Thư viện

Quan điểm Hồ Chí Minh về đạo đức với việc nâng cao y đức thầy thuốc hiện nay

Trước sự phát triển của nền kinh tế thị trường, mọi quan hệ xã hội, luân thường đạo lý và đạo đức nghề nghiệp cũng có phần đảo lộn. Một bộ phận không nhỏ thầy thuốc đã vô cảm trước nỗi đau của người bệnh, đi ngượi lại y đức, trái với lương tâm, đạo lý, làm “hoen ố” hình ảnh nghề thầy thuốc cao quý có truyền thống bao đời nay. Thực hiện việc Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh do Bộ Y tế phát động, nhằm góp phần nâng cao tinh thần học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.

Ðạo đức nghề y, hay còn gọi là y đức đối với người làm nghề y. Đó không phải là một quy chuẩn của luật pháp, hay nghĩa vụ pháp lý, mà là những phẩm chất tốt đẹp nhất của con người nói chung và người làm nghề y nói riêng. Mặt khác, đó cũng là quy tắc, là chuẩn mực của ngành y, là kim chỉ nam trong hoạt động nghề nghiệp, để thầy thuốc tự giác điều chỉnh hành vi của mình phù hợp với lợi ích, tiến bộ ngành y để đem lại sức khỏe và sự an lành cho con người.

Y đức hình thành và phát triển cùng với lịch sử y học và xã hội. Ngay từ những năm đầu xây dựng đất nước, trên cương vị người lãnh đạo, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành sự quan tâm đặc biệt tới sự phát triển của nền y tế nước nhà, nhất là trong vấn đề y đức của người thầy thuốc. Quan điểm y đức của Hồ Chí Minh bắt nguồn từ tư tưởng nhân văn cao cả và đạo đức cách mạng, biểu hiện trước hết ở tình thương yêu con người sâu sắc mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khái quát thành một triết lý sống đối với đạo đức nói chung và đạo đức ngành y nói riêng. Vấn đề “Con Người” trong tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành yếu tố căn bản và xuyên suốt hệ thống tư tưởng của Người. Người nói “phải thương yêu chăm sóc người bệnh như anh em ruột thịt của mình; coi họ đau đớn cũng như mình đau đớn, “Lương y phải như từ mẫu…”

2.1. quan diem 1
Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm Bệnh xá Vân Đình, tỉnh Hà Tây cũ (20-4-1963)

Người căn dặn cán bộ bệnh xá thực hiện “Lương y như từ mẫu” ( Ảnh tư liệu).

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến vấn đề sức khỏe của nhân dân và y đức của người thầy thuốc. Người luôn căn dặn thầy thuốc “lương y như từ mẫu”. Người cũng đã để lại cho chúng ta những tư tưởng, quan điểm vô cùng sâu sắc, phong phú và có ý nghĩa định hướng cho việc phát triển một nền y học Việt Nam hiện đại trong tương lai. Người nói: “Giữ gìn dân chủ, xây dựng nước nhà, gây dựng đời sống mới, việc gì cũng cần có sức khoẻ mới làm thành công…”.

Trong cuộc đời hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn hướng tới một chân lý nhân văn cao cả, đó là mục tiêu, là động lực, là lý tưởng của Người và cả dân tộc Việt Nam. Lý tưởng nhân văn của Người là giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người, vấn đề con người được đặt trong sự phát triển đó với mục tiêu phát triển trở thành một xã hội thành xã hội chủ nghĩa và phát triển con người thành con người toàn diện vừa hồng vừa chuyên. Người coi con người là một nhân tố rất quan trọng có ý nghĩa quyết định đến thắng lợi của sự nghiệp cách mạng. Người nói: “Mỗi một người dân yếu ớt, tức là cả nước yếu ớt, mỗi một người dân mạnh khoẻ, tức là cả nước mạnh khoẻ… Dân cường thì quốc thịnh”.

Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về y đức đối với người thầy thuốc được thể hiện rất rõ trong các bức thư của Người gửi Hội nghị cán bộ y tế vào các năm 1953. Và tại Hội nghị Y tế ngày 27/2/1955, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư “góp vài ý kiến” để các đại biểu thảo luận. Bức thư thể hiện một cách toàn diện hệ thống tư tưởng của Người về y đức. Người nhấn mạnh: “Người bệnh phó thác tính mệnh của họ nơi các cô các chú. Chính phủ phó thác cho các cô các chú việc chữa bệnh tật và giữ gìn sức khỏe cho đồng bào. Đó là một nhiệm vụ rất vẻ vang. Vì vậy, cán bộ cần phải thương yêu, săn sóc người bệnh như anh em ruột thịt của mình, coi họ đau đớn như mình đau đớn. Lương y phải như từ mẫu, câu ấy nói rất đúng”, và từ đó, chính ngày này đã trở thành“Ngày truyền thống Thầy thuốc Việt Nam”.

Kế thừa truyền thống đạo đức y học của dân tộc và giá trị đạo đức của nền y học thế giới. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra những quan điểm cụ thể về y đức đối với mỗi người thầy thuốc và trở thành phương châm sống, chỉ đạo đối với người thầy thuốc và đối với sự phát triển nền y tế nước nhà. Tư tưởng về y đức được thể hiện qua một số quan điểm như sau:

Thứ nhất: Y đức, một trong những quy chuẩn của đạo đức xã hội. Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, nảy sinh từ tồn tại xã hội, có vai trò to lớn đối với đời sống con người. Một trong những nét cơ bản nhất của hình thái ý thức đạo đức là sự tự nguyện, tự giác quan tâm đến người khác, chứ không phải cho mình, mà trong đó có vấn đề y đức là một bộ phận cấu thành của đạo đức xã hội. Trong sự phát triển của y học thế giới, đạo đức người thầy thuốc (y đức), luôn được coi là một phần quan trọng của y học, có ảnh hưởng lớn đến tính hiệu quả trong hoạt động nghề thầy thuốc. Ở Việt Nam, y đức người thầy thuốc mang đậm dấu ấn của đạo đức truyền thống phương Đông. Đạo đức xã hội tốt đẹp lên, thì y đức cũng từ đó mà tốt đẹp lên. Ngược lại, đạo đức xã hội đi xuống, thì không thể có được y đức.

Chủ tịch Hồ Chí Minh là một trong những lãnh tụ cách mạng bàn nhiều nhất về đạo đức. Trong di sản của Người, những quan điểm, tư tưởng đạo đức và đạo đức cách mạng phù hợp với mọi đối tượng, mọi lứa tuổi, ngành nghề, trong đó có ngành y. Có thể nói, sau đạo đức của người cán bộ cách mạng nói chung, thì đạo đức ngành Y được Người bàn đến nhiều nhất. Người là tấm gương sáng, là hiện thân của một con người nhân ái, vị tha, khoan dung, nhân hậu hết mực vì con người. Người dành tình yêu thương và chia sẻ với những nỗi đau của con người. Người từng chỉ đạo: “Chính sách của Đảng và Chính phủ phải hết sức chăm nom đến đời sống của nhân dân. Nếu dân đói là Đảng và Chính phủ có lỗi, nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi, nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi, nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi”.

Để thực hiện được những nhiệm vụ mà lương tâm, trách nhiệm của người đứng đầu đất nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn ân cần căn dặn cán bộ ngành y tế: “Trước hết là phải thật thà đoàn kết… Đoàn kết giữa cán bộ cũ và cán bộ mới. Đoàn kết giữa tất cả những người trong ngành y tế, từ các bộ trưởng, thứ trưởng, bác sĩ, dược sĩ cho đến các anh chị giúp việc. Bởi vì công việc và địa vị tuy có khác nhau, nhưng người nào cũng là một bộ phận cần thiết trong ngành y tế, trong việc phục vụ nhân dân” .

Trước thực trạng hiện nay, dưới ánh sáng của nghị quyết Đại hội Đảng và vận dụng tư tưởng đạo đức, y đức của Hồ Chí Minh, ngành y tế đã tích cực nhạy bén, chủ động đề ra Định hướng chiến lược công tác chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân đến năm 2010 và 2020 và đề ra các quy định về y đức, tiêu chuẩn nâng cao y đức đối với mỗi người làm nghề, thực hiện tốt 12 điều y đức, để mỗi người thầy thuốc phải luôn lấy y đức làm mục đích, lý tưởng cho hành động của mình, lấy lao động chính đáng, tài năng và trí tuệ của mình làm lẽ sống, để rèn luyện phẩm chất đạo đức của người thầy thuốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa phù hợp với tiến bộ xã hội.

Thứ hai: Y đức, một trong những quy chuẩn của đạo đức nghề nghiệp. Đạo đức nghề nghiệp là những quy tắc để hướng dẫn cho các thành viên ứng xử và hoạt động một cách trung thực, phục vụ cho lợi ích của nghề nghiệp. Hiểu cách khác, trong mọi hoạt động nghề nghiệp, người hành nghề có thể thực hiện công việc với chất lượng cao, tuân thủ pháp luật và phục vụ tốt nhất có thể. Y đức thực hiện nhiệm vụ là tòa án lương tâm, trách nhiệm xã hội và từ đó thực hiện chức năng tự đánh giá hành vi đạo đức của con người.

Nghề y là một nghề cao quý, được xã hội tôn vinh, những người thầy thuốc phải không ngừng học tập nâng cao trình độ chuyên môn, rèn luyện y đức mới thực hiện được lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Y đức không chỉ là những hành động như thái độ niềm nở với người bệnh, mà còn đòi hỏi người thầy thuốc phải khiêm tốn, đối xử tốt với đồng nghiệp, giỏi về chuyên môn, không lợi dụng nghề nghiệp để kiếm lời… Lương tâm nghề nghiệp trong sáng là cơ sở để hình thành những đức tính cần có của người thầy thuốc. Lương tâm người thầy thuốc còn là cơ sở để hình thành sự cảm thông sâu sắc với nỗi đau của người bệnh, từ đó hình thành quy chuẩn của đạo đức trong nghiệp vụ.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, người thầy thuốc phải có lương tâm và trách nhiệm cao đối với người bệnh. Hành vi đạo đức là những hành vi có động cơ bên trong phù hợp những yêu cầu và chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp. Tình cảm đạo đức của người thầy thuốc là động lực, những đức tính đã trở thành thói quen, thúc đẩy người thầy thuốc hành động sao cho phù hợp với chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp. Trong thư gửi Hội nghị Quân y, tháng 3 năm 1948, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Người thầy thuốc chẳng những có nhiệm vụ cứu chữa bệnh tật, mà còn phải nâng đỡ tinh thần những người ốm yếu… Khi gặp những ca anh em thương binh thiếu trấn tĩnh, người thầy thuốc nên lấy lòng nhân đạo và tình thân ái mà cảm hóa họ…”.

Đối với ngành y tế, thì y đức luôn là vấn đề được toàn xã hội quan tâm, bởi vì nghề y là một nghề đặc biệt liên quan đến sức khỏe, thậm chí đến tính mạng của con người, do vậy người làm nghề y không chỉ giỏi về chuyên môn mà cần phải có đạo đức, lương tâm nghề nghiệp và tinh thần trách nhiệm cao, mới có thể hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình. Chính vì thế, cần phải đẩy mạnh việc thực hiện chủ trương của Đảng: “Nâng cao y đức, đấu tranh đẩy lùi tiêu cực trong hoạt động khám, chữa bệnh” . Để làm tốt được nhiệm vụ và đúng với tôn chỉ mục đích nghề nghiệp. Y đức phải thực hiện tốt 4 nhiệm vụ cơ bản sau: 1- Thầy thuốc phải chăm chỉ, nhiệt tình lao động, luôn sẵn sàng, chủ động trong công việc của mình; 2- Thầy thuốc phải thận trọng, cảnh giác trước các trường hợp coi là bệnh nhẹ, bình thường, giản đơn; 3- Thầy thuốc phải luôn giữ gìn phẩm giá, danh dự nghề nghiệp của mình; 4- Thầy thuốc phải là người có tính sáng tạo trong nghề nghiệp…

2.2. quan diem 2
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trao danh hiệu Thầy thuốc Nhân dân
của ngành y tế (Ảnh tư liệu)

Bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thời kỳ hội nhập, những di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về y đức đang soi đường và chắp cánh cho đội ngũ cán bộ ngành y tế nước ta vượt qua mọi khó khăn và thử thách, góp phần đưa ngành y nước ta tiến kịp thế giới… Trước xu thế hội nhập hiện nay, ngành y tế nước ta có nhiều điều kiện phát triển, đội ngũ cán bộ y tế có nhiều tiến bộ, trình độ. Để thực hiện tốt và giữ đúng với y đức của mình, cần có sự tham gia của toàn xã hội, bắt đầu bằng việc giáo dục tuyên truyền và bồi dưỡng… 1- Cần xây dựng đội ngũ cán bộ y tế, bác sỹ, y tá có đức có tài; 2- Cần phải xây dựng một nền y học cách mạng tiên tiến hiện đại; 3- Phải phòng bệnh cũng cần thiết như trị bệnh; 4- Cần chỉnh đốn và kiện toàn bộ máy y tế hoàn thiện và làm được nhiều việc ích lợi cho nhân dân; 5- Cán bộ, nhân viên ngành y phải thật thà đoàn kết…

2.3. quan diem 3
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng  dự Hội nghị Tổng kết

công tác Y tế 2012 và triển khai kế hoạch 2013 (Ảnh tư liệu)

Có thể nói rằng, Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác y tế và sức khoẻ là kim chỉ nam giúp Đảng ta xây dựng những quan điểm cơ bản có ý nghĩa định hướng cho sự phát triển một nền y học Việt Nam tiên tiến hiện đại. Tư tưởng về y đức của Người vẫn còn sống mãi và trở thành là bài học quý báu, là ngọn đèn, soi đường chỉ lối cho những người làm công tác y tế nước ta. Vì vậy, để những hình ảnh của người thầy thuốc đẹp mãi trong lòng nhân dân, và để cho y đức luôn là niềm tự hào của ngành y, mỗi thầy thuốc cần phải nêu cao lòng nhân ái, cần phải không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, nâng cao tinh thần trách nhiệm đối với bệnh nhân, có như thế mới xứng đáng với những lời dạy của Bác Hồ về y đức, với truyền thống vẻ vang của ngành y, xứng đáng với vẻ đẹp trong sáng và nhân văn của những chiến sỹ khoác áo blouse trắng trên mặt trận chống bệnh tật và cứu người./.

 ThS. Hoàng Anh Tuấn
Theo Joyfm.vn
Phương Thúy (st)

bqllang.gov.vn

Advertisement

Chủ tịch Hồ Chí Minh với ngành Y tế Việt Nam

Chủ tịch Hồ Chí Minh – Anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa kiệt xuất, vị lãnh tụ thiên tài, người thầy vĩ đại của Đảng ta, dân tộc ta là người có ảnh hưởng sâu đậm nhất trong lịch sử dân tộc Việt Nam kể từ thế kỷ XX cho đến nay. Tác phong, đạo đức đầy nhân văn của Người đã có sức cảm hóa, lan tỏa đến mọi tầng lớp nhân dân ta. Trí tuệ thiên tài, tầm nhìn chiến lược của Người đã trở thành tài sản vô giá, là kim chỉ nam hành động cho toàn Đảng, toàn dân ta, trong đó phải kể đến ngành Y tế – một trong những ngành giữ vị trí rất quan trọng trong đời sống kinh tế – xã hội của đất nước.

Những định hướng chiến lược

Cách đây đúng 58 năm, vào ngày 27/2/1955, nhân dịp Hội nghị Cán bộ y tế được tổ chức tại Thủ đô Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư cho Hội nghị. Bức thư với những nội dung sâu sắc, khoa học, mang tính định hướng chiến lược đã trở thành tài sản vô giá của ngành Y tế nước ta. Do ý nghĩa sâu sắc của bức thư này, ngày 06/02/1985, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã ban hành Quyết định số 39/HĐBT lấy ngày 27/2 hàng năm làm “Ngày Thầy thuốc Việt Nam” và cũng kể đó, ngày 27/2 đã trở thành ngày truyền thống của ngành Y tế.

