Tag Archive | Đảng Cộng sản Việt Nam

Đổi mới và chỉnh đốn Đảng

Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn toàn Đảng: “Việc cần trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình, toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân” (1).

82 năm, từ khi ra đời cho đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, giành được những thành tựu vĩ đại. Sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện quyết định thắng lợi trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Tuy nhiên, bên cạnh những cố gắng và kết quả đạt được, Đảng ta đang đứng trước nhiều thách thức lớn. Đại hội X của Đảng chỉ rõ: “Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, bệnh cơ hội, giáo điều, bảo thủ, chủ nghĩa cá nhân và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức còn diễn ra nghiêm trọng…”(2). Tình trạng ấy gây nên sự bất bình và lo lắng sâu sắc trong xã hội, làm giảm lòng tin của nhân dân với Đảng, ảnh hưởng xấu đến thanh danh của Đảng là nguy cơ lớn ảnh hưởng đến sự sống còn của Đảng, của chế độ ta.

Bác từng dạy: “Làm cách mạng thì có đúng, có sai. Cố nhiên đúng phải là chính, sai là phụ. Có sai thì chúng ta giúp nhau kiên quyết sửa chữa và cùng nhau hăng hái tiến lên”(3). Bác khẳng định: “Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính…”(4).

Nhận thức sâu sắc xây dựng, chỉnh đốn Đảng là một trong những vấn đề quan trọng, then chốt để giữ vững chế độ XHCN, Đảng đã thường xuyên đổi mới, chỉnh đốn Đảng. Có rất nhiều văn bản, nghị quyết được ban hành, nhằm củng cố, kiện toàn, chỉnh đốn, đổi mới về nhận thức, tư tưởng, tổ chức nhằm làm cho Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là người lãnh đạo, người đày tớ của nhân dân. Mỗi kỳ Đại hội là một lần vấn đề đổi mới, chỉnh đốn, xây dựng Đảng được đặt ra và xác định giải pháp thực hiện. Năm 1986, Đại hội VI của Đảng đã đánh dấu một bước tiến dài của Đảng trong tiến trình đổi mới và phát triển. Nghị quyết Đại hội đề ra những giải pháp nhằm đưa Việt Nam thoát khỏi tình trạng khủng hoảng trầm trọng. Thế nhưng, sau Đại hội, năm 1987-1988, tình hình kinh tế-xã hội của nước ta vẫn trong tình trạng khủng hoảng trầm trọng, giá cả leo thang, lạm phát ở mức cao (774%), lương thực và hàng tiêu dùng thiếu nghiêm trọng, đời sống nhân dân hết sức khó khăn. Đảng lại bắt tay vào tìm tòi con đường đổi mới, con đường phát triển. Trong đó, Đảng nhận định cần phải giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, đặc biệt là trong hoàn cảnh khó khăn này. Tháng 6-1988, Hội nghị lần thứ năm BCHTƯ khóa VI đã họp và ra Nghị quyết về vấn đề cấp bách xây dựng Đảng. Trong đó, hội nghị đã chỉ rõ hai khuyết điểm nghiêm trọng nhất trong công tác xây dựng đảng là: vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, vừa thiếu dân chủ, vừa kém kỷ luật; chậm đổi mới quan điểm và chính sách cán bộ, chậm xây dựng và thực hiện quy hoạch đội ngũ cán bộ chủ chốt, nhất là cán bộ kế cận. Đảng Cộng sản Việt Nam đã kiên trì đường lối đổi mới, tích cực, kiên trì sửa chữa những hạn chế, khuyết điểm mà Hội nghị đã chỉ ra. Đảng đã có bước trưởng thành mới, có thêm tri thức và kinh nghiệm mới, nhất là về lãnh đạo kinh tế, lãnh đạo Nhà nước. Năm 1989, Việt Nam đã giải quyết thành công vấn đề lương thực và trở thành nước xuất khẩu gạo thứ ba trên thế giới. Năm 1990, hạ lạm phát xuống còn 2 con số (67%)… Đảng và nhân dân tự hào khi: “Lần đầu tiên lương thực đạt tổng sản lượng 21,5 triệu tấn quy thóc, không những đáp ứng nhu cầu của người dân và dự trữ quốc gia mà còn xuất khẩu 1,2 triệu tấn gạo”(5).

