn hóa là áp đặt pháp lý đơn phương nhằm gây khó khăn, từng bước làm biến đổi chế độ xã hội ta.

Liên tiếp từ năm 2001 đến nay, không kể Báo cáo nhân quyền hàng năm, lực lượng cực hữu Hoa Kỳ đã áp đặt nhiều Dự luật đối với Việt Nam, mở đầu là ”Đạo luật nhân quyền Việt Nam”, HR2368, tiếp đó là Hạ viện bang Viếc-gi-ni-a thông qua đạo luật cho phép công sở treo cờ ba sọc của ngụy quyền Sài Gòn, rồi đến ”Dự luật thúc đẩy tự do thông tin 1019”, ”Dự luật nhân quyền Việt Nam 2003”, HR1587 và ”Một số khoản bổ sung Dự luật chi đối ngoại của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ năm 2004 – 2005”, HRI950 – trong đó, họ đòi Việt Nam phải phóng thích tất cả tù nhân ”chính trị và tôn giáo” và yêu cầu Chính phủ Mỹ cung cấp tài chính cho đài phát thanh châu Á tự do, cho lực lượng ”đấu tranh” dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam…

Có thể nói về chiến lược của chủ nghĩa đế quốc hiện nay là lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền, lợi dụng luận điểm ”Nhân quyền cao hơn chủ quyền” để can thiệp vào vấn đề dân tộc, tôn giáo, phá hoại đại đoàn kết toàn dân tộc làm trọng tâm; lấy việc xây dựng tổ chức, tạo dựng ngọn cờ và gây bạo loạn chính trị, tạo cớ móc nối với các thế lực bên ngoài làm khâu đột phá.

Ảo tưởng thành lập ”Nhà nước Đêga độc lập” ở Tây Nguyên, ”Nhà nước Khmer Rôm” ở Tây Nam Bộ; ”Vương quốc H’mông tự trị” ở Tây Bắc; ”Vương quốc Chăm” ở Nam Trung Bộ cùng với mưu đồ xây dựng các tổ chức chính trị đội lốt tôn giáo phi pháp như ”Tin Lành Đêga”, “Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất”, ”Ủy ban liên tôn đấu tranh vì tự do tôn giáo”… là những kịch bản đầy tham vọng của họ.

Bác bỏ luận điểm ”Nhân quyền cao hơn chủ quyền” trong bối cảnh chính trị quốc tế hiện nay, chúng ta cần nhận thức đầy đủ, toàn diện về mục tiêu, chiến lược cách mạng của Đảng, về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Đồng thời chúng ta cần nắm chắc đặc điểm của tình hình quốc tế liên quan đến cuộc đấu tranh trên lĩnh vực quyền con người.

Như trên đã trình bày, đặc điểm của tình hình quốc tế liên quan tới quyền con người hiện nay đó là sự hình thành cơ chế quốc tế bảo vệ quyền con người với hệ thống các cơ quan nhân quyền rộng lớn có sự tham gia (ở những mức độ khác nhau) của các thành viên Liên hợp quốc. Hiện nay, Việt Nam đang là một thành viên tích cực. Chúng ta đã tham gia Ủy ban nhân quyền và đang tiếp tục ứng cử làm thành viên ủy ban này trong nhiệm kỳ tới. Các chuẩn mực cơ bản về quyền con người, được xem như Bộ luật quốc tế đã được cộng đồng quốc tế thừa nhận rộng rãi.

Ở châu Âu, châu Phi, châu Mỹ đã hình thành tổ chức nhân quyền khu vực bao gồm cả Tòa án Nhân quyền. Nhân quyền đang trở thành mối quan tâm chung của cả cộng đồng quốc tế.

Trong điều kiện cơ chế quốc tế đã hình thành, hiện nay, giải quyết những vấn đề nhân quyền chúng ta cần phải tính đến các nhân tố quốc tế. Cuộc đấu tranh chống ”diễn biến hòa bình” nói chung, đấu tranh chống các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân chủ nhân quyền là một bộ phận của sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Cuộc đấu tranh này cần phải phục vụ cho mục tiêu nhiệm vụ của chiến lược cách mạng hiện nay: xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, phát triển kinh tế, văn hóa đồng thời mở rộng quan hệ quốc tế, bảo vệ quốc gia và an ninh xã hội.

Trong khi kiên quyết và kiên trì cuộc đấu tranh chống ”diễn biến hòa bình”, bảo vệ vững chắc hệ tư tưởng, Cương lĩnh, đường lối quan điểm của Đảng, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước, đấu tranh bảo vệ vững chắc chế độ chính trị, an ninh quốc gia, chúng ta cần phải chống lại âm mưu và thủ đoạn bôi nhọ, hạ thấp hình tượng cao đẹp của Việt Nam đã hình thành trong cuộc đấu tranh giành và bảo vệ độc lập dân tộc. Chúng ta có thể và cần phải đấu tranh chống lại âm mưu và thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền cô lập Việt Nam, cản trở và ngăn chặn Việt Nam hội nhập với cộng đồng quốc tế.

Để giành được thắng lợi trong cuộc đấu tranh này, chúng ta phải chủ động; hợp tác trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, đối thoại bình đẳng. . . Đồng thời, giải quyết ngày càng tốt hơn các quyền công dân và quyền con người cho người đần; xử lý kiên quyết đối với những phần tử cơ hội, phản động trong nước và đấu tranh chống lại âm mưu, thủ đoạn của các thể lực thù địch nước ngoài./.

Theo Cao Nguyên, Tạp chí Thông tin công tác tư tưởng lý luận tháng 5/2005
cpv.org.vn