Trong bức thư, Người nêu rõ: “Chính phủ phó thác cho các cô, các chú việc chữa bệnh tật và giữ gìn sức khỏe cho đồng bào. Đó là một nhiệm vụ rất vẻ vang”. Bác cho rằng: “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được học hành, ốm đau có thuốc, già không lao động thì được nghỉ, những phong tục, tập quán không tốt thì dần dần xóa bỏ”. Ngành Y tế cần xác định được vị trí, tầm quan trọng đặc biệt của mình trong tiến trình phát triển bền vững của đất nước, để có những bước đi, những đóng góp phù hợp, thỏa đáng. Sinh thời, dù bận trăm công nghìn việc nhưng Bác Hồ đã nhiều lần làm việc với cán bộ lãnh đạo ngành Y tế, quan tâm, động viên, thăm hỏi đội ngũ thầy thuốc, khẳng định tầm quan trọng của nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe cho nhân dân.

Vâng lời Bác dạy, những thành tựu mà ngành Y tế đã đạt được trong suốt chiều dài cuộc kháng chiến cam go, khổ cực chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và cả trong thời bình, dựng xây quê hương, đã khẳng định vai trò quan trọng của ngành trong công cuộc xây dựng, bảo vệ đất nước, đáp ứng niềm tin, sự kỳ vọng và mong mỏi của Bác kính yêu. Lịch sử ghi danh những chiến sỹ áo trắng không quản ngại nguy hiểm, khó khăn, thiếu thốn luôn có mặt tại các chiến hào để cứu chữa thương bệnh binh, phục vụ đắc lực cho tiền tuyến. Trong số họ, có biết bao người đã để lại một phần máu xương của mình hay vĩnh viễn ra đi vì sự nghiệp cách mạng vĩ đại của dân tộc. Đất nước hòa bình, các chiến sĩ áo trắng lại tiếp tục học hỏi, rèn luyện không ngừng, tận tụy chăm lo, bảo vệ sức khỏe nhân dân, kể cả đồng bào ở những miền núi cao hay nơi hải đảo xa xôi.

Nghề Y là một nghề rất đặc biệt và cao quí trong xã hội. Đất nước càng phát triển, cuộc sống ngày càng được nâng cao về chất lượng, cùng với những ảnh hưởng, tác động của xu thế phát triển toàn cầu hóa, người ta càng nói nhiều đến vấn đề y đức. Y đức là phẩm chất tốt đẹp, là giá trị cốt lõi của người làm công tác y tế, được biểu hiện ở tinh thần trách nhiệm cao, tận tụy phục vụ, hết lòng thương yêu chăm sóc người bệnh như chăm lo cho những người thân yêu trong gia đình của mình. Đây là nghề liên quan trực tiếp đến sinh mệnh con người, nên người thầy thuốc không chỉ phải giỏi về chuyên môn mà còn phải có tâm, có đức. Bác Hồ luôn nhấn mạnh, “Lương y phải như từ mẫu” nghĩa là người thầy thuốc đồng thời phải như một người mẹ hiền. “Người thầy thuốc chẳng những có nhiệm vụ cứu chữa bệnh tật mà còn phải nâng đỡ tinh thần những người ốm yếu” (Thư gửi Hội nghị Quân y, Tháng 3/1948).

Trong thư gửi cán bộ y tế toàn quốc năm 1955, Bác viết: “Người bệnh phó thác tính mệnh của họ nơi các cô chú. Chính phủ phó thác cho các cô, các chú việc chữa bệnh tật và giữ gìn sức khỏe của đồng bào. Đó là nhiệm vụ rất vẻ vang. Vì vậy, cán bộ phải thương yêu, phải săn sóc người bệnh như anh em ruột thịt của mình, coi họ đau đớn như mình đau đớn. “Lương y phải như từ mẫu”, câu nói đó rất đúng”. “Lương y phải như từ mẫu” – lời dạy của Bác là yếu tố cốt lõi của đạo đức ngành y. Hải Thượng Lãn Ông – Lê Hữu Trác cũng đã từng dạy: “Không có nghề nào nhân đạo bằng nghề cứu người. Không có nghề nào vô nhân đạo bằng nghề y thiếu đạo đức”. Thời gian qua, bên cạnh rất nhiều những y bác sĩ đang ngày ngày tận tâm, tận lực với bệnh nhân, thì qua phương tiện thông tin đại chúng, chúng ta cũng biết được có những y, bác sĩ đang trở thành “con sâu làm rầu nồi canh”, gây phiền hà, nhũng nhiễu, khó khăn cho bệnh nhân, thậm chí gây ra những tổn thất nặng nề về tinh thần, thể lực, nghiêm trọng nhất là khiến bệnh nhân thiệt mạng chỉ vì trình độ kém, y đức kém. Một phút lơ đễnh, thờ ơ, tắc trách đến vô cảm của đội ngũ cán bộ nghề y cũng có thể gây ra hậu quả vô cùng nghiêm trọng, dẫn đến mất mát đớn đau và to lớn mà không gì có thể bù đắp nổi cho gia đình bệnh nhân – những con người đã đặt tất cả niềm tin, hy vọng vào họ. Trong lúc cả nước đang đẩy mạnh việc “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, một lần nữa tiêu chuẩn đạo đức “Lương y như từ mẫu” lại được toàn thể cán bộ ngành y nói riêng và nhân dân ta nói chung quan tâm đặc biệt. Trước những cám dỗ của đồng tiền, người thầy thuốc phải giữ vững bản lĩnh của mình, nhìn thẳng vào căn bệnh, vào thể trạng bệnh nhân mà điều trị, không phân biệt giàu nghèo để có sự quan tâm như nhau, phải lấy tư tưởng y đức của Bác làm kim chỉ nam để không bị lầm đường lạc lối gây ra những buồn phiền cho người bệnh.BH voi nghe y 1Thăm Bệnh xá Vân Đình (1963), Người căn dặn cán bộ bệnh xá thực hiện “Lương y như từ mẫu”. Ảnh Internet.

Đối với con đường phát triển nền y tế nước nhà, Bác nói rằng: “Y học phải dựa trên nguyên tắc khoa học, dân tộc, đại chúng. Ông cha ta ngày trước có nhiều kinh nghiệm quý báu về cách chữa bệnh bằng thuốc ta, thuốc bắc. Ðể mở rộng phạm vi y học, các cô, các chú cũng nên chú trọng nghiên cứu và phối hợp thuốc Ðông và thuốc Tây” (Thư gửi Hội nghị cán bộ y tế, ngày 27/2/1955). Theo Bác, “Thuốc tây chữa được nhiều bệnh, nhưng cũng có bệnh chữa không được mà thuốc ta chữa được; thuốc ta chữa được nhiều bệnh, nhưng cũng có bệnh chữa không được mà thuốc tây chữa được… Bên nào cũng có cái ưu điểm, hai cái ưu điểm cộng lại thì chữa được bệnh tốt cho đồng bào, cho nhân dân, phục vụ cho xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thầy thuốc tây phải học Đông y, thầy thuốc ta cũng phải học Tây y… Thầy thuốc ta và thầy thuốc tây đều phục vụ nhân dân, như người có hai cái tay, hai bàn tay cùng làm việc thì làm việc được tốt, cho nên phải đoàn kết từ trên xuống dưới, từ dưới lên, đoàn kết thuốc ta và thuốc tây thành một khối để chữa bệnh cho đồng bào”. Đó chính là sự kết hợp giữa y học hiện đại và y học dân tộc. Định hướng đúng đắn này của Bác kính yêu đã được Đảng và Nhà nước ta thực hiện đạt kết quả tốt. Những năm qua, ngành y tế nước nhà đã có nhiều bước phát triển vượt bậc, kết hợp chặt chẽ giữa Y học cổ truyền và Tây y, góp phần quan trọng vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Những vốn quý của y học cổ truyền đã được lưu giữ và phát triển. Hiện nay, ở tất cả các cấp y tế, các cấp đào tạo từ thấp đến cao đều có giảng dạy Y học cổ truyền, điều này làm cho các cán bộ y tế nước ngoài đến chúng ta rất ngạc nhiên bởi sự có mặt của Khoa (Bộ môn) Y học cổ truyền trong  trường đào tạo và Khoa Đông Y trong các Bệnh viện hoặc Viện nghiên cứu chuyên ngành Y học cổ truyền.

Sức lôi cuốn diệu kỳ

Chủ tịch Hồ Chí Minh bằng trái tim nhân hậu, khối óc thiên tài, tác phong giản dị, chân thành, gần gũi đã có sức lôi cuốn và cảm hóa hầu hết những người đã từng sống, tiếp xúc, làm việc với Người. Đối với nền y học nước nhà, Bác đã có những đóng góp rất to lớn khi lôi cuốn, thu hút được rất nhiều trí thức nghề y ở cả trong và ngoài nước phục vụ cách mạng, tham gia kháng chiến cứu quốc một cách tự nguyện, tận tâm, tận lực với niềm tin tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng và thành công của cách mạng nước nhà.

Trong số những trí thức nghề y quyết tâm đi theo tiếng gọi của Đảng, của Bác phải kể đến Giáo sư, Bác sĩ Trần Hữu Tước– người sáng lập và xây dựng ngành Tai – Mũi – Họng Việt Nam, một trong những vị giáo sư đầu ngành của nền y học Việt Nam hiện đại. Năm 1946, khi Hồ Chủ tịch dẫn đầu Phái đoàn hữu nghị đầu tiên của nước Việt Nam độc lập đi thăm nước Pháp, Giáo sư Trần Hữu Tước được Hội Việt kiều cử làm bác sĩ chăm sóc sức khỏe cho Hồ Chủ tịch và đoàn  ngoại giao Việt Nam. Ông có cơ hội gần Bác và đồng chí Phạm Văn Đồng nên được học hỏi nhiều điều. Ông hiểu cách mạng đã thành công nhưng đất nước và đồng bào cũng còn nhiều việc phải làm! Ông  nghĩ rằng “Phải về phục vụ trong khi nước nhà còn nhiều khó khăn mới đúng”! Theo lời kêu gọi của Bác Hồ, cùng với một số trí thức Việt kiều nổi tiếng khác như Phạm Quang Lễ (tức Trần Đại Nghĩa), Võ Quý Huân, v.v. Giáo sư Trần Hữu Tước đã tình nguyện từ bỏ cuộc sống hơn 13 năm đang ổn định và sinh hoạt sung túc ở Pháp, trở về phục vụ Tổ quốc. Từ đó cuộc đời người thầy thuốc nổi tiếng ấy gắn liền với đất nước, quê hương.

Trở về nước sau bao năm xa cách, Giáo sư Trần Hữu Tước đã có điều kiện dốc toàn bộ sức lực góp phần xây dựng một ngành Tai – Mũi – Họng Việt Nam hoàn chỉnh, có nhiều chuyên khoa sâu, có những đóng góp to lớn cho nền y học và y tế nước nhà, có tiếng vang trên trường quốc tế. Với những công trình và cống hiến xuất sắc của ông trong ngành y tế, Giáo sư Trần Hữu Tước được Đảng và Nhà nước trao tặng danh hiệu Anh hùng Lao động (1966), Huân chương Độc lập hạng Nhất (1983), truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học và kĩ thuật đợt I (1996), được tặng Kỷ niệm chương của Trung đoàn Thủ đô.

Trong những dòng hồi kí của mình, Giáo sư Trần Hữu Tước đã viết về Chủ tịch Hồ Chí Minh – một con người vĩ đại, có ý nghĩa đặc biệt đối với tình cảm và cuộc đời ông, một con người mà Giáo sư vô cùng yêu quý, khâm phục và một lòng một dạ tin tưởng đi theo Người, cho đến trọn cuộc đời mình, vì nhân cách cao cả cùng sự uyên thâm của Người. Đối với Giáo sư Trần Hữu Tước, Hồ Chủ tịch là hiện thân đầy đủ của sự kiên trì lí tưởng giải phóng và cách mạng cho dân tộc Việt Nam.

Cũng như Giáo sư Trần Hữu Tước, đáp lại tình yêu thương vĩ đại Bác dành cho, Giáo sư Hồ Đắc Di – một bác sĩ nổi tiếng ở Việt Nam, Hiệu trưởng đầu tiên Trường Đại học Y khoa của nước Việt Nam độc lập đã cố gắng sống và làm việc, đóng góp không nhỏ cho sự nghiệp cách mạng của nước nhà. Giáo sư là người hiểu thấu tư tưởng và thấm nhuần đạo đức, lối sống của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Điều này thể hiện ở chính cuộc đời ông: Giáo sư là một trí thức, có địa vị cao trong xã hội, song cuộc sống hàng ngày rất giản dị, cởi mở, nhân hậu vị tha, trọng đạo lý hơn lợi lộc, hưởng thụ. Giáo sư đã được Nhà nước tặng thưởng 8 huân chương cao quý, năm 1996 được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học và kỹ thuật. Ông từng nói: “Càng sống lâu, càng suy ngẫm, càng hiểu sâu biết rộng, càng nhìn thấu kim cổ Đông Tây, ta càng thấy rõ Bác Hồ của chúng ta quả là bậc vĩ nhân của các vĩ nhân. Theo tôi, Người là một Einstein về mặt đạo đức. Lời nói nào của chúng ta có sâu xa đẹp đẽ đến đâu chăng nữa, cũng không thể nào nói lên đầy đủ tầm vóc của Người. Có lẽ chính lịch sử mới đủ sức nói lên tầm vóc đó. Điều kỳ diệu của Bác Hồ là Người là bậc thánh nhân xuất chúng nhưng lại không xa rời nhân dân đại chúng, là nhân vật thần thoại truyền kỳ nhưng lại gần gũi biết bao đối với những con người bình thường, nhỏ bé và bất hạnh. Người có ảnh hưởng sâu xa đến tâm tư, tình cảm của mỗi chúng ta, trẻ cũng như già”.

BH voi nghe y 2Bác Hồ nói chuyện thân mật với trí thức ngành y. Ảnh Internet.

Giáo sư, Bác sĩ Tôn Thất Tùng – vị bác sĩ nổi tiếng ở Việt Nam và thế giới trong lĩnh vực gan và giải phẫu gan sau cuộc gặp gỡ đầu tiên với Bác, “dưới ánh sáng của đôi mắt Bác Hồ”, tâm hồn ông đã đi theo cách mạng. Trong suốt cuộc đời mình, Giáo sư đã vinh dự được Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp dìu dắt, tin cậy với niềm tin yêu đặc biệt và tình cảm gần gũi. Không phụ lòng tin yêu của Bác, Giáo sư đã cống hiến hết mình cho sự nghiệp với mong muốn đưa nền y học Việt Nam sánh ngang với các nước trên thế giới. Giáo sư Tôn Thất Tùng đã để lại cho nền y học nước nhà 123 công trình khoa học, đặc biệt Ông là một trong những nhà khoa học đầu tiên xây dựng phương pháp mổ gan mang tên ông: “Phương pháp Tôn Thất Tùng” (hay “phương pháp mổ gan khô”). Giáo sư từng viết: “Bác ơi, công ơn Bác với con thật như trời, như bể. Con nhắc lại mấy kỷ niệm đánh dấu từng chặng đời con, để ghi vào lòng, tạc vào dạ rằng, chính Bác là người đã thay đổi đời con, quyết định cả sự nghiệp khoa học của con. Bác là người cha, người thầy đã tái sinh và dạy dỗ con”. Ông nói: “Nếu quả tôi đóng góp chút gì về khoa học, chính là nhờ tôi biết học và hành bài học đoàn kết của Bác Hồ. Tôi hiểu rằng sự nghiệp khoa học bao giờ cũng là sự nghiệp tập thể. Người làm công tác khoa học phải học cách phối hợp, phối hợp rất tài tình các binh chủng khác nhau như Bác Hồ đã tập hợp trí dũng của dân ta, đưa dân ta từ thắng lợi này đến thắng lợi khác”.