Tháng 6-1992, Hội nghị lần thứ 3 BCH TƯ khóa VII đề ra Nghị quyết về “Một số nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng”. Nghị quyết nêu rõ: “Đây là một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng và cấp bách, có ý nghĩa quyết định đối với toàn bộ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, đối với vận mệnh của chế độ ta và Đảng ta”(6). Mục tiêu của đổi mới, chỉnh đốn Đảng là nhằm “nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phù hợp với yêu cầu khách quan của cách mạng trong tình hình mới, làm trong sạch đội ngũ cán bộ, đảng viên, bảo đảm thực hiện có kết quả các nhiệm vụ chính trị do Đại hội VII Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra, trong đó trọng tâm là phát triển kinh tế, làm cho dân giàu, nước mạnh, giữ vững ổn định chính trị”(7).

Thực hiện Nghị quyết đã củng cố vai trò lãnh đạo của Đảng trước những diễn biến phức tạp của thế giới, đặc biệt là sự sụp đổ của các nước XHCN ở Đông Âu và Liên Xô. Nền kinh tế Việt Nam giành được nhiều thành tựu mới. Tăng trưởng bình quân hàng năm về tổng sản phẩm trong nước (GDP) là 8,2% (kế hoạch là 5,5 – 6,5%), công nghiệp tăng 13%, nông nghiệp tăng 4,5%, kim ngạch xuất khẩu 20%, từ năm 1989 xuất khẩu gạo bình quân 2 triệu tấn/năm. Lạm phát từ 67,1% năm 1991 giảm xuống còn 12,7% năm 1995. Đời sống của người dân được cải thiện, số hộ giàu tăng lên, số hộ nghèo giảm đi. Hệ thống chính trị có một bước đổi mới quan trọng. Vai trò lãnh đạo của Đảng được củng cố và giữ vững, quyền làm chủ của người dân được phát huy.

Công tác xây dựng đảng cắm cột mốc quan trọng với Nghị quyết về một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay được thông qua tại Hội nghị Trung ương 6 (lần 2) khoá VIII (2-1999). Hội nghị đã khẳng định những thành tựu mà Đảng ta đã đạt được trong suốt bảy thập kỷ qua, cũng như thẳng thắn thừa nhận những vấn đề hạn chế trong Đảng. Nghị quyết đã xác định rõ nhiệm vụ của Đảng cần phải: tăng cường sự thống nhất trong Đảng về nhận thức, ý chí và hành động, kiên trì đẩy lùi bốn nguy cơ; đổi mới công tác giáo dục trong Đảng; tăng cường rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên; tập trung chỉ đạo chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu; thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, chế độ tự phê bình và phê bình trong Đảng; củng cố tổ chức, tăng cường sức chiến đấu và năng lực tổ chức trong hệ thống chính trị…

Toàn Đảng tiến hành cuộc vận động “Xây dựng, chỉnh đốn Đảng”, thực hiện tự phê bình và phê bình kỷ niệm 30 năm thực hiện Di chúc của Bác và kỷ niệm 70 năm thành lập Đảng. Công tác đổi mới, chỉnh đốn Đảng được đẩy mạnh nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng ở tất cả các cấp và đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng, quan liêu; chống suy thoái về tư tưởng đạo đức, lối sống.

Với nhiệm vụ trọng tâm là tự phê bình và phê bình, cuộc vận động đã góp phần nâng cao nhận thức chính trị cho cán bộ, đảng viên, ngăn ngừa suy thoái về đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ đảng viên, củng cố và kiện toàn thêm một bước bộ máy đảng các cấp. Nhiều vụ việc tiêu cực, nổi cộm đã được phát hiện và xử lý. Góp phần củng cố lòng tin của nhân dân với Đảng, góp phần giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng.