Đây chỉ là ba trong số rất nhiều những trí thức ngành y đã được trí tuệ minh mẫn, trái tim bao la của Bác kính yêu lôi cuốn, cảm hóa và chỉ đường dẫn lối để cống hiến trọn đời cho sự nghiệp cách mạng vĩ đại của nước nhà. Bác luôn dành một sự trân trọng thật sự dành cho các trí thức. Đã giao việc là giao quyền. Đã giao quyền là hoàn toàn tin tưởng. Trong sử dụng trí thức, Người không bao giờ áp đặt, không bao giờ tỏ ý lên mặt dạy đời. Bác là người uyên bác, có thể còn ở trên tầm tư duy của bản thân trí thức, nhưng có lẽ chính vì vậy nên bao giờ cũng giản dị, khiêm tốn. Đó cũng là một phong cách rất trí thức, được trí thức ghi tạc, truyền tụng. Do đó, Hồ Chí Minh có một sức hút phi thường đối với các tầng lớp nhân dân, kể cả những trí thức kiêu sang nhất, khó tính nhất. Hầu hết các trí thức Việt Nam đều suy nghĩ: Nếu không phải Hồ Chí Minh thì có lẽ khó có ai tập hợp được bấy nhiêu nhân tài của đất nước. Quả đúng như vậy. Bằng tất cả niềm tin yêu tuyệt đối dành cho Đảng, cho Bác Hồ kính yêu, rất nhiều các trí thức Việt Nam trong đó có trí thức ngành y đã bỏ lại vinh hoa phú quý, cuộc sống ổn định, cơ hội công danh xán lạn để theo kháng chiến, theo con đường cách mạng mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn.

Năm 2013 đánh dấu kỷ niệm 58 năm Ngày Thầy thuốc Việt Nam (27-2-1955 – 27-2-2013). Đây là dịp để một lần nữa chúng ta nhận thức sâu sắc hơn lời dạy thiết thực, những tình cảm quý báu, những đóng góp to lớn của Bác đối với ngành Y tế Việt Nam. Mỗi cán bộ, nhân viên ngành y tế cần phát huy nhiều hơn nữa về đạo đức, y đức, phẩm chất của người thầy thuốc theo đúng quan điểm mà sinh thời Bác Hồ kính yêu từng nói đó là “Lương y phải như từ mẫu”, nghĩa là “Thầy thuốc phải như mẹ hiền”. Tất cả cùng đoàn kết, chung tay xây dựng một nền y tế Việt Nam tiên tiến, dân tộc, khoa học, đại chúng gắn với nhu cầu thực tế của nhân dân.

Thu Hiền
bqllang.gov.vn

Tư tưởng Hồ Chí Minh về nghề thầy thuốc

Vào ngày 27 tháng 2 năm 1955, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có thư gửi Hội nghị cán bộ Y tế. Đảng và Nhà nước ta đã lấy ngày 27 tháng 2 là Ngày Thầy thuốc Việt Nam.

9. tu tuong
Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm Bệnh xá ở Tp.Nam Định

1. Công tác y tế và sức khỏe cho con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh.

Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đều hướng tình thương yêu và sự quan tâm đặc biệt đến sức khỏe của người dân. Người mong muốn và căn dặn: “Chính sách của Đảng và Chính phủ phải hết sức chăm nom đến đời sống của nhân dân. Nếu dân đói là Đảng và Chính phủ có lỗi, nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi, nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi, nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi” (Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H,1996, t7, tr.572). Trong thư gửi Hội nghị cán bộ Y tế năm 1955, Người định hướng xây dựng một nền y học nước nhà thích hợp với nhu cầu của nhân dân và dựa trên nguyên tắc khoa học, dân tộc và đại chúng. Công tác y tế dự phòng cũng được Hồ Chí Minh quan tâm, Người nói: “Phòng bệnh cũng cần thiết như chữa bệnh”, “phòng bệnh hơn trị bệnh”, “mọi người từ già trẻ, trai gái đã là người dân yêu nước đều phải quan tâm đến vấn đề vệ sinh, giữ gìn sức khoẻ”. Trong tác phẩm “Đời sống mới”, Người viết: “Sạch sẽ là một phần của đời sống mới, sạch sẽ thì dân ít ốm, khoẻ mạnh thì làm được việc, làm được việc thì có ăn” (Một số vấn đề xây dựng ngành Y tế phát triển ở Việt Nam. Nxb Y học, H.1998, tr.167). Chủ tịch Hồ Chí Minh coi việc chăm sóc sức khỏe cho nhân dân là nhân tố rất quan trọng có ý nghĩa quyết định đến sự thắng lợi của sự nghiệp cách mạng. Người chỉ rõ: “Giữ gìn dân chủ, xây dựng nước nhà, gây đời sống mới, việc gì cũng cần có sức khoẻ mới thành công”, “sức khoẻ của cán bộ và nhân dân được bảo đảm thì tinh thần càng hǎng hái; tinh thần và sức khoẻ đầy đủ thì kháng chiến càng nhiều thắng lợi, kiến quốc càng mau thành công”. Đối với mỗi người dân, chưa đầy một năm sau ngày khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Bác đã khuyên nhủ mọi người rằng: “Giữ gìn dân chủ, xây dựng nước nhà, gây đời sống mới, việc gì cũng cần có sức khỏe mới làm thành công. Mỗi một người dân yếu ớt, tức là cả nước yếu ớt. Mỗi một người dân mạnh khỏe tức là cả nước mạnh khỏe. Vậy nên, luyện tập thể dục, bồi bổ sức khỏe là bổn phận của mỗi một người yêu nước. Việc đó không tốn kém, khó khăn gì. Gái trai, già trẻ ai cũng nên làm và ai cũng làm được… Dân cường thì nước thịnh. Tôi mong đồng bào ta ai cũng gắng tập thể dục. Tự tôi, ngày nào tôi cũng tập” (Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H.1996, t4, tr.212). Cho nên, đối với mọi tầng lớp, lứa tuổi, ngành nghề đều phải giữ gìn và nâng cao sức khỏe. Người khuyên các cháu thiếu nhi “Phải siêng tập thể thao cho mình mẩy được nở nang”, không những phải “Yêu Tổ quốc, yêu đồng bào/ Học tập tốt, lao động tốt/ Đoàn kết tốt, kỷ luật tốt” mà còn phải “Giữ gìn vệ sinh thật tốt”.

Trong nhà máy, xí nghiệp, vấn đề sức khỏe cho công nhân cũng quan trọng: “Nếu công nhân đủ ăn, đủ mặc thì họ mới đủ sức; đủ sức thì làm được việc. Một con ngựa ăn no mới chạy nhanh. Một cái máy đủ dầu mỡ mới quay đều. Người ta cũng thế”. Với Người, vấn đề vệ sinh, sức khỏe, bất luận là giàu hay nghèo đều phải thực hiện thật tốt. Nếu “người giàu không giúp cho dân nghèo ăn ở đúng vệ sinh, đến khi có bệnh dịch thì người giàu cũng khó sống”. Đối với vấn đề vệ sinh, để bảo vệ sức khỏe chung cho cộng đồng, cũng có những trường hợp phải cưỡng bách người vi phạm phải tuân theo lợi ích sức khỏe chung như “trong làng nhiều ao, nhiều muỗi, thường có đau ốm, người làng biết vậy, ai cũng bằng lòng lấp ao của mình. Chỉ một hai người không chịu theo, để người làng vì muỗi mà đau ốm liên miên. Vì vệ sinh chung làng có quyền buộc một hai người kia phải lấp ao”. Vì thế, những gì liên quan có lợi cho sức khỏe con người, Bác đều biểu dương khen ngợi: “Chúng ta tự hào có nhiều cụ ông, cụ bà ngoài 70, 80 tuổi vẫn hăng hái học tập và lao động, lập ra những đội “bạch đầu quân” trồng cây, gây rừng, đôn đốc phong trào bình dân học vụ và vận động vệ sinh phòng bệnh”. (Sđd, t11, tr.224).

Hồ Chí Minh cũng đã đánh giá rất cao những thành quả đạt được của ngành y nước nhà “Công tác y tế đã có nhiều thành tích, đã ngăn chặn được nhiều dịch bệnh và bệnh xã hội cũ, sức khỏe của nhân dân được nâng cao. Trẻ em ngày càng được săn sóc chu đáo hơn”. (Sđd, t11, tr.224). Ngày 2-1-1947, Người đã có thư khen ngợi sự tận tâm của các y, bác sĩ, khán hộ cứu thương, trong đó có đoạn: “Tôi được báo cáo rằng: Các thầy thuốc và khán hộ đều hết lòng săn sóc thương binh một cách chu đáo. Thế là các bạn cũng trực tiếp tham gia kháng chiến cứu quốc”.

2. “Lương y phải như từ mẫu” – yếu tố cốt lõi của đạo đức ngành y.  

Dân tộc ta có truyền thống tôn sư trọng đạo, rất quý trọng người thầy: Thầy giáo và thầy thuốc. Nhân dân ta đặt địa vị người thầy dạy chữ ngang hàng với cha, người thầy thuốc như mẹ, bởi nghề thầy thuốc là nghề chữa bệnh cứu người, là người mẹ thứ hai của những người bệnh. Để chǎm sóc sức khoẻ con người, cần có đội ngũ những người thầy thuốc giỏi về chuyên môn, có lương tâm nghề nghiệp. Sau ngày thành lập nước Việt nam Dân chủ Cộng hòa (2-9-1945), Đảng và Chính phủ đã đào tạo, bồi dưỡng được đội ngũ y tá, y sĩ, bác sĩ, lương y chữa bệnh bằng thuốc tây, thuốc nam, thuốc bắc và các phương tiện y học tiên tiến, có y đức và y thuật cao. Giáo sư Hồ Đắc Di, Giáo sư, bác sĩ Tôn Thất Tùng, bác sĩ Đặng Văn Ngữ, bác sĩ Vũ Đình Tụng, Giáo sư Đặng Văn Chung… là những giáo sư, bác sĩ đầu ngành của nền y học Việt Nam thời hiện đại, có công rất lớn trong sự nghiệp cách mạng nước nhà.

Hồ Chí Minh là người rất quan tâm đến vấn đề y đức, một người thầy thuốc giỏi đồng thời phải là một người mẹ hiền hết lòng vì bệnh nhân. Trong thư gửi Hội nghị cán bộ Y tế toàn quốc năm 1953, Người viết: “Cán bộ y tế (bác sĩ, y tá, những người giúp việc) cần phải: Thương yêu người bệnh như anh em ruột thịt. Cần phải tận tâm tận lực phụng sự nhân dân. Lương y phải kiêm từ mẫu” (Sđd, t7, tr.88). Trong Tư tưởng Hồ Chí Minh, đạo đức là gốc rễ của con người, của tài năng. Với các thầy thuốc, Bác càng đặc biệt chú ý hơn về đạo đức. Bác dặn: “Người bệnh phó thác tính mệnh của họ nơi các cô, các chú. Chính phủ phó thác cho các cô, các chú việc chữa bệnh tật và giữ sức khỏe cho đồng bào. Đó là một nhiệm vụ rất vẻ vang. Vì vậy, cán bộ cần phải thương yêu, săn sóc người bệnh như anh em ruột thịt của mình, coi họ đau đớn cũng như mình đau đớn. Lương y phải như từ mẫu, câu nói ấy rất đúng” (Sđd, t7, tr.476). Điều này thể hiện tinh thần nhân văn cao cả, tấm lòng nhân hậu hết mực vì nhân dân, vì con người của Hồ Chí Minh.

Người thầy thuốc không những cứu chữa cho người bệnh về thể xác mà còn phải động viên, khích lệ và cảm thông về mặt tinh thần. Trong thư gửi Hội nghị Quân y (3-1948), Người viết: “Người thầy thuốc chẳng những có nhiệm vụ cứu chữa bệnh tật mà còn phải nâng đỡ tinh thần những người ốm yếu”. Thầy thuốc như mẹ hiền còn phải được thể hiện ở sự hết lòng với người bệnh, vì mục đích cứu người nên không phân biệt sang hèn, giàu nghèo, thân sơ, không được cầu lợi, kể công mà cǎn cứ vào bệnh nặng, nhẹ, nguy, lành mà sắp xếp việc cứu chữa.

Hồ Chí Minh không chỉ coi lương y phải như từ mẫu mà còn vạch rõ phương hướng đào tạo đội ngũ thầy thuốc Việt Nam thành những “lương y kiêm từ mẫu”. Đó là “về chuyên môn: Cần luôn học tập, nghiên cứu để luôn luôn tiến bộ, nhưng phải chú trọng cái gì thiết thực và thích hợp với hoàn cảnh kháng chiến của ta”. “Về chính trị: Cần trau dồi tư tưởng và đạo đức của người cán bộ trong chế độ dân chủ: Yêu nước, yêu dân, yêu nghề, đoàn kết nội bộ, thi đua học tập, thi đua công tác …” (Sđd, t7, tr.88). Để thực hiện được những nhiệm vụ mà Đảng và Chính phủ giao phó, Bác ân cần căn dặn cán bộ ngành y tế: “Trước hết là phải thật thà đoàn kết… Đoàn kết giữa cán bộ cũ và cán bộ mới. Đoàn kết giữa tất cả những người trong ngành Y tế, từ các bộ trưởng, thứ trưởng, bác sĩ, dược sĩ cho đến các anh chị giúp việc. Bởi vì công việc và địa vị tuy có khác nhau, nhưng người nào cũng là một bộ phận cần thiết trong ngành Y tế, trong việc phục vụ nhân dân” (Sđd, t7, tr.476).

Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác y tế và sức khoẻ là kim chỉ nam giúp Đảng ta xây dựng những quan điểm cơ bản có ý nghĩa định hướng cho sự phát triển một nền y học Việt Nam hiện đại và một ngành Y tế xã hội chủ nghĩa có tính ưu việt trong thực hiện nhiệm vụ chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ nhân dân.

Theo Tạp chí Xây dựng Đảng
Huyền Trang
(st)

bqllang.gov.vn

Một số bức thư, bài nói, bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cán bộ y tế và ngành y

Lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu luôn dành những tình cảm đặc biệt cho đội ngũ trí thức, đặc biệt là đội ngũ trí thức ngành y, Người cũng đã để lại cho chúng ta những tư tưởng, quan điểm vô cùng sâu sắc, phong phú, có ý nghĩa định hướng cho việc phát triển một nền y học Việt Nam hiện đại; triết lý sống, phương châm, kim chỉ nam hành động, thước đo giá trị đạo đức của các thế hệ thầy thuốc nước ta. Nhân dịp kỷ niệm 58 năm Ngày Thầy thuốc Việt Nam (27/02/1955 – 27/02/2013), chúng ta cùng đọc lại, nghiên cứu và làm theo những tư tưởng tiến bộ của Chủ tịch Hồ Chí Minh qua một số bức thư, bài nói, bài viết về cán bộ y tế nói riêng và ngành y nói chung:

11. mọt
Chủ tịch Hồ Chí Minh nói chuyện thân mật với đội ngũ trí thức ngành Y.

Ảnh internet

1. Ngày 08-01-1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết “Thư khen ngợi các chiến sĩ bị thương và sự tận tâm của các y sĩ, khán hộ, cứu thương” – Bản gốc lưu tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I (Hồ Chí Minh toàn tập, NXBCTQG, Xb lần thứ 3, tập 5, tr16)

Tôi tiếp được nhiều thơ nam nữ chiến sĩ bị thương, hăng hái hứa với tôi rằng: Hễ vết thương khỏi, thì lại xin ra mặt trận.

Lòng yêu nước, chí kiên quyết của các chiến sĩ thật là đáng quý!

Các chiến sĩ đã hy sinh máu mủ để giữ gìn đất nước. Nay đã bị thương mà còn mong mỏi ra sát địch ở trận tiền. Các chiến sĩ thật xứng đáng với Tổ quốc, và Tổ quốc sẽ không bao giờ quên những người con yêu quý như thế.

Tôi thay mặt Chính phủ hỏi thăm và chúc anh chị em mau lành mạnh.

Các anh em thầy thuốc và chị em khán hộ, cứu thương,

Tôi được báo cáo rằng: Các thầy thuốc và khán hộ đều hết lòng săn sóc thương binh một cách rất chu đáo. Thế là các bạn cũng trực tiếp tham gia kháng chiến cứu quốc.

Tôi thay mặt anh em thương binh, cảm ơn các bạn, và khuyên các bạn gắng sức.

Tôi gửi cho tất cả mọi người trong nhà thương lời chào thân ái và quyết thắng.

Chủ tịch Chính phủ
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà

HỒ CHÍ MINH

2. Theo Tài liệu lưu tại Văn phòng Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết “Thư gửi Hội nghị Y tế Liên khu”(Hội nghị Y tế Liên khu họp tại Liên khu X từ ngày 4 đến ngày 7-6-1948) (Hồ Chí Minh toàn tập, NXBCTQG, Xb lần thứ 3, tập 5, tr548).

“Gửi Hội nghị Y tế,

            Nhờ ông Bộ trưởng Bộ Y tế chuyển,

Nhân dịp Hội nghị này, tôi gửi lời thân ái chào các đại biểu và nhờ các đại biểu chuyển lời tôi hỏi thăm tất cả các bác sĩ, y dược sĩ, cứu thương, khán hộ và công nhân giúp việc trong các cơ quan y tế.

Mặc dầu những sự khó khăn thiếu thốn trong thời kỳ kháng chiến, các nhân viên y tế, từ cao cấp đến những cán bộ phổ thông đều cố gắng làm tròn nhiệm vụ. Tôi biết có những anh em gia đình đông, lương bổng ít, rất túng thiếu, mà vẫn vui vẻ làm việc. Lòng đồng cam cộng khổ với toàn thể đồng bào ấy thật đúng như lời Khổng Tử đã nói: “Cùng đương ích kiên”, và thật là đáng quý, đáng kính.

Bây giờ ta chịu khó với nhau. Đến ngày kháng chiến thắng lợi, độc lập thành công, điều kiện cho phép, Chính phủ quyết không quên công lao của anh em đã cố gắng.

Cũng như các ngành chuyên môn khác, cũng như toàn thể đồng bào, anh em y tế đã cố gắng, ta còn phải cố gắng thêm. Trong cuộc Thi đua ái quốc này, tôi mong rằng nhân viên y tế sẽ là một trong những đội xung phong hăng hái. Tôi nêu ra đây vài điểm chính, để thêm ý kiến cho Hội nghị thảo luận về cuộc thi đua:

1) Nay những thứ thuốc ta quen dùng, càng ngày càng hiếm, vì vậy anh em y tế nên thi đua nhau tìm ra những thứ thuốc mà nước ta sẵn có nguyên liệu.

2) Cùng những thứ thuốc ta có, anh em nên thi đua cùng nhau tìm cách chữa chóng khỏi mà tốn ít thuốc.

2) Những bệnh phổ thông nhất ở nước ta là: Đau mắt, ghẻ, kiết lỵ, tả, sốt cơn, sốt cảm, báng. Anh em nên thi đua nhau tìm ra những thứ thuốc dễ sắm nhất và hiệu nghiệm nhất.

Ngoài ra, cách tổ chức làm việc, tuyên truyền vệ sinh, số bệnh nhân được chữa khỏi; giúp đỡ dân chúng, vân vân, đều là những điểm cần đưa vào cuộc thi đua.

Chính phủ sẵn sàng khen thưởng những người xuất sắc nhất.

Với sự lãnh đạo cao thiết thực của ông Bộ trưởng và sự hăng hái của các đại biểu cùng tất cả nhân viên, tôi chắc rằng y tế của ta sẽ làm tròn nhiệm vụ vẻ vang của mình trong công cuộc kháng chiến và kiến quốc.

Chào thân ái và quyết thắng

HỒ CHÍ MINH

Tài liệu lưu tại Văn phòng Chính phủ

3. Ngày 26/2/1949, trên Báo Cứu Quốc số 1177 đăng “Thư gửi nam nữ học viên Trường y tá Liên khu I” của Chủ tịch Hồ Chí Minh (Hồ Chí Minh toàn tập, NXBCTQG, Xb lần thứ 3, tập 6, tr34).

“Các bạn yêu quý,

Y tá chẳng những là một nghề nghiệp, mà lại là một nghĩa vụ. Người y tá chẳng những giúp chữa bệnh mà còn phải phổ biến vệ sinh. Việc giữ gìn và bồi dưỡng sức khoẻ của dân tộc, người y tá phải gánh một phần quan trọng. Vì vậy, y tá là những chiến sĩ đánh giặc ốm, để bảo vệ sự khang kiện của giống nòi. Những chiến sĩ y tá phải có chí chịu khổ, chịu khó. Phải giàu lòng bác ái hy sinh.

Trong phong trào Thi đua ái quốc, tôi mong các bạn xung phong học và hành, ngày càng tiến bộ.

Với tinh thần thanh niên hăng hái của các bạn, với sự huấn luyện ân cần của các giáo viên, tôi chắc các bạn đều làm tròn nhiệm vụ một cách vẻ vang.

Chào thân ái và quyết thắng

Tháng 2 năm 1949

HỒ CHÍ MINH

4. Khoảng tháng 6 năm 1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết “Thư gửi Hội nghị cán bộ Y tế toàn quốc năm 1953”, (Hồ Chí Minh toàn tập, NXBCTQG, Xb lần thứ 3, tập 8, tr154. Tài liệu lưu tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I.

(Nhờ ông Bộ trưởng chuyển Hội nghị cán bộ y tế)

Nhân dịp Hội nghị này, tôi gửi lời thân ái chúc các bạn mạnh khoẻ và hăng hái công tác để Hội nghị được nhiều kết quả thiết thực và tốt đẹp. Tôi nêu mấy ý kiến sau đây để giúp các bạn nghiên cứu.

Sức khoẻ của cán bộ và nhân dân được đảm bảo thì tinh thần càng hăng hái. Tinh thần và sức khoẻ đầy đủ thì kháng chiến càng nhiều thắng lợi, kiến quốc càng mau thành công. Nhiệm vụ ấy có hai phần:

Phòng bệnh cũng cần thiết như trị bệnh, để làm tròn nhiệm vụ ấy cán bộ y tế (bác sĩ, y tá, những người giúp việc) cần phải:

Thương yêu người bệnh như anh em ruột thịt.

Cần phải tận tâm tận lực phụng sự nhân dân.

“Lương y phải kiêm từ mẫu”. Cán bộ y tế nên cố gắng thực hiện mấy điểm này:

Về chuyên môn: Cần luôn luôn học tập nghiên cứu để luôn luôn tiến bộ, nhưng phải chú trọng cái gì thiết thực và thích hợp với hoàn cảnh kháng chiến của ta hiện nay.

Về chính trị: Cần trau dồi tư tưởng và đạo đức của người cán bộ trong chế độ dân chủ: yêu nước, yêu dân, yêu nghề, đoàn kết nội bộ, thi đua học tập, thi đua công tác.

Về tổ chức: Cần chỉnh đốn và kiện toàn bộ máy từ trên xuống dưới làm cho nó gọn gàng, hợp lý, ít tốn người tốn của mà làm được nhiều việc ích lợi cho nhân dân.

Về cán bộ: Cần lựa chọn và đào tạo nhiều cán bộ mới trong số thanh niên nam nữ, dạy cho họ những công tác cần thiết trong nhân dân, trong dân công ở vùng tạm chiếm và vùng rừng núi.

Một số cán bộ y tế đã được chỉnh huấn, đó là một việc rất tốt. Nên xếp đặt công việc để cho mọi người đều được chỉnh huấn, như thế sẽ rất lợi cho công tác chung cho Bộ.

Chúc Hội nghị thành công.

Chào thân ái và quyết thắng
HỒ CHÍ MINH

Viết khoảng tháng 6-1953.

5. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết “Thư gửi Hội nghị cán bộ Y tế” đăng trên Báo Nhân Dân, số 362, ngày 27/2/1955 (Hồ Chí Minh toàn tập, NXBCTQG, Xb lần thứ 3, tập 9, tr343)

“Bác thân ái chúc các cô ( nghe nói có nữ bác sĩ ở Nam về?), các chú vui vẻ, mạnh khoẻ, hăng hái trao đổi kinh nghiệm, bàn định kế hoạch cho thiết thực và làm việc cho tiến bộ.

Bác góp vài ý kiến sau đây để giúp các cô, các chú thảo luận:

– Trước hết là phải thật thà đoàn kết – Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta. Đoàn kết thì vượt được mọi khó khăn, giành được nhiều thành tích.

Đoàn kết giữa cán bộ cũ và cán bộ mới. Đoàn kết giữa tất cả những người trong ngành y tế, từ các Bộ trưởng, Thứ trưởng, bác sĩ, dược sĩ cho đến các anh chị em giúp việc. Bởi vì công việc và địa vị tuy có khác nhau, nhưng người nào cũng là một bộ phận cần thiết trong ngành y tế, trong việc phục vụ nhân dân.

– Thương yêu người bệnh – Người bệnh phó thác tính mệnh của họ nơi các cô, các chú. Chính phủ phó thác cho các cô, các chú việc chữa bệnh tật và giữ sức khoẻ cho đồng bào. Đó là một nhiệm vụ rất vẻ vang.

Vì vậy, cán bộ cần phải thương yêu, săn sóc người bệnh như anh em ruột thịt của mình, coi họ đau đớn cũng như mình đau đớn.

“Lương y phải như từ mẫu”, câu nói ấy rất đúng.

– Xây dựng một nền y học của ta – Trong những năm nước ta bị nô lệ, thì y học cũng như các ngành khác đều bị kìm hãm. Nay chúng ta đã độc lập, tự do, cán bộ cần giúp đồng bào, giúp Chính phủ xây dựng một nền y tế thích hợp với nhu cầu của nhân dân ta. Y học càng phải dựa trên nguyên tắc: khoa học, dân tộc và đại chúng.

Ông cha ta ngày trước có nhiều kinh nghiệm quý báu về cách chữa bệnh bằng thuốc ta, thuốc bắc. Để mở rộng phạm vi y học, các cô, các chú cũng nên chú trọng nghiên cứu và phối hợp thuốc “Đông” và thuốc “Tây”.

Mong các cô, các chú cố gắng thi đua làm tròn nhiệm vụ.

Chào thân ái và thành công
Tháng 2 năm 1955
HỒ CHÍ MINH

6. Với bút danh C.B, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết bài “Y tế ở Liên Xô” đăng trên Báo Nhân Dân, số 644, ngày 07/12/1955 (Hồ Chí Minh toàn tập, NXBCTQG, Xb lần thứ 3, tập 10, tr198)

“ Bác sĩ Guilăng là Giám đốc các nhà thương chữa bệnh thần kinh ở Pari và quận Xem (Pháp). Đi thăm Liên Xô về, bác sĩ G. đã thuật lại ấn tượng như sau (trong Báo Thế giới, 18-11). Y tế Liên Xô có mấy đặc điểm:

– Hợp lý – Nhân dân ai ốm thì được chữa, không mất tiền thầy tiền thuốc. Các thầy thuốc đưa tất cả tinh thần và lực lượng làm cho nhà thương, không hề làm riêng ở ngoài. Y tế cực kỳ xem trọng việc phòng bệnh, xem trọng điều kiện sinh hoạt và điều kiện làm việc của nhân dân. Ra sức bồi dưỡng thêm nhiều cán bộ.

– Phát triển việc nghiên cứu – Về mặt kỹ thuật và máy móc y tế, nhiều chỗ hơn các nước phương Tây. Số nhà thương và số khoa học thầy thuốc thì nhiều hơn gấp mấy. Liên Xô có 7 viện với 350 người chuyên môn nghiên cứu bệnh thần kinh. Ngoài ra, còn nhiều viện chuyên môn nghiên cứu lý luận Páplốp. ở viện Bucốp có 160 bác sĩ, 550 người giúp việc, 38 phòng nghiên cứu, với một cái vườn rộng 1.600 mẫu tây.

– Đủ thầy thuốc – Nhà thương Viledui (Pari) có 2800 người bệnh, mà chỉ có 22 bác sĩ, trong số đó có những người mỗi tuần lễ chỉ làm một hoặc hai buổi.

Nhà thương Cachenki (Liên Xô) có 1800 bệnh nhân, mà có 127 bác sĩ ngày nào cũng làm việc 2 buổi ở nhà thương.

– Nhân đạo – Ở nhà thương Gagra mà bác sĩ G. đã đến thăm, mỗi bữa có 47 món ăn khác nhau, do thầy thuốc hướng dẫn người bệnh chọn món gì thích hợp cho họ. Ở các nhà thương Liên Xô hoàn toàn không dùng cách trói buộc người bệnh khi lên cơn điên. Trong dố 419 thầy thuốc và người giúp việc ở nhà thương Gagra chỉ có 8 người đàn ông. Điều đó chứng tỏ ở đây người ta đối với bệnh nhân sự săn sóc, an ủi, yêu thương đến mức nào.

Bác sĩ G. kết luận: Y tế Liên Xô đã trở nên y tế kiểu mới, các nước có thể học nó mà để cải thiện y tế của mình”.

7. Thư gửi cán bộ và nhân viên nhà thương Nghệ An, Bác Hồ viết ngày 16/3/1967 in trong sách Bác Hồ với quê hương Nghệ – Tĩnh, Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng Tỉnh ủy Nghệ – Tĩnh 1977, tr156 (Hồ Chí Minh toàn tập, NXBCTQG, Xb lần thứ 3, tập 15, tr316)

“Thân gửi cán bộ và nhân viên nhà thương Nghệ An,

Bác được báo cáo:

– Rằng hầu hết cán bộ và công nhân viên của nhà thương là phụ nữ.

– Rằng các cô, các cháu đã vượt mọi khó khăn gian khổ, quyết tâm xây dựng một nhà thương tốt.

– Rằng mặc dù công việc nhiều, các cô, các cháu vẫn học tập đều đặn để nâng cao trình độ chuyên môn và chính trị.

Bác rất vui lòng khen các cô, các cháu và mong tất cả mọi người đoàn kết tốt và tiến bộ nhiều, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước thắng lợi.

Bác cũng gửi lời chúc bà con nằm nhà thương mau chóng mạnh khoẻ, để về nhà tham gia sản xuất và chiến đấu.

Chào thân ái và quyết thắng

Hà Nội, ngày 16 tháng 3 năm 1967

 BÁC HỒ

8. Ngày 31/7/1967, Bác Hồ viết “Thư khen cán bộ và nhân viên quân y” đăng trên Báo Nhân Dân, số 4861, ngày 01/8/1967 (Hồ Chí Minh toàn tập, NXBCTQG, Xb lần thứ 3, tập 15, tr361)

“Thân ái gửi cán bộ và nhân viên quân y,

Trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước, ngành quân y ta đã có nhiều cố gắng và đã lập được thành tích trong việc cứu chữa thương binh, bệnh binh cũng như trong việc giữ gìn sức khoẻ bộ đội.

Quân y đã cùng với ngành y tế nhân dân chế được nhiều thuốc hay, tìm được nhiều cách chữa giỏi, góp phần tổ chức, hướng dẫn cho bộ đội cách ăn ở tốt và đã đào tạo, bồi dưỡng được nhiều cán bộ, nhân viên tốt.

Nhiều cán bộ, nhân viên quân y đã nêu cao tinh thần dũng cảm, tận tuỵ cứu chữa đồng đội.

Nhiều đơn vị quân y đã có thành tích xuất sắc.

Cán bộ, nhân viên quân y còn tham gia cứu chữa, chăm sóc sức khoẻ của nhân dân ở các nơi đóng quân.

Bác rất vui lòng thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ khen ngợi các đồng chí. Bác nhắc nhủ các cô, các chú phải:

– Đoàn kết chặt chẽ, nêu cao tinh thần tập thể, thi đua học tập và công tác để tiến bộ không ngừng về chính trị, tư tưởng, về chuyên môn kỹ thuật.

– Luôn luôn ghi nhớ rằng người thầy thuốc giỏi, đồng thời phải là người mẹ hiền, hết lòng hết sức cứu chữa và phục vụ thương binh, bệnh binh, tích cực nâng cao sức khỏe của bộ đội, góp phần cùng toàn quân, toàn dân đẩy mạnh sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước đến thắng lợi hoàn toàn.

Nhân dịp này, Bác thân ái hỏi thăm các đồng chí thương binh, bệnh binh, khuyên các đồng chí yên tâm chữa bệnh mau chóng khỏe để trở lại công tác.

Chào thân ái và quyết thắng

Ngày 31 tháng 7 năm 1967

BÁC HỒ

Huyền Trang (tổng hợp)
bqllang.gov.vn

Về những phẩm chất của người cán bộ y tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh

Là lãnh tụ của Đảng và dân tộc, Hồ Chí Minh hơn ai hết nhận rõ tầm quan trọng của việc nâng cao sức khoẻ cho nhân dân để dựng nước và giữ nước. Người từng nói: “Dân cường thì nước mạnh”. Một trong những yếu tố làm cho dân cường là tổ chức chǎm sóc tốt sức khoẻ cho mỗi cá nhân và cả cộng đồng từ khi mới sinh ra. Người coi đó là nhiệm vụ vinh quang, rất vẻ vang mà thiên chức của nó được trao vào tay người cán bộ y tế.