Hội nghị lần thứ VI Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X ra Nghị quyết số 22-NQ/TW về “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên” chủ động khắc phục những biểu hiện xa rời mục tiêu, phai nhạt lý tưởng; chống chủ nghĩa cơ hội, thực dụng, vụ lợi, cá nhân, trung bình chủ nghĩa; kiên quyết đấu tranh với những luận điệu tuyên truyền xuyên tạc, phản động, góp phần làm thất bại mọi âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Nghị quyết xác định: “Thực hiện đồng bộ các giải pháp để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng. Xây dựng tổ chức cơ sở đảng phải kết hợp chặt chẽ với thực hiện Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, với xây dựng chính quyền, các tổ chức chính trị – xã hội ở cơ sở vững mạnh, với nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, trước hết là bí thư đảng bộ, chi bộ, người đứng đầu và các cấp ủy viên”(8).

Đại hội XI của Đảng nhận định: “… công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được tăng cường, đạt một số kết quả tích cực. Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” đạt được một số kết quả bước đầu. Đa số cán bộ, đảng viên và nhân dân phấn khởi, tin tưởng vào Đảng, Nhà nước, vào công cuộc đổi mới và triển vọng phát triển của đất nước”(9). Tuy nhiên, công tác xây dựng đảng vẫn còn không ít hạn chế, yếu kém, thậm chí có những yếu kém, khuyết điểm kéo dài qua nhiều nhiệm kỳ chậm được khắc phục, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng, là thách thức đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ. Trong đó, vấn đề cấp bách hiện nay là “đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên” là trọng tâm, cấp bách nhất, cần tập trung chỉ đạo chặt chẽ và thường xuyên.

Trước tình hình đó, Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã ban hành Nghị quyết số 12-NQ/TW “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”. Nghị quyết yêu cầu các tổ chức đảng từ Trung ương đến cơ sở, bắt đầu từ Bộ Chính trị, Ban Bí thư, mỗi cấp ủy viên, đảng viên phải dũng cảm tự soi xét lại mình, đơn vị mình, tìm ra được những ưu điểm để phát huy, những sai lầm, yếu kém, khuyết điểm để có kế hoạch, biện pháp sửa chữa.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nhắc nhở: “Mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi ngày tự kiểm điểm, tự phê bình, tự sửa chữa như mỗi ngày phải rửa mặt”. Bởi vì: “Mục đích của phê bình cốt để giúp nhau sửa chữa, giúp nhau tiến bộ. Cốt để sửa đổi cách làm việc cho tốt hơn, đúng hơn. Cốt đoàn kết và thống nhất nội bộ. Vì vậy, phê bình mình cũng như phê bình người phải ráo riết, triệt để, thật thà, không nể nang, không thêm bớt. Phải vạch rõ cả ưu điểm và khuyết điểm”(10). Trong Di chúc, Bác căn dặn: “Trong Đảng phải thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh thực hiện tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”.

Nghị quyết Trung ương 4 đòi hỏi thực hiện kiên quyết, đồng bộ, bắt đầu từ Trung ương, thực sự hiệu quả, để Đảng ta luôn “là đạo đức, là văn minh”.

———————————-

(1). Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, 2002, tập 11, tr. 373-374.
(2). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H.2006, tr. 48.
(3). Bác Hồ với Đại hội Đảng, Nxb CTQG, 2006.
(4). Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, tập 5, tr. 261.
(5). Đảng Cộng sản Việt Nam chặng đường qua hai thế kỷ, Nxb CTQG, 2006, tr. 473.
(6), (7). Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ III BCHTW khóa VII, 6-1992.
(8). Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ VI BCHTW khóa X, 2008.
(9). Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ XI, 2000, tr. 17.
(10). Sửa đổi lối làm việc, X.Y.Z.

Tô Nài Não
xaydungdang.org.vn

Advertisement

Tự phê bình và phê bình, vũ khí sắc bén để xây dựng, chỉnh đốn Ðảng

(Chinhphu.vn) – Giá trị đích thực của nguyên tắc tự phê bình và phê bình Ðảng ta thường nói: Tự phê bình và phê bình là quy luật tồn tại và phát triển của Ðảng, là vũ khí sắc bén để xây dựng, chỉnh đốn Ðảng.

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết, mục đích của phê bình cốt để giúp nhau sửa chữa, giúp nhau tiến bộ

Sự khẳng định ấy là đúng đắn, cả về lý luận lẫn thực tiễn.