Trong cả cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh đã rất quan tâm đến ngành y và y đức của người thầy thuốc. Người đã nhiều lần gửi thư, trực tiếp gặp, thǎm các cơ sở y tế bày tỏ quan điểm của Đảng và Chính phủ ta về phẩm chất người thầy thuốc. Người cán bộ y tế là người chiến sĩ. Xét trên góc độ y học, mỗi cán bộ y tế là một chiến sĩ trên mặt trận bảo vệ sức khoẻ cho cộng đồng.

Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Y tá là những chiến sĩ đánh gặc ốm để bảo vệ sự khang kiện của giống nòi”. Cuộc chiến đấu của con người chống lại bệnh tật luôn diễn ra gay go ác liệt. Những thành tựu y học đã chǎm sóc bảo vệ con người tốt hơn, nhưng có những lúc con người phải lùi bước trước bệnh tật. Trên trận tuyến này, người cán bộ y tế là người đi đầu, có nhiệm vụ nghiên cứu tìm ra phương cách phòng bệnh, chữa bệnh và chiến thắng bệnh tật.

Trong lịch sử nước ta, một nước chậm phát triển và chiến tranh kéo dài, vai trò người chiến sĩ của người cán bộ y tế thể hiện rõ hơn trong đó có sự kết hợp chặt chẽ giữa quân y và dân y. ở vào thời kỳ kháng chiến, người làm công tác quân y thường là ở tuyến sau, chạy chữa thương bệnh binh. Đảm bảo sức chiến đấu, giữ lại sinh mạng đồng đội là một nhiệm vụ không kém phần khó khǎn. Mỗi sự cố gắng nỗ lực của họ đều có vai trò quan trọng tới sinh mạng của đồng chí đồng đội. Công tác quân y làm tốt có ảnh hưởng rất quan trọng đến tinh thần chiến đấu của người lính.

Trong thư khen các y bác sĩ, hộ lý ngày 8-1-1947 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Các thầy thuốc và khán hộ đều hết lòng sǎn sóc thương binh một cách rất chu đáo. Thế là các bạn cũng trực tiếp tham gia kháng chiến cứu quốc . Trong thực tế, không ít trường hợp người cán bộ y tế phải trực tiếp cầm súng chiến đấu bảo vệ thương bệnh binh và bảo vệ chính mình. Trên một khía cạnh khác, người cán bộ y tế phải chiến đấu vì các giá trị khoa học mà họ đang tiến hành.

Đó là việc phổ biến các kiến thức y học, chống lại các tập quán mê tín dị đoan, đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc ít người. Người cán bộ y tế phải vượt trǎm ngàn gian khổ hy sinh, “chịu khổ, chịu khó” thực sự làm công tác dân vận của Đảng, giành giật người bệnh từ tay tầng lớp thầy mo thầy cúng. ở đây, người cán bộ y tế thực sự là người chiến sĩ trên mặt trận vǎn hoá tư tưởng, đấu tranh chống những tư tưởng lạc hậu, đem ánh sáng khoa học tới với đồng bào.

Chiến đấu chống bệnh tật đã khó, chiến đấu chống những tư tưởng lạc hậu đã ǎn sâu vào tập quán bao đời của đồng bào còn khó hơn nhiều. Nó đòi hỏi người cán bộ y tế phải hết sức cố gắng về chuyên môn chữa trị bệnh có hiệu quả tốt, kiên trì làm công tác chính trị mới có tính thuyết phục. Như vậy vai trò người cán bộ y tế là người chiến sĩ là quan điểm rất đúng đắn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, có cơ sở khoa học và thực tiễn. Người cán bộ y tế phải như người mẹ hiền.

Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng đạo đức. Theo Người đạo đức là gốc. Đạo đức của người làm công tác y tế theo Chủ tịch Hồ Chí Minh phải là người biết “thương yêu người bệnh” “sǎn sóc người bệnh như anh em ruột thịt của mình, coi họ đau đớn cũng như mình đau đớn”, “phải giàu lòng bác ái hy sinh”, “thầy thuốc phải như mẹ hiền”. Không phải ngẫu nhiên, Người lại dùng hình ảnh so sánh thầy thuốc như mẹ hiền bởi tình mẫu tử là tình cảm thiêng liêng. Mặt khác cha ông ta có câu: “có bệnh vái tứ phương”.

Những lúc đau yếu, bệnh tật người bệnh không còn trông cậy vào đâu, họ thực sự phó thác tính mệnh của mình cho người thầy thuốc. Đưa tình cảm này vào sự chǎm sóc, chữa trị bệnh, Chủ tịch Hồ Chí Minh muốn người thầy thuốc có cái tâm, làm phúc, để đức cho đời. Chǎm sóc cứu chữa kịp thời, không ít trường hợp người cán bộ y tế đã “sinh ra” người bệnh lần thứ hai, để lại niềm tin yêu kính phục trong nhân dân. Tinh thần phục vụ người bệnh là rất quan trọng, đặc biệt trong điều kiện vật chất của các cơ sở y tế nước ta còn hạn chế.

Vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh cǎn dặn thầy thuốc và nhân viên phục vụ cần coi trọng cả hai mặt vật chất và tinh thần . Có thuốc hay thức ǎn ngon, còn cần phải có thái độ phục vụ tốt, coi người bệnh như ruột thịt. Người viết trong thư gửi Hội nghị quân y (3-1948): “Người làm thuốc chẳng những có nhiệm vụ cứu chữa bệnh tật mà còn phải nâng đỡ tinh thần những người ốm yếu”. Như vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chú ý đến mối quan hệ giữa thể xác và tinh thần người bệnh, lấy sự an ủi động viên tinh thần làm giảm đi nỗi đau về thể xác, hướng cho người bệnh có suy nghĩ và hành động đúng.

Chủ tịch Hồ Chí Minh phê phán những hành vi phân biệt đối xử với người bệnh, tính tự kiêu tự phụ, xem mình là người ban ơn cho kẻ khác của người làm công tác y tế. Người cán bộ y tế không chỉ giỏi về chuyên môn mà phải vững vàng về chính trị. Để chǎm sóc sức khoẻ nhân dân ngày càng tốt hơn, người thầy thuốc phải không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn. Chủ tịch Hồ Chí Minh khuyến khích người thầy thuốc tích cực học tập và vận dụng kiến thức học tập vào công tác thực tế ở các cơ sở y tế để nâng cao tay nghề.

Trên cơ sở khám và chữa bệnh cho cộng đồng, chú trọng tổng kết, chú trọng nghiên cứu khoa học để tổng kết các phương pháp chữa bệnh, các phương thuốc thích hợp với từng loại bệnh để rút ngắn thời gian điều trị trả lại sức khoẻ cho người bệnh. Người đặc biệt lưu ý các thầy thuốc Việt Nam nghiên cứu kết hợp chữa bệnh Đông y và Tây y, tìm ra các phương thức chữa bệnh cũng như ứng dụng những thành tựu y học của nhân loại. Bác cũng nhắc nhở “học” phải đi đôi với “hành” mới có thể thành thạo công việc, mới có thể đưa kiến thức y học vào thực tiễn.

Trong điều kiện cụ thể của nước ta, Người nhắc nhở luôn học tập để tiến bộ nhưng phải chú trọng cái gì thích hợp với hoàn cảnh tức là gắn lý luận với thực tiễn, hiệu quả là thước đo sự tiến bộ trình độ chuyên môn. Y tế dự phòng là công tác hết sức quan trọng vì thế Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc nhở người cán bộ y tế phải đặc biệt chú ý đến phòng bệnh. Vừa chữa bệnh, người cán bộ y tế vừa có trách nhiệm tuyên truyền công tác giữ gìn vệ sinh, phòng tránh bệnh tật cho nhân dân trong đời sống thường ngày. Có như vậy, những kiến thức về vệ sinh phòng bệnh thông qua người cán bộ y tế mới tới được với cộng đồng. Giỏi về chuyên môn chưa đủ, người cán bộ y tế còn cần sự vững vàng về tư tưởng chính trị.

Hoạt động y tế của người thầy thuốc phải theo đúng đường lối chính sách y tế của Đảng và Chính phủ. Họ phải xác định công tác y tế là phục vụ đông đảo quần chúng nhân dân lao động. Bằng hoạt động của mình, họ tuyên truyền cho đường lối chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước. Người cán bộ y tế phải có tinh thần vượt mọi khó khǎn gian khổ, cố gắng hết sức mình vì sự nghiệp chǎm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân… Người cán bộ y tế phải có lối sống thực thà đoàn kết. Trong chữa bệnh, người thầy thuốc không được gây phiền hà cho người bệnh, không được lợi dụng vị trí của mình để kiếm lợi.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng tổng kết: đoàn kết đoàn kết đại đoàn kết, thành công thành công đại thành công. Trong y tế cũng vậy, Người cǎn dặn: “Đoàn kết thì vượt mọi khó khǎn, giành được nhiều thành tích. Đoàn kết giữa các cán bộ cũ và cán bộ mới, đoàn kết giữa tất cả những người trong ngành y tế từ các bộ trưởng, thứ trưởng, bác sĩ, dược sĩ cho đến các anh chị em giúp việc. Bởi vì công việc và địa vị tuy có khác nhau, nhưng người nào cũng là một bộ phận cần thiết trong ngành y tế, trong việc phục vụ nhân dân”. Người đã coi tinh thần tập thể của người cán bộ y tế là một yếu tố dẫn tới thành công. Rõ ràng là công việc chǎm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân không đơn giản. Nó đòi hỏi sự hỗ trợ cùng hoàn thành trách nhiệm của đội ngũ cán bộ y tế, cho dù ở cương vị nào. Chỉ có như vậy công tác y tế mới đạt hiệu quả cao nhất.

Không chỉ đoàn kết nội bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng nhắc nhở người cán bộ y tế phải đoàn kết với nhân dân nói chung. Có như vậy, người cán bộ y tế mới có thể vượt mọi khó khǎn gian khổ, hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình, đến với cộng đồng, chǎm sóc và bảo vệ tốt sức khoẻ nhân dân. Những quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về người cán bộ y tế và y đức có cơ sở lý luận và được thực tiễn chứng minh là đúng đắn. Vì vậy trong công tác y tế hiện nay, việc tìm hiểu, hiểu đúng và thực hiện tốt những lời dạy bảo ân cần của Người là trách nhiệm của mỗi người cán bộ y tế…

PTS. Trịnh Mưu – Nguyễn Bình (Bộ Y Tế; NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997)

cpv.org.vn

Hồ Chí Minh với quan điểm về sức khỏe, y tế và đạo đức của người thầy thuốc

Cố Giáo sư-Tiến sĩ Đỗ Nguyên Phương, Nguyên Bộ trưởng Bộ Y tế.

Nhân dịp kỷ niệm Ngày Thầy thuốc Việt Nam 27 tháng 2, xin trích giới thiệu tài liệu viết về Chủ tịch Hồ Chí Minh với quan điểm sức khỏe, y tế và đạo đức của người thầy thuốc trong cuốn sách “Một số vấn đề xây dựng ngành y tế phát triển ở Việt Nam” của Cố Giáo sư-Tiến sĩ Đỗ Nguyên Phương, Nguyên Bộ trưởng Bộ Y tế.

Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ thiên tài, người thầy vĩ đại của đảng ta, dân tộc ta. Đảng ta khẳng định cùng với Chủ nghĩa Mác Lênin, những di sản tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, là kim chỉ nam cho mọi hành động của đảng và cách mạng nước ta. Những tư tưởng của Người mãi mãi là ngọn cờ dẫn dắt cách mạng Việt Nam từng bước đi lên giành hết từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, thắng lợi ngày càng to lớn hơn.

Vì vậy việc nghiên cứu, khai thác những tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh để vận dụng vào những hoạt động thực tiễn của sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong giai đoạn hiện nay là việc làm quan trọng và cần thiết.

Chủ đề “Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác bảo vệ sức khỏe” đã đặt ra cho ngành y tế một niềm hy vọng rất lớn, có một ý nghĩa rất quan trọng góp phần phát triển sự nghiệp y tế trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay.

Trên cương vị lãnh tụ tối cao của đảng, của dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có nhiều cống hiến vĩ đại trên tất cả các lĩnh vực hoạt động của đảng, của nhà nước và nhân dân ta để giải phóng đất nước, đưa đất nước tiến lên Chủ nghĩa xã hội, phát triển đất nước về mọi mặt kinh tế, chính trị, xã hội… Trên lĩnh vực y tế và sức khỏe, Người cũng đã để lại cho chúng ta những tư tưởng, quan điểm vô cùng sâu sắc, phong phú, có ý nghĩa định hướng cho việc phát triển một nền y học Việt Nam hiện đại.

Quan điểm về sức khỏe

Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến vấn đề sức khỏe con người. Người coi đây là một nhân tố rất quan trọng có ý nghĩa quyết định đến thắng lợi của sự nghiệp cách mạng. Người chỉ rõ: “giữ gìn dân chủ, xây dựng nước nhà, gây đời sống mới, việc gì cũng cần sức khỏe mới thành công”. Người nói: “mỗi một người dân yếu ớt là cả nước yếu ớt, dân cường thì nước mạnh”. Trong thời kỳ lãnh đạo dân tộc tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “sức khỏe của cán bộ và nhân dân được đảm bảo thì tinh thần càng hăng hái. Tinh thần và sức khỏe đầy đủ thì kháng chiến càng gần thắng lợi, kiến quốc càng mau thành công”. Điều này nói lên rằng Bác Hồ của chúng ta đã đánh giá rất cao vai trò của sức khỏe.

Quan niệm về sức khỏe của Chủ tịch Hồ Chí Minh bao gồm sự lành mạnh cả về thể xác lẫn tinh thần. Người định nghĩa: “ngày nào cũng tập thể dục thì khí huyết lưu thông, tinh thần đầy đủ, như vậy là sức khỏe”. Nội dung của định nghĩa này hoàn toàn thống nhất với định nghĩa về sức khỏe của Tổ chức Y tế Thế giới trong Tuyên ngôn Alma Ata năm 1978 “Sức khỏe là trạng thái hoàn toàn thoải mái về tâm hồn, về thể xác, về xã hội”. Như vậy trước Tuyên ngôn Alma Ata gần nửa thế kỷ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có một quan niệm rất chính xác về sức khỏe. Khi đưa ra khái niệm này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp cận đến tinh thần mác xít về con người, bản chất của con người vùa là một thực thể tự nhiên, vừa là một thực thể xã hội; vì vậy việc chăm lo sức khỏe cho con người phải bằng cả biện pháp vật chất và biện pháp tinh thần. Người nói: “Làm thế nào cho đời sống của dân ta vật chất được đầy đủ hơn, tinh thần được vui mạnh hơn”. Trong thư gửi Hội nghị Quân y, Bác Hồ đã nói: “Người thầy thuốc chẳng những có nhiệm vụ cứu chữa bệnh tật mà còn phải nâng đỡ tinh thần những người ốm yếu”.

Trong 5 quan điểm của đảng ta về công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân, quan điểm thứ nhất đã khẳng định sức khỏe là vốn quý nhất, là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước. Quan điểm này hoàn toàn phù hợp với quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đó là sự quán triệt, sự tiếp tục những tư tưởng của Người trong giai đoạn mới của sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Vì vậy, phải chăm lo sức khỏe cho mọi người, chăm lo sức khỏe cho toàn dân. Quan điểm chăm lo sức khỏe cho mọi người thực sự là thể hiện một quan điểm công bằng trong chăm sóc sức khỏe như tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với công bằng và tiến bộ xã hội. Công bằng xã hội không có nghĩa là không thực hiện sự ưu tiên trong xã hội. Lúc sinh thời, Bác Hồ vẫn thường xuyên nhắc nhở các cán bộ của đảng, nhà nước, các đồng chí chỉ huy quân đội, các cán bộ y tế phải quan tâm chăm sóc sức khỏe cho cụ già, cho trẻ em, cho người nghèo ở vùng xa xôi, hẻo lánh, cho bộ đội và thương binh.

Ngày nay, trong điều kiện của một nền kinh tế thị trường, có sự phân tầng xã hội, tức là trong xã hội có người giàu, có người trung bình, có người nghèo, người đói, có người trong diện chính sách thì rõ ràng nhà nước ta không thể duy trì một nền y tế bao cấp vì như vậy không những nguồn kinh phí không cho phép và hơn thế nữa là không đảm bảo sự công bằng trong xã hội. Chúng ta quan niệm rằng khi nói đến công bằng xã hội là phải nói đến sự ưu tiên đối với những người có công, vùng có công với cách mạng, đối với người nghèo, vùng nghèo, vùng miền núi xa xôi. Nền y tế của chúng ta phải thực hiện yêu cầu không để các bệnh nhân vì không có tiền mà không được khám chữa bệnh đầy đủ.

Quan điểm về y tế và y học

Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng nền y tế của nước ta là một nền y tế nhân dân. Bác Hồ nói “xây dựng một nền y học của ta”, đây là một quan điểm rất sâu sắc. Bác Hồ còn nói với cán bộ y tế phải “giúp đồng bào, giúp chính phủ xây dựng một nền y tế thích hợp với nhu cầu của nhân dân ta”. Cả cuộc đời của Bác Hố đều vì dân, lấy dân làm gốc. Tư tưởng đó của Người cũng được thể hiện ở việc xây dựng một nền y học xuất phát từ nhân dân, của dân, vì dân. Tư tưởng này còn thể hiện ở một nền y học mang bản sắc Việt Nam, xuất phát từ những điều kiện Việt Nam. Theo Bác Hồ, nhân tố nhân dân và nhân tố Việt Nam là cơ sở cho việc xây dựng một nền y học Việt Nam. Chính vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu ra nguyên tắc phải xây dựng một nền y học dân tộc, đại chúng. Tính dân tộc và tính đại chúng chính là một nền y học mang nhân tố dân tộc và nhân tố nhân dân. Nhưng Bác Hồ cũng không dừng lại ở đó, Bác còn nêu ra nguyên tắc nền y học của ta phải là một nền y học mang tính khoa học. Theo Bác Hồ, bản thân y học là khoa học, hơn nữa là một khoa học về con người. Như vậy khi Bác Hồ nêu ra nguyên tắc khoa học, dân tộc, đại chúng tức là nền y học đó phải mang truyền thống của dân tộc kết hợp với tinh hoa của thời đại. Ở đây nhân tố dân tộc và nhân tố thời đại hòa quyện với nhau, bổ sung cho nhau thành một chỉnh thể thống nhất.

Nền y tế của chúng ta phải hướng về cơ sở, phải đặc biệt quan tâm đến việc chăm sóc sức khỏe ban đầu cho toàn dân. Ở các vùng miền xuôi, chăm lo xây dựng các trạm y tế, nhanh chóng xóa bỏ tình trạng xã trắng về y tế, phấn đấu tuyến xã có bác sĩ. Ở các tỉnh miền núi, chăm lo đến y tế thôn bản, chăm lo đến sức khỏe gia đình. Mặt khác, nền y tế của chúng ta phải vươn tới xây dựng một nền y tế hiện đại, đào tạo được ngày càng nhiều các chuyên gia đầu đàn, nhanh chóng tiếp cận với trang thiết bị hiện đại, tập trung xây dựng những trung tâm y tế chuyên sâu. Như vậy là tính dân tộc, tính đại chúng và tính khoa học gắn bó chặt chẽ với nhau và là những phương hướng cơ bản, lâu dài của nền y tế nước ta.

Trong tư tưởng của Bác Hồ thể hiện rất rõ quan điểm xây dựng một nền y học trên cơ sở kết hợp đông y và tây y. Quan điểm này của Bác Hồ là xuất phát từ thực tiễn lịch sử Việt Nam. Bác nói: “Ông cha ta ngày trước có nhiều kinh nghiệm quý hóa về cách chữa bệnh bằng thuốc ta, thuốc bắc” và Bác còn nói “Để mở rộng phạm vi y học, các cô, các chú cũng nên chú trọng nghiên cứu và phối hợp thuốc đông và thuốc tây”. Sở dĩ như vậy vì Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Thuốc tây chữa được nhiều bệnh, nhưng có bệnh chữa không được mà thuốc ta chữa được. Thuốc ta cũng chữa được nhiều bệnh nhưng có bệnh cũng không chữa được. Bên nào cũng có cái ưu điểm, hai cái ưu điểm cộng lại thì chữa bệnh tốt cho đồng bào, cho nhân dân, phục vụ cho xây dựng xã hội chủ nghĩa. Thầy thuốc tây phải học đông y, thầy thuốc ta cũng phải học thuốc tây… Thầy thuốc ta và thầy thuốc tây đều phục vụ nhân dân, như có hai tay cùng làm việc thì làm việc được tốt. Cho nên phải đoàn kết từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên, đoàn kết thuốc ta và thuốc tây thành một khối để chữa bệnh cho đồng bào”.

Với cách nhìn nhận của Bác Hồ thì đông y và tây y không phải là hai mặt mâu thuẫn với nhau mà có sự thống nhất chặt chẽ với nhau, hỗ trợ cho nhau. Chúng ta quan niệm đầy đủ rằng phải kết hợp y dược học cổ truyền với y dược học hiện đại, phải hiện đại hóa y dược học cổ truyền nhưng không làm mất bản sắc y dược học dân tộc. Chúng ta luôn luôn ý thức y dược học cổ truyền là một thế mạnh của nước ta. Để xây dựng một nền y học hiện đại tiến kịp với nền y học nhân loại, chúng ta phải khai thác, phát huy sức mạnh của y dược học cổ truyền; khai thác, phát huy cái phong phú, cái tài tình, cái còn đang tiềm ẩn của y học cổ truyền.

Quan điểm về y tế dự phòng

Trong công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến vấn đề y học dự phòng. Bác Hồ nói “Phòng bệnh cũng cần thiết như chữa bệnh”. Có lúc Người còn nói “Phòng bệnh hơn trị bệnh”. Quan điểm về y học dự phòng của Chủ tịch Hồ Chí Minh rất toàn diện. Để chống lại bệnh tật, ốm đau, Người đặc biệt quan tâm từ những vấn đề rất nhỏ về vệ sinh môi trường như nước sạch, hố xí vệ sinh, diệt ruồi, muỗi. Người nhấn mạnh “Vệ sinh là yêu nước”. Ở đây khái niệm “vệ sinh” của Người bao hàm rất rộng, rất đầy đủ. Người thường xuyên nhắc nhở toàn dân phải giữ gìn vệ sinh. Người nói: “Mọi người từ già trẻ, trai gái đã là người dân yêu nước đều phải quan tâm đến vấn đề vệ sinh, giữ gìn sức khỏe”. Trong 5 lời dạy của Bác Hồ với thiếu niên, nhi đồng. Bác cũng nói: “Yêu tổ quốc và yêu đồng bào, Học tập tốt và lao động tốt. Đoàn kết tốt và kỷ luật tốt. Giữ gìn vệ sinh thật tốt. Khiêm tốn, thật thà và dũng cảm”.

Ngay trong thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, trước những công việc cấp bách, bộn bề; Người vẫn nghĩ đến xây dựng “Đời sống mới” cho toàn dân. Trong nội dung của “Đời sống mới”, Người viết “Sạch sẽ là một phần của đời sống mới, sạch sẽ thì dân ít ốm, khỏe mạnh thì làm được việc, làm được việc thì có ăn, xem đó thì biết rằng ai cũng nên làm đời sống mới”.

Trong quan điểm y học dự phòng của Chủ thịch Hồ Chí Minh, Người đặc biệt quan tâm đến vấn đề nâng cao thể lực của con người. Đây chính là phương châm y học dự phòng tích cực và chủ động nhất. Bác Hồ vận động toàn dân phải thường xuyên vận động cơ thể, tập thể dục để nâng cao sức khỏe. Khi khuyên đồng bào tập thể dục, Bác Hồ nói, vị Chủ tịch nước cũng xin hứa “Tự tôi ngày nào tôi cũng tập”. Không những tập thể dục mà Người còn tập tắm nước lạnh, trèo núi, đánh bóng chuyền, tập võ… Có thể nói Bác Hồ cũng chính là một mẫu mực của ý chí rèn luyện về mọi mặt.

Ngày nay, khi đất nước ta chuyển sang thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa; nhiều thách thức lớn đang đặt ra cho công tác chăm sóc sức khỏe và bảo vệ sức khỏe nhân dân thì vai trò của y học dự phòng càng trở nên đặc biệt quan trọng. Không những chúng ta vẫn phải ngăn chặn, đề phòng những bệnh tật của mô hình một nước kém phát triển như các bệnh nhiễm khuẩn, tả, lỵ, thương hàn, sốt rét… mà còn phải đặt ra vấn đề phòng chống các bệnh ung thư, tim mạch, AIDS, bệnh nghề nghiệp, bệnh do tệ nạn xã hội… là mô hình bệnh tật của các nước phát triển.

Quan điểm về đạo đức của của người thầy thuốc

Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đạo đức của người thầy thuốc là “lương y phải như từ mẫu” nghĩa là “thầy thuốc phải như mẹ hiền”. Đây là vấn đề cốt lõi trong tư tưởng của Người về y đức. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nghề thầy thuốc là một nghề đặc biệt, nó trực tiếp quan hệ đến sức khỏe, đến tính mệnh của con người. “Thầy thuốc phải như mẹ hiền” là một đòi hỏi khách quan trong việc thực hành y nghiệp. Vì tính chất của nghề nghiệp mà người thầy thuốc phải giàu lòng nhân ái, chẳng những có nhiệm vụ cứu chữa bệnh tật mà còn phải nâng đỡ tinh thần người bệnh, yêu thương người bệnh và săn sóc họ như anh em ruột thịt của mình, coi họ đau đớn như mình đau đớn. Người thầy thuốc phải lấy người bệnh là trung tâm, coi cứu người bệnh là mục đích hành đạo.

Hải Thượng Lãn ông cũng quan niệm người thầy thuốc phải nhiệt tình, không kể sang hèn, không kể giàu nghèo, phải tôn trọng người bệnh, không được cầu lợi, kể công, không được “đem nhân thuật để làm chước dối lừa, đem lòng nhân đổi ra lòng mua bán”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm vấn đề quyết định y đức của người thầy thuốc là lương tâm đạo đức, là trách nhiệm bổn phận của người thầy thuốc “Người bệnh phó thác tính mệnh của họ nơi các cô, các chú. Chính phủ phó thác cho các cô, các chú việc chữa bệnh tật và giữ gìn sức khỏe cho đồng bào. Đó là nhiệm vụ rất vẻ vang”. Người còn dặn dò các y tá “y tá chẳng những là một nghề nghiệp, mà là một nghĩa vụ. Người y tá chẳng những chữa bệnh mà còn phổ biến vệ sinh. Việc giữ gìn, bồi dưỡng sức khỏe của dân tộc, người y tá phải gánh một phần quan trọng. Vì vậy, y tá là những chiến sĩ đành giặc ốm, bảo vệ sự khang kiện của giống nòi. Những chiến sĩ y tá phải có chí chịu khổ, chịu khó, phải giàu lòng bác ái, hy sinh”. Theo Người nhân ái hay bác ái là nét nổi bậc trong nhân cách của người thầy thuốc, một nền y học tiến bộ phải tồn tại trên cái nền của lòng nhân ái.

Ngày nay, trong bối cảnh mới của đất nước, vấn đề y đức cũng đang được đặt ra như một vấn đề bức xúc. Sự chuyển đổi từ một nền y tế bao cấp sang một nền y tế trong cơ chế thị trường, những tác động tiêu cực của nó ảnh hưởng không nhỏ đến vấn đề giữ gìn đạo đức, phẩm chất của người thầy thuốc. Khi đồng tiền được đặt ra giữa người thầy thuốc và bệnh nhân. Khi người bệnh đến bệnh viện có nhiều phương thức trả tiền trong những điều kiện đời sống của những người thầy thuốc còn nhiều khó khăn, đồng lương còn chưa đủ ăn thì những tác động tiêu cực cũng đã làm không ít thầy thuốc bị xói mòn lương tâm đạo đức; đồng tiền, quà cáp đang làm thay đổi tiêu chí đối xử đối với bệnh nhân.

Nhận rõ tính bức xúc trên đây, trong thời gian qua ngành y tế bằng nhiều biện pháp đã đặc biệt quan tâm đến vấn đề xây dựng y đức, với quyết tâm càng ngày càng nâng cao hơn nữa lòng tin của nhân dân đối với ngành y tế. Bộ Y tế đã có chỉ thị về vấn đề y đức và chỉ thị đó dần dần đi vào thực tiễn và trở thành hành động của các nhân viên y tế. Bộ Y tế cũng đã ban hành 12 điều quy định về y đức. Có thể nói rằng 12 điều quy định này đã được dư luận rộng rãi nhân dân trong cả nước đồng tình và ủng hộ. Ở trong ngành y tế đã và đang có những đợt sinh hoạt chính trị rộng rãi để quán triệt, tổ chức thực hiện 12 điều quy định về y đức.

Những nội dung trọng tâm của 12 điều y đức là những quy định về tinh thần trách nhiệm, thái độ của người thầy thuốc đối với bệnh nhân, thái độ niềm nở, tận tình, khẩn trương tổ chức khám chữa, tôn trọng bệnh nhân không phân biệt giàu nghèo. Trong điều trị phải tận tình, chu đáo, luôn luôn có mặt ở vị trí công tác, theo dõi chặt chẽ, xử lý kịp thời các tình huống, phải thực hiện được điều như Cố Bộ trưởng Bộ Y tế Phạm Ngọc Thạch đã nói: “Đến, niềm nở tiếp đón. Ở, tận tình chăm sóc. Đi, ân cần dặn dò”.

Đối với đồngnghiệp phải tôn trọng, cộng tác, thân ái giúp đỡ lẫn nhau. Khiêm tốn học hỏi kinh nghiệm nghề nghiệp của nhau, sẵn sàng chuyển giao kiến thức và kinh nghiệm cho người khác.

Đối với nghề nghiệp, phải ra sức phấn đấu cho sự nghiệp chăm sóc sức khỏe nhân dân, có lòng yêu nghề sâu sắc, có lương tâm nghề nghiệp cao, không ngừng học tập và nghiên cứu khoa học để nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật, xứng đáng là người thầy thuốc của nhân dân, vì nhân dân.

Ngoài lời dạy phải thương yêu người bệnh “Lương y phải như từ mẫu”, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn nhấn mạnh giáo dục đạo đức cho người thầy thuốc là “trước hết phải thật thà đoàn kết…” Bác Hồ nói “Đoàn kết giữa cán bộ cũ và cán bộ mới, đoàn kết giữa tất cả những người trong ngành y tế từ các Bộ trưởng, Thứ trưởng, Bác sĩ, Dược sĩ cho đến các chị em giúp việc. Bởi vì công việc và địa vị tuy có khác nhau nhưng người nào cũng là một bộ phận cần thiết trong ngành y tế, trong việc phục vụ nhân dân”

Toàn đảng, toàn quân, toàn dân ta đã và đang triển khai thực hiện cuộc vận động học tập, làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Đối với vấn đề y đức, những người làm công tác y tế cần phải tích cực học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Người từ những quan điểm về sức khỏe, y tế, y học và đạo đức của người thầy thuốc đã nêu trên.

Ngày 24/02/2011
TTƯT.BS. Nguyễn Võ Hinh

nhoNguoicha

Tư tưởng Hồ Chí Minh về y đức

Chủ tịch Hồ Chí Minh trò chuyện với GS. Trần Hữu Tước và Bộ trưởng Phạm Ngọc Thạch (người ngồi bên trái). Ảnh: TL - suckhoedoisong.vn

Những lời dạy của Bác Hồ về y đức là nội dung quan trọng trong tư tưởng và đạo đức của Người. Trong 20 năm, từ 1947 đến 1967, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có tới 25 bức thư gửi ngành y tế, thương binh – xã hội. 

Ngoài những lời khuyên về công tác chăm sóc, cứu chữa cho người bị bệnh, người bị thương, Người đặc biệt quan tâm đến y đức, cái đạo đức cần phải có của người thầy thuốc cách mạng, vì dân.