Nhìn lại hoạt động của Ðảng trong hơn 80 năm qua, chúng ta thấy rõ: Trong công tác xây dựng Ðảng, Ðảng ta luôn nhất quán lấy chủ nghĩa Mác – Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản, lấy tự phê bình và phê bình làm phương pháp chính yếu để kiểm điểm công việc, đánh giá đúng sai, phát huy ưu điểm, sửa chữa sai lầm, khuyết điểm, làm cho Ðảng luôn tiên phong, tiến bộ.

Không phải ngẫu nhiên, trong “Sửa đổi lối làm việc” (1947) một tác phẩm mẫu mực về xây dựng, chỉnh đốn Ðảng, Bác Hồ đã mở đầu bằng chương I “Phê bình và sửa chữa”.

Bác viết:

“Mục đích của phê bình cốt để giúp nhau sửa chữa, giúp nhau tiến bộ. Cốt để sửa đổi cách làm việc cho tốt hơn, đúng hơn. Cốt đoàn kết và thống nhất nội bộ”.

“Ðảng ta hy sinh tranh đấu, đoàn kết, lãnh đạo nhân dân, tranh lại thống nhất và độc lập. Công việc đã có kết quả vẻ vang.

Nhưng nếu mỗi cán bộ, mỗi đảng viên làm việc đúng hơn, khéo hơn, thì thành tích của Ðảng còn to tát hơn nữa.

Cán bộ và đảng viên làm việc không đúng, không khéo, thì còn nhiều khuyết điểm. Khuyết điểm nhiều thì thành tích ít. Khuyết điểm ít thì thành tích nhiều”.

Bác ví khuyết điểm như bệnh tật, phê bình như uống thuốc. “Nếu không kiên quyết sửa chữa khuyết điểm của ta, thì cũng như giấu giếm tật bệnh trong mình, không dám uống thuốc, để bệnh ngày càng nặng thêm, nguy hiểm đến tính mệnh”. “Một Ðảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Ðảng hỏng. Một Ðảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra những khuyết điểm đó, rồi tìm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Ðảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”. (Xem Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, 2011, Tập 5, tr 273 và tr 301).

Những lời chỉ dạy của Bác Hồ trong “Sửa đổi lối làm việc” cũng như trong nhiều bài nói và bài viết sau này đã thật sự đặt nền móng cho việc xây dựng một chế độ tự phê bình và phê bình có nền nếp trong Ðảng ta. Và nhờ sử dụng tự phê bình và phê bình như một vũ khí, Ðảng ta đã gặt hái được nhiều kết quả trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Ðảng. Qua đó, góp phần làm cho Ðảng ta làm tròn sứ mệnh của một Ðảng tiên phong, lãnh đạo nhân dân giành những thắng lợi vĩ đại. Tuy nhiên, trong cuộc sống, không phải mọi việc đều suôn sẻ. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Ðảng nói chung, tự phê bình và phê bình nói riêng, nhiều lúc, nhiều nơi còn bị buông lỏng hoặc làm một cách hình thức, qua loa, chiếu lệ. Sinh hoạt tự phê bình và phê bình bị biến dạng dưới nhiều kiểu, nhiều cách. Phổ biến nhất là tình trạng nể nang, xuề xòa, né tránh, không dám nói thẳng, nói thật, “nói tốt trước mặt, hục hặc sau lưng”. Lợi dụng tự phê bình và phê bình để đề cao cá nhân, bơm thổi những việc mình làm được, bào chữa những việc mình làm hỏng; che giấu khuyết điểm cho nhau; vuốt ve, ca tụng lẫn nhau; hoặc ngược lại; bới móc và đả kích nhau, biến những cuộc họp kiểm điểm thành nơi “đấu đá” và “hạ bệ” nhau.

Những lệch lạc nêu trên cần được kịp thời chấn chỉnh. Trả lại giá trị đích thực cho nguyên tắc tự phê bình và phê bình, đồng thời lành mạnh hóa sinh hoạt tự phê bình và phê bình trong Ðảng là một yêu cầu bức thiết.

Mài sắc hơn nữa vũ khí tự phê bình và phê bình

Với quyết tâm tạo nên một chuyển biến mạnh mẽ, rõ rệt trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Ðảng, Hội nghị Trung ương 4 đã ra Nghị quyết “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Ðảng hiện nay”, coi tự phê bình và phê bình là “khâu mấu chốt nhất” để kiểm điểm, đánh giá tình hình, đề ra quyết sách và tổ chức việc thực hiện.