Tháng 3-1948, trong thư gửi Hội nghị Quân y, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Người thầy thuốc chẳng những có nhiệm vụ cứu chữa bệnh tật mà còn phải nâng đỡ tinh thần những người ốm yếu”.

Vì sự kích thích trong chiến trận, vì sự sinh hoạt khắc khổ trong quân đội, vì sự tu dưỡng chưa đầy đủ, hoặc vì những điều kiện khổ sở, một số anh em quân nhân không được trấn tĩnh, đối với thầy thuốc không được nhã nhặn. Gặp những ca như vậy, chúng ta nên lấy lòng nhân loại và tình thân ái mà cảm động, cảm hoá họ. Người ta có câu: “Lương y như từ mẫu”, nghĩa là một người thầy thuốc đồng thời phải như một người mẹ hiền…”

Trong thư gửi Hội nghị cán bộ y tế toàn quốc năm 1953, Người viết: “… Cán bộ y tế (bác sĩ, y tá, những người giúp việc) cần phải: Thương yêu người bệnh như anh em ruột thịt. Cần phải tận tâm tận lực phụng sự nhân dân. Lương y như từ mẫu”…

Với tinh thần nhân văn cao cả, lòng nhân hậu hết mực, Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong thư gửi Hội nghị cán bộ y tế, tháng 2-1955, đã nhấn mạnh: “… Người bệnh phó thác tính mệnh của họ nơi các cô, các chú. Chính phủ phó thác cho các cô, các chú việc chữa bệnh tật và giữ sức khoẻ cho đồng bào. Đó là một nhiệm vụ rất vẻ vang.

Vì vậy, cán bộ cần phải thương yêu, săn sóc người bệnh như anh em ruột thịt của mình, coi họ đau đớn cũng như mình đau đớn”.

“Lương y như từ mẫu”, câu nói ấy rất đúng…”

Nội dung của y đức được Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định đầy đủ nhất, sâu sắc nhất và chuẩn xác nhất trong bức thư này.

Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chăm lo cho hạnh phúc của nhân dân, trong đó, những người đau ốm, bệnh tật là những người được Người quan tâm nhất.

Trong thư gửi cán bộ và nhân viên quân y ngày 31 tháng 7 năm 1967, Chủ tịch Hồ Chí Minh ân cần căn dặn: “Bác nhắc nhủ các cô, các chú phải:

Đoàn kết chặt chẽ, nêu cao tinh thần tập thể, thi đua học tập và công tác để tiến bộ không ngừng về chính trị, tư tưởng, về chuyên môn kĩ thuật.

Luôn luôn ghi nhớ rằng, người thầy thuốc giỏi, đồng thời phải là người mẹ hiền, hết lòng hết sức cứu chữa và phục vụ thương binh, bệnh binh, tích cực nâng cao sức khoẻ của bộ đội, góp phần cùng toàn quân, toàn dân đẩy mạnh sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước đến thắng lợi hoàn toàn…”

Tư tưởng Hồ Chí Minh về y đức đã được ngành y tế nước ta từng thời điểm cụ thể hoá, và trở thành nền tảng đạo lí của mọi thầy thuốc, là cốt lõi tư tưởng của mọi hoạt động xây dựng và phát triển ngành y tế.

Mấy chục năm qua, tuân theo lời dạy về y đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhiều tấm gương làm việc quên mình, xả thân vì người bệnh, vì sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ nhân dân như các giáo sư, bác sĩ Phạm Ngọc Thạch, Tôn Thất Tùng, Đặng Văn Ngữ… đã trở thành niềm tự hào của ngành y tế, được nhân dân quý trọng và ngưỡng mộ.

Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, một số tiêu cực của nền kinh tế thị trường đã ảnh hưởng không ít đến một số người làm công tác y tế. Một số ít thầy thuốc, cán bộ y tế cửa quyền, tắc trách, thậm chí chạy theo đồng tiền, coi thường sức khoẻ, mạng sống của người bệnh, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với thiên chức cao cả “trị bệnh cứu người” của người thầy thuốc.

Hơn lúc nào hết, những người thầy thuốc và mọi cán bộ, nhân viên y tế phải chủ động rèn luyện, nâng cao trình độ chuyên môn, tu dưỡng y đức theo tư tưởng Hồ Chí Minh góp phần bảo đảm tốt nhất chất lượng khám chữa bệnh, chăm sóc sức khoẻ nhân dân, xứng đáng với truyền thống “Thầy thuốc như mẹ hiền”, xứng đáng với lòng tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân.n

Tác giả: Nguyễn Xuyến

nguoicaotuoi.org.vn

Thư của Bác Hồ gửi ngành y tế – 27/02/1955

Bác Hồ với cán bộ y tế

Gửi Hội nghị Cán bộ Y tế

Bác thân ái chúc các cô (nghe nói có nữ bác-sĩ ở Nam về?) các chú vui vẻ mạnh khỏe, hăng hái trao đổi kinh nghiệm, bàn định kế hoạch cho thiết thực, và làm việc cho tiến bộ.

Bác góp vài ý kiến sau đây để giúp các cô các chú thảo luận:

– Trước hết là phải thật thà đoàn kết. Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta. Đoàn kết thì vượt được mọi khó khăn, giành được nhiều thành tích. Đoàn kết giữa cán bộ cũ và cán bộ mới. Đoàn kết giữa tất cả những người trong ngành y tế từ các bộ trưởng, thứ trưởng, bác sĩ, dược sĩ cho đến các anh chị em giúp việc. Bởi vì công việc và địa vị tuy có khác nhau, nhưng người nào cũng là một bộ phận cần thiết trong ngành y tế, trong việc phục vụ nhân dân.

– Thương yêu người bệnh. Người bệnh phó thác tính mệnh của họ nơi các cô các chú. Chính phủ phó thác cho các cô các chú việc chữa bệnh tật và giữ sức khỏe của đồng bào. Đó là một nhiệm vụ rất vẻ vang. Vì vậy, cán bộ cần phải thương yêu săn sóc người bệnh như anh em ruột thịt của mình, coi họ đau đớn cũng như mình đau đớn. “Lương y phải như từ mẫu”, câu nói ấy rất đúng.

-Xây dựng một nền y học của ta. Trong những năm nước ta bị nô lệ, thì y học cũng như các ngành khác đều bị kìm hãm. Nay chúng ta đã độc lập tự do, cán bộ cần giúp đồng bào, giúp Chính phủ xây dựng một nền y tế thích hợp với sự nhu cầu của nhân dân ta. Y học càng phải dựa trên nguyên tắc: khoa học, dân tộc và đại chúng.

Ông cha ta ngày trước có nhiều kinh nghiệm quý báu về cách chữa bệnh bằng thuốc ta, thuốc bắc. Để mở rộng phạm vi y học, các cô các chú cũng nên chú trọng nghiên cứu và phối hợp thuốc “đông” và thuốc “tây”.

Mong các cô các chú cố gắng thi đua, làm tròn nhiệm vụ.
Chào thân ái và thành công.

Tháng 2 – 1955
HỒ CHÍ MINH

trungtamsuckhoesinhsan.vn

Ngành Y tế học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh

Chủ tịch Hồ Chí Minh trò chuyện với GS. Trần Hữu Tước và Bộ trưởng Phạm Ngọc Thạch (người ngồi bên trái). Ảnh: TL - suckhoedoisong.vn

Ngày 27-2-1955, Bác Hồ gửi thư cho Hội nghị cán bộ ngành y tế toàn quốc, thư Bác là lời căn dặn, động viên toàn thể cán bộ ngành y tế vươn lên hoàn thành nhiệm vụ.

Trong thư Người đề xuất những tư tưởng, quan điểm về sức khỏe, chỉ đạo xây dựng và định hướng phát triển ngành y tế Việt Nam. Người nhắc nhở: “Người bệnh phó thác tính mệnh của họ nơi các cô, các chú. Chính phủ phó thác cho các cô, các chú việc chữa bệnh tật và giữ sức khoẻ cho đồng bào. Đó là một nhiệm vụ rất vẻ vang”, đồng thời Người cũng dặn dò “Những chiến sỹ y tá phải có chí, chịu khổ, chịu khó, phải giàu lòng bác ái, hy sinh”. Theo Người, nhân ái hay bác ái là nét nổi bật trong nhân cách người thầy thuốc, một nền y học tiến bộ phải tồn tại trên lòng nhân ái.

Thấm nhuần tư tưởng và quan điểm chỉ đạo của Người, 56 năm qua các thế hệ thầy thuốc Việt Nam đã góp phần công sức của mình vào sự nghiệp đấu tranh, giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ngày nay, trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đòi hỏi mỗi người dân Việt Nam phải nỗ lực phấn đấu, học tập vươn lên hoàn thành nhiệm vụ được giao. Ngành y tế cả nước cũng như ngành y tế Bắc Ninh đang từng ngày, từng giờ phấn đấu vươn lên đưa kiến thức khoa học và kỹ thuật, công nghệ mới vào áp dụng tại các đơn vị để làm tốt hơn công tác khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe nhân dân.

Năm 2010, ngành y tế Bắc Ninh đã làm tốt công tác y tế dự phòng, kiểm soát dịch bệnh một cách có hiệu quả, nhiều bệnh dịch nguy hiểm đã được khống chế và đẩy lùi; ngành y tế đã triển khai các biện pháp dự phòng tích cực, thiết lập, duy trì hệ thống giám sát và xử lý kịp thời dịch bệnh. Công tác kiểm tra VSATTP được tăng cường từ tỉnh đến cơ sở, tỷ lệ trẻ em dưới 1 tuổi được tiêm chủng đầy đủ đạt trên 98%, tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi giảm xuống dưới 17%. Các trạm y tế cơ sở được củng cố, 100% số xã, phường, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về y tế và có bác sỹ công tác.

Chất lượng khám chữa bệnh được nâng lên một bước, tỷ lệ giường bệnh/vạn dân đạt 20,5. Bệnh viện Đa khoa (BVĐK) tỉnh được đầu tư xây dựng với quy mô 1000 giường và được đầu tư trang thiết bị hiện đại như máy CT-Scanner, hệ thống chạy thận nhân tạo, máy tán sỏi ngoài cơ thể, các trang thiết bị của dự án ODA Tây Ban Nha…; đã được Bộ Y tế quyết định là Bệnh viện vệ tinh của bệnh viện Việt Đức, Bệnh viện Bạch Mai. Các Bệnh viện tuyến Trung ương đã chuyển giao nhiều kỹ thuật mới cho BVĐK tỉnh và các bệnh viện chuyên khoa theo đề án 1816…

Hệ thống dân số- KHHGĐ từ tỉnh đến cơ sở tiếp tục được củng cố, triển khai chiến dịch truyền thông lồng ghép cung cấp dịch vụ KHHGĐ đến 100% số xã, phường, thị trấn trong tỉnh; tỷ lệ tăng dân số tự nhiên còn 11,5%o.

Năm 2011, ngành tiếp tục thực hiện một số nhiệm vụ trọng tâm: Dự phòng chủ động, giám sát dịch chặt chẽ, khống chế dập dịch và điều trị kịp thời, không để dịch lan rộng và người mắc bệnh dịch tử vong. Tiêm chủng đầy đủ miễn dịch cơ bản cho trẻ đạt trên 98%.

Xây dựng chiến lược Dân số giai đoạn 2011-2020, phấn đấu đạt tỷ lệ giảm sinh 0,3%o, nâng cao chất lượng dân số, giảm tỷ lệ sinh con thứ 3 trên 1%, giảm tỷ lệ mất cân bằng giới tính khi sinh. Triển khai thực hiện chuẩn quốc gia y tế giai đoạn 2011-2020, kiên cố hóa trạm y tế xã, thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII đề ra.

Tiếp tục thực hiện quy hoạch phát triển ngành đến năm 2020, đưa ngành y tế Bắc Ninh đáp ứng nhu cầu chăm sóc bảo vệ sức khỏe ngày càng cao của người dân. Hoàn thành tiếp nhận viện trợ ODA trang thiết bị của chính phủ Tây Ban Nha cho BVĐK tỉnh, triển khai dự án “Nâng cao năng lực hệ thống y tế” do EU tài trợ. Đẩy mạnh công tác VSATTP, tăng cường truyền thông phối hợp liên ngành, tập huấn, giám sát, thanh kiểm tra không để các vụ ngộ độc lớn xảy ra trên địa bàn tỉnh. Công tác bảo vệ sức khỏe lao động – môi trường được chú trọng, thực hiện việc kiểm tra giám sát môi trường lao động, bệnh nghề nghiệp, tiến tới quản lý sức khỏe người lao động trong đó có sức khỏe lao động y tế. Tiếp tục tập trung đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị các BVĐK huyện, BVĐK tỉnh, BV Lao và bệnh phổi, BV Tâm thần. Đào tạo nâng cao năng lực đội ngũ chuyên môn, đội ngũ cán bộ quản lý, thực hiện Nghị định 43 của Chính phủ và các Thông tư hướng dẫn, giao quyền tự chủ cho các đơn vị, chuẩn hóa công tác xây dựng kế hoạch (việc, người, tiền), tăng cường quản lý chất lượng bệnh viện và các đơn vị, đáp ứng nhu cầu cung ứng dịch vụ của người dân.

Thực hiện nghiêm Luật Đấu thầu và các văn bản hướng dẫn, đảm bảo cung ứng thuốc, hóa chất, vật tư kịp thời với chất lượng và giá cả phù hợp. Triển khai thực hiện Luật KCB ở các đơn vị công lập và ngoài công lập, đẩy mạnh xã hội hóa công tác y tế, tranh thủ mọi nguồn lực để phát triển.

Thực hiện công tác thi đua khen thưởng, biểu dương gương người tốt tại đơn vị, học tập và làm theo ở đơn vị, cần phân công nhiệm vụ cụ thể đến từng người lao động, căn cứ vào mức độ hoàn thành của từng người mà đánh giá việc làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, đạo đức người thầy thuốc, quy tắc ứng xử của ngành.

Đào tạo cán bộ chuyên khoa, chuyên ngành, chuyên sâu, đào tạo tại tỉnh, đào tạo tại các đơn vị trung ương, chuyển giao kỹ thuật theo Đề án 1816, việc sử dụng cán bộ chuyên môn hợp lý sau đào tạo, cải thiện môi trường làm việc cho người lao động, phấn đấu tăng thu nhập, thực hiện công bằng, công khai, dân chủ, tăng cường giám sát, kiểm tra, kịp thời điều chỉnh phát sinh tại các đơn vị.

Bước sang năm 2011, năm đầu thực hiện Quy hoạch phát triển ngành, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm (2011-2015) của tỉnh và cả nước, cán bộ, công nhân, viên chức và người lao động ngành y tế tiếp tục học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, giữ vững đạo đức người thầy thuốc, thực hiện lời dạy của Người “Thầy thuốc như mẹ hiền”.

Nguyễn Phương Thược

baobacninh.com.vn

Ngành Y tế học tập và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh về y đức

Chủ tịch Hồ Chí Minh trò chuyện với GS. Trần Hữu Tước và Bộ trưởng Phạm Ngọc Thạch (người ngồi bên trái). Ảnh: TL - suckhoedoisong.vn

Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn hướng tới một chủ nghĩa nhân văn cao cả và trong sáng. Điều đó đã trở thành hoài bão, là mục tiêu và động lực chiến đấu kiên cường và bất khuất của Người. Mục tiêu lý tưởng của chủ nghĩa nhân văn Chủ tịch Hồ Chí Minh là giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và đi đến giải phóng triệt để con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng con người là gốc của mọi công việc. Mối quan tâm lớn nhất, xuyên suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh là vấn đề con người và sự phát triển con người một cách toàn diện, trong đó xem sức khỏe là vốn quý nhất. Người đưa ra những tư tưởng, quan điểm về sức khỏe, về xây dựng và phát triển ngành Y tế Việt Nam từ những tinh túy văn hóa dân tộc và nhân loại. Trong hệ thống các quan điểm đó, vấn đề về y đức được Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm. Tư tưởng y đức của Người là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình chỉ đạo xây dựng và phát triển nền y học nước ta.

Dân tộc Việt Nam đã trải qua mấy ngàn năm lịch sử, đã tích lũy được rất nhiều tri thức và kinh nghiệm về nhiều lĩnh vực, trong đó có những tri thức bảo vệ sức khỏe, duy trì và phát triển nòi giống và đã sản sinh ra nhiều danh y nổi tiếng. Tiêu biểu nhất cho các danh y dân tộc là hai đại danh y Tuệ Tĩnh (thế kỷ XIII) và Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác (thế kỷ XVIII). Các danh y đã để lại cho hậu thế của dân tộc một khối lượng tri thức phong phú về y lý, y đức, y thuật và những bài thuốc quý. Cũng trong quá trình xây dựng nền y học dân tộc, các danh y của ta đã khẳng định yếu tố cơ bản, yếu tố gốc của người thầy thuốc là y đức. Làm nghề y là theo phương châm trị bệnh cứu người. Con người phải được đối xử bình đẳng trong chữa trị bệnh.

Sau hơn 20 năm đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã lãnh đạo nhân dân ta giành được nhiều thành tựu kinh tế – xã hội. Tuy nhiên, chúng ta cũng đang đứng trước những thời cơ và thách thức mới, đó là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều ưu điểm nhưng những tác động tiêu cực của nó cũng ảnh hưởng không nhỏ đến vấn đề giữ gìn phẩm chất đạo đức của người thầy thuốc. Trước thực trạng đó, dưới ánh sáng của nghị quyết các Đại hội Đảng và vận dụng tư tưởng y đức Hồ Chí Minh, ngành Y tế đã tích cực nhạy bén, chủ động đề ra “Định hướng chiến lược công tác chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân đến năm 2010 và 2020” và đề ra các quy định về y đức và tiêu chuẩn nâng cao y đức, cùng các vấn đề liên quan đến xây dựng và hoàn thiện nhân cách người thầy thuốc trong giai đoạn hiện nay. Đây là những công việc thật hợp lòng dân. Trong phạm vi chuyên đề này, chúng ta cùng chia sẻ với nhau về việc ngành Y tế học tập và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh về y đức.

Không có nghề nào lại đi vào đời sống con người một cách sâu sắc và cấp thiết như nghề y, nó đi liền với sự xuất hiện con người và chắc chắn sẽ tồn tại cho đến khi không còn sự sống của loài người trên trái đất này. Cũng không có nghề nào như nghề y mà một lỗi lầm hay một thiếu sót dù nhỏ lại có thể gây nên những tác hại lớn đến sức khỏe và thậm chí đến tính mạng của con người, mà người người mắc lỗi có khi không còn cơ hội sửa chữa, khắc phục được nữa. Đã từ lâu, người ta đã coi nghề y là một nghề quan trọng, đặc biệt, một nghề nhân đạo có quan hệ đến đời sống và tính mạng con người, đến hạnh phúc của từng gia đình, tương lai nòi giống, đến sức khỏe và sự cường thịnh của một dân tộc, của toàn xã hội.

Chính vì vị trí đặc biệt của ngành y, mà hàng ngàn năm trước Công Nguyên, lúc xã hội còn phụ thuộc vào thần quyền, tôn giáo, cả dưới các chế độ nô lệ, phong kiến và tư bản, loài người từ Đông sang Tây đã nêu cao vấn đề y đức. Những lời thơ dân gian, những đạo luật, những điều thuyết giảng trong tôn giáo, những phần thưởng và hình phạt, những điều răn trong triết học và những lời thề của thầy thuốc, những lời dạy của các bậc danh y, những tiêu chuẩn, quy chế và luật pháp về y đức trong hành nghề y, dược… đã được sử dụng trong các thời đại khác nhau để giáo dục và bảo đảm giữ gìn đạo đức người thầy thuốc.

Hippocrate, Ông tổ nghề Y, 377 năm trước Công nguyên đã nêu lên những nội dung cụ thể về y đức trong lời thề mà đến nay từ thầy giáo đến các học sinh trường y, từ bác sĩ đến các nhân viên điều dưỡng, hộ lý đều ghi nhớ:

– “Tôi sẽ cho chế độ ăn uống có lợi cho bệnh nhân phù hợp với bệnh trạng, thể theo quyền hạn và suy xét của tôi, tôi sẽ không cho thuốc giết người, nếu có ai yêu cầu và cũng không khởi xướng một gợi ý như vậy”.

– “Tới nhà ai, tôi cũng chỉ vì quyền lợi của bệnh nhân, sẽ tránh tất cả mọi hành động đồi bại và nhất là những cử chỉ lả lơi trên thân thể nữ giới cũng như nam giới, bất kể người đó là người tự do hay nô lệ”.

– “Những điểm liên quan đến đời sống của người khác, đáng phải bảo mật, mà trong phạm vi hay ngoài phạm vi nghề nghiệp, tôi nhìn thấy hay nghe thấy, tôi sẽ không bao giờ thổ lộ”.

Ở Việt Nam, các bậc danh y như Tuệ Tĩnh, Hải Thượng Lãn Ông đã có những di huấn về y đức quý báu để lại. Hơn 200 năm trước đây, ở nước ta, đại danh y Hải Thượng Lãn Ông đã từng nói: “Suy nghĩ sâu xa, tôi hiểu rằng thầy thuốc là người bảo vệ tính mạng con người: sống chết trong tay mình nắm, phúc họa trong một tay mình giữ. Thế thì đâu có thể kiến thức không đầy đủ, đức hạnh không trọn vẹn, tâm hồn không rộng lớn, hành vi không thận trọng mà dám liều lĩnh học đòi cái nghề cao quý đó chăng!”. Ông đã nêu lên chín điều răn dạy rất cụ thể và sâu sắc mà thầy thuốc thường gặp, đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Cố giáo sư Hồ Đắc Di, một trong những thầy thuốc tiêu biểu của ngành Y tế Việt Nam đã nói với nhiều lớp học viên ngành y: “Trong mọi nghề, có lẽ nghề thầy thuốc và nghề thầy giáo là hai nghề cao thượng nhất: một mang lại sự sống, một mang lại trí tuệ. Cả hai đều đòi hỏi lương tâm trong sáng”.

Kế thừa truyền thống y đức của ông cha ta, tiếp thu tinh hoa y đức nhân loại, trên cương vị là lãnh tụ kính yêu của dân tộc và một nhà văn hóa lớn, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng việc trau dồi, rèn luyện y đức – đạo đức của người thầy thuốc, người cán bộ y tế.

Chủ tịch Hồ Chí Minh là một trong những lãnh tụ cách mạng bàn nhiều nhất về đạo đức. Nếu như mọi người đều có thể tìm thấy trong di sản Chủ tịch Hồ Chí Minh những quan điểm, tư tưởng đạo đức phù hợp với mình thì cán bộ, nhân viên ngành y, nhận rõ điều đó nhất. Có thể nói, sau đạo đức của người cán bộ cách mạng nói chung, đạo đức ngành Y được Chủ tịch Hồ Chí Minh bàn đến nhiều nhất, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tặng cán bộ, nhân viên ngành Y danh hiệu cao quý và đẹp đẽ nhất: “Thầy thuốc phải như mẹ hiền”. Đây chính là yêu cầu Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt ra trong phương châm xử thế, phương châm hành động và phục vụ của các bộ và nhân viên ngành y đối với người bệnh.

Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, trong những bức thư gửi Trường Quân y năm 1946, Hội nghị Quân y năm 1948, Trường y tá Liên khu I năm 1949, Hội nghị Y tế toàn quốc năm 1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nhấn mạnh đến trách nhiệm, nghĩa vụ và tình thương, lòng bác ái, hy sinh, sự tận tâm phục vụ, tinh thần đoàn kết học tập tiến bộ và ý thức kỷ luật của cán bộ, nhân viên ngành Y.

Cùng với tư tưởng về y đức, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết trong Thư gửi Hội nghị cán bộ y tế tháng 2-1955: “Cán bộ cần phải thương yêu, săn sóc người bệnh như anh em ruột thịt của mình, coi họ đau đớn cũng như mình đau đớn. “Lương y phải như từ mẫu”, câu nói ấy rất đúng”.

Trong tình thương yêu, có lẽ không có tình thương yêu nào đầm ấm, sâu sắc bằng tình thương của người mẹ. Trong cuộc sống, không có mối tình nào so sánh được với tình mẫu tử. Người thầy thuốc tận tâm, tận lực cứu sống những người bệnh thập tử nhất sinh cũng được coi như người mẹ tái sinh cuộc sống cho họ.

Từ tấm lòng lương y như từ mẫu mà nảy sinh ra những đức tính cần thiết của người cán bộ y tế như niềm nở, dịu dàng trong tiếp xúc, tận tình, cẩn trọng, chu đáo khi chăm sóc, ân cần, tỉ mỉ lúc dặn dò và trong những trường hợp khó khăn, nguy kịch thì sẵn sàng chịu khó, chịu khổ, hy sinh, quên mình để làm tròn phận sự cứu người. Có tình thương của người mẹ hiền thì người thầy thuốc tránh được những thói xấu như cầu lợi, kể công, phân biệt đối xử giữa giàu, nghèo, sang, hèn, hách dịch, lạnh lùng khi tiếp xúc, qua loa, tắc trách trong phục vụ, đố kỵ, kèn cựa với đồng nghiệp… “Thầy thuốc như mẹ hiền” là cốt lõi của đạo đức ngành y.

Điều làm cho những lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh có sức thuyết phục và sức cảm hóa rất mạnh là vì Người đã nêu tấm gương sáng chói nhất trong lịch sử nước ta về lòng thương yêu vô hạn đối với nhân dân, về đức hy sinh cao cả, hiến dâng trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng Tổ quốc, mưu độc lập, tự do và hạnh phúc cho dân tộc. Đó là bác sĩ Phạm Ngọc Thạch, người Bộ trưởng Y tế đáng kính, chỗ nào có dịch, có bệnh là Ông tìm đến. Phạm Ngọc Thạch đã vượt qua bom đạn, rừng núi vào tận chiến trường với quyết tâm tìm ra phương thức, cách chữa đạt hiệu quả cao đối với đồng bào, chiến sĩ miền Nam và Ông đã hy sinh trên chiến trường ngày 7/11/1968 trong khi thực hiện sứ mệnh cao cả đó. Đó là Giáo sư Tôn Thất Tùng với hai “bàn tay vàng” đã cứu sống biết bao nhiêu người, bằng phương pháp mổ gan không chảy máu nổi tiếng trên thế giới. Đó còn là Giáo sư Đặng Văn Ngữ, người thầy thuốc có công to lớn trong công cuộc chống sốt rét ở nước ta thời chống Pháp và chống Mỹ. Không chỉ bộ trưởng, giáo sư nổi tiếng mới thấm nhuần và hành động theo tư tưởng y đức Chủ tịch Hồ Chí Minh mà trong y tá, hộ lý cũng xuất hiện những người tiêu biểu về y đức, được chính Chủ tịch Hồ Chí Minh ghi nhận, khen ngợi.

Trên cơ sở học tập, quán triệt tư tưởng “Thầy thuốc như mẹ hiền”, từ kinh nghiệm phục vụ ở các cơ sở khám, chữa bệnh, cố Bộ trưởng Phạm Ngọc Thạch đã nêu lên ba yêu cầu ngắn gọn, để cán bộ, nhân viên dễ nhớ, dễ làm theo là:

– Đến, tiếp đón niềm nở,

– Ở, chăm sóc tận tình

– Đi, dặn dò ân cần.

Năm 1979, quán triệt lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Thầy thuốc phải như mẹ hiền”, Bộ Y tế đã đề ra năm tiêu chuẩn người cán bộ y tế nhân dân để cán bộ, nhân viên toàn ngành dựa vào đó tự rèn luyện và giúp đỡ nhau tiến bộ.

Năm 1982, trong Chỉ thị “Về thực hiện chế độ tự phê bình và phê bình hằng năm theo thư của Hồ Chí Minh”, Bộ Y tế còn nêu rõ những yêu cầu cụ thể về lòng “thương yêu người bệnh” cho từng loại cán bộ, nhân viên ở các lĩnh vực công tác khác nhau, để việc liên hệ, kiểm điểm và rèn luyện được dễ dàng. Chỉ thị nêu lên những việc cần làm đối với cán bộ, nhân viên từng lĩnh vực của ngành Y tế:

– Đối với cán bộ, nhân viên làm công tác vệ sinh phòng chống dịch, cần khắc phục khó khăn, bám sát thực địa, nắm chắc tình hình, vừa làm đầy đủ và có hiệu quả công tác chuyên môn, kỹ thuật, vừa làm tốt công tác vận động quần chúng, phối hợp với các ngành và các đoàn thể áp dụng các biện pháp vệ sinh, để ngăn ngừa dịch, bệnh, theo dõi, phát hiện và dập dịch nhanh chóng. Đồng thời chống mọi hiện tượng ngại khó, ngại khổ, quan liêu, đại khái, lơ là thiếu cảnh giác, thiếu trách nhiệm.

– Đối với cán bộ, nhân viên ở các cơ sở khám và chữa bệnh, cần phải có thái độ niềm nở, hòa nhã, quý trọng, lễ độ và thông cảm với người bệnh; cấp cứu, khám bệnh, chữa bệnh, cho thuốc, làm các thủ thuật một cách kịp thời, chu đáo, tỉ mỉ, thận trọng, chính xác; tiếp đón, săn sóc về ăn, ở, về vệ sinh trật tự một cách ân cần, chu tất; thực hiện các chức trách, chế độ một cách nghiêm ngặt… Không được có thái độ coi thường, lạnh nhạt, dùng những lời nói xách mé, vô lễ đối với người bệnh và gia đình; không được đùn đẩy, gây phiền hà cho bệnh nhân; không được tùy tiện, qua loa, tắc trách… dẫn đến bỏ sót bệnh, nhầm lẫn, sai sót có hại cho sức khỏe và tính mệnh người bệnh; không được lợi dụng nghề nghiệp, hối lộ, bớt xén thuốc men và tiêu chuẩn lương thực, thực phẩm của người bệnh…

– Đối với cán bộ, công nhân làm công tác dược, cần nhấn mạnh tinh thần tự lực, quyết tâm phấn đấu tạo thêm nguồn nhiên liệu, vật tư, bao bì, thi đua sản xuất, pha chế thuốc men đạt năng suất và chất lượng cao, đồng thời đẩy mạnh phong trào thuốc Nam, đáp ứng được những nhu cầu về phòng bệnh và chữa bệnh của nhân dân, phân phối thuốc đến tay người dùng một cách thuận tiện…, không ỷ lại, chờ đợi, bó tay trước khó khăn; không được chạy theo lợi nhuận mà làm bừa, làm ẩu, thiếu quan tâm đến các mặt hàng cần thiết, đến công thức và tiêu chuẩn chất lượng thuốc; không được móc ngoặc, trao đổi hàng hóa, lấy cắp và tuồn thuốc ra thị trường tự do…

– Đối với các trường đạo tạo cán bộ y – dược, cần đề cao trách nhiệm, khắc phục khó khăn để dạy tốt, học tốt và chăm lo đời sống và điều kiện giảng dạy, học tập. Thầy phải gương mẫu, giáo dục học sinh một cách toàn diện, trò phải chăm học và thường xuyên rèn luyện về đạo đức, về ý thức tổ chức kỷ luật, về tinh thần phục vụ, nhân viên phải bảo đảm các mặt công tác tổ chức và hậu cần… Chống mọi hiện tượng thiếu mẫu mực, những hiện tượng chây lười, vô tổ chức, vô kỷ luật, buông thả về đạo đức và lối sống trong học sinh…

– Đối với cán bộ lãnh đạo và quản lý, lòng thương yêu người bệnh phải được thể hiện ở tinh thần phụ trách cao, ở lề lối làm việc có chương trình, kế hoạch và có biện pháp kiên quyết thực hiện kế hoạch, ở tác phong sâu sát cơ sở, sâu sát quần chúng, tận tụy và hết lòng phục vụ sức khỏe nhân dân, chăm lo giáo dục tư tưởng và đời sống cán bộ, ở tinh thần không ngừng nâng cao trình độ công tác và năng lực lãnh đạo. Đồng thời khắc phục tư tưởng thiếu trách nhiệm, ngại quản lý, lùi bước trước khó khăn, bỏ qua những sai lầm của cán bộ, nhân viên; quan