Chính với tinh thần tự phê bình và phê bình nghiêm túc, Trung ương không chỉ khẳng định những kết quả tích cực đạt được mà còn thẳng thắn chỉ ra rằng: “Công tác xây dựng Ðảng vẫn còn không ít hạn chế, yếu kém, thậm chí có những yếu kém, khuyết điểm kéo dài qua nhiều nhiệm kỳ chậm được khắc phục, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Ðảng, nếu không được sửa chữa sẽ là thách thức đối với vai trò lãnh đạo của Ðảng và sự tồn vong của chế độ”. Trong ba loại yếu kém nổi bật nhất, nổi lên hàng đầu là tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp. Suy thoái có những biểu hiện khác nhau: phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc. Vì lẽ đó, “kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái…” được coi là vấn đề cấp bách nhất trong ba vấn đề cấp bách được xác định.

Về hệ thống giải pháp cho ba vấn đề cấp bách, cũng trên tinh thần đặc biệt coi trọng tự phê bình và phê bình, Trung ương đã đặt lên hàng đầu nhóm giải pháp về tự phê bình và phê bình, nêu cao tính tiên phong, gương mẫu của cấp trên.

Thông qua Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4, chúng ta có thể tìm lời giải đáp cho một số câu hỏi lâu nay vẫn thường được đặt ra.

Về mối quan hệ  giữa tự phê bình và phê bình.

Tự phê bình và phê bình không phải hai chuyện khác nhau mà là hai mặt của cùng một vấn đề. Chỉ khác nhau ở chỗ: phê bình là kiểm điểm người khác, còn tự phê bình là mình kiểm điểm mình. Nói mình và người là nói đến chủ thể. Chủ thể có thể là một cán bộ, đảng viên, một cấp ủy hay một tổ chức đảng. Với bất cứ chủ thể nào, tự phê bình vẫn là mặt chính yếu nhất. Bởi chủ thể là người biết rõ công việc của mình hơn ai hết, biết mình đã làm gì và làm như thế nào; tự phê bình thể hiện tính tự giác và tinh thần trách nhiệm trước công việc, trước Ðảng và trước nhân dân. Nhưng tự phê bình cũng có mặt hạn chế khi chủ thể có sự chủ quan trong nhận thức: sai tưởng đúng, xấu tưởng tốt, trái tưởng phải. Vì vậy, cần có phê bình. Phê bình là chỉ ra khuyết điểm (hay ưu điểm) của chủ thể tự kiểm điểm. Phê bình đúng sẽ giúp cho người mắc sai lầm, khuyết điểm thấy sự cần thiết phải sửa chữa. Người phê bình thường có thái độ khách quan hơn người tự phê bình. Về mặt này, phê bình có ý nghĩa rất quan trọng, có khi quan trọng hơn tự phê bình. Tự phê bình và phê bình giống như hai cánh của cùng một con chim. Chim không thể bay nếu hai cánh không cùng vỗ. Sẽ là không đúng nếu đánh giá kết quả một cuộc họp kiểm điểm, nhất là kiểm điểm một tập thể, một cấp ủy, một tổ chức đảng mà chỉ căn cứ vào tiếng nói của một chiều phê bình hay tự phê bình. Ðó là chưa nói đến những trường hợp có biểu hiện sai trái làma biến dạng tự phê bình và phê bình như đã nói ở phần trên.

Về mối quan hệ giữa cấp trên và cấp dưới trong tự phê bình và phê bình.

Trước nay, ta vẫn chủ trương, tự phê bình và phê bình phải tiến hành đồng bộ, từ trên xuống và từ dưới lên, mà thường là từ dưới lên. Lần này, cũng như trong cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Ðảng, tự phê bình và phê bình theo Nghị quyết Trung ương 6 (lần hai) khóa VIII (1998), Trung ương chủ trương làm từ trên xuống.

Trước hết, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Chấp hành Trung ương tập trung kiểm điểm, đánh giá làm rõ tại sao những hạn chế, khuyết điểm đã chỉ ra nhiều năm nhưng chậm được khắc phục, có mặt còn yếu kém, phức tạp thêm, làm rõ nguyên nhân trở ngại trong việc lãnh đạo thực hiện các nghị quyết của Trung ương về xây dựng Ðảng. Tiếp đó, các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy viên Ban chấp hành Trung ương tiến hành kiểm điểm, đánh giá, liên hệ bản thân về kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao liên quan đến một số vấn đề cấp bách nêu trong nghị quyết này, đề ra biện pháp giải quyết. Sau nữa, các đồng chí ủy viên ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng ủy trực thuộc Trung ương, lãnh đạo các ban của Trung ương Ðảng, ban thường vụ các tỉnh ủy, thành ủy và cấp ủy các cấp nghiêm túc kiểm điểm, tự phê bình và phê bình, nêu gương bằng hành động thực tế.

Trung ương cũng nhấn mạnh: Ban chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các cấp ủy đảng, cán bộ chủ chốt, nhất là cấp Trung ương, người đứng đầu làm trước và phải thật sự gương mẫu để cho các cấp noi theo.

Về mối quan hệ giữa kiểm điểm, tự phê bình và phê bình với xử lý theo kỷ luật Ðảng và theo pháp luật của Nhà nước.

Tự phê bình và phê bình có mục đích giúp các chủ thể (cá nhân và tập thể) thấy rõ ưu điểm để phát huy, nhận rõ khuyết điểm để sửa chữa, coi trọng sự giáo dục, sự giúp đỡ chân thành của các đồng chí, đồng nghiệp, học tập lẫn nhau, “trị bệnh cứu người”. Những trường hợp sai phạm nghiêm trọng mà không thành khẩn, không tự giác, không tiếp thu sự giúp đỡ của tập thể thì phải xử lý thích đáng.

Ðó là nói trong phạm vi tự phê bình và phê bình. Còn xử lý như thế nào, theo kỷ luật Ðảng hay theo pháp luật của Nhà nước là tùy thuộc vào tính chất và mức độ của các sai phạm.

Kỷ luật Ðảng bao gồm nhiều hình thức. Ðối với tổ chức đảng, đó là khiển trách, cảnh cáo, giải tán. Ðối với cá nhân đảng viên, đó là khiển trách, cảnh cáo, cách chức, khai trừ.

Pháp luật của Nhà nước cũng quy định nhiều khung hình phạt khác nhau, tùy theo từng loại tội phạm.

Việc thi hành kỷ luật trong Ðảng hoàn toàn không thay thế cho việc xử lý theo pháp luật. Có những trường hợp chỉ thi hành kỷ luật trong Ðảng là đủ. Nhưng có những trường hợp sai phạm nghiêm trọng, gây tổn hại cho Ðảng, Nhà nước và nhân dân, thậm chí vi phạm pháp luật rõ ràng thì nhất thiết phải truy tố trước pháp luật và chịu sự phán xử nghiêm minh của pháp luật.

Ðiều cần nói thêm

Ðể đẩy mạnh hơn nữa công tác xây dựng, chỉnh đốn Ðảng, giải quyết các vấn đề cấp bách về xây dựng Ðảng hiện nay theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4, tự phê bình và phê bình được coi là nhóm giải pháp có ý nghĩa đặc biệt quan trọng nhưng đó không phải là giải pháp duy nhất. Còn có các nhóm giải pháp khác nhau: nhóm giải pháp về tổ chức, cán bộ và sinh hoạt đảng; nhóm giải pháp về tổ chức về cơ chế, chính sách và nhóm giải pháp về công tác chính trị, tư tưởng. Mỗi nhóm giải pháp ấy đều chứa đựng những nội dung mới, những việc làm cụ thể và thiết thực.

Tiếc rằng, để tập trung vào chủ đề tự phê bình và phê bình, bài viết này không thể đề cập tới những nội dung và việc làm ấy.

Dẫu sao, tôi vẫn tin, chỉ có thực hiện đầy đủ và đồng bộ các nhóm giải pháp đã đề ra, với tinh thần tích cực, khẩn trương, chắc chắn, có lộ trình và bước đi hợp lý, đã nói là làm, thì việc đưa Nghị quyết Hội  nghị Trung ương 4 vào cuộc sống mới thật sự trở thành hiện thực.

Hà Đăng
(Báo Nhân dân)

baodientu.chinhphu.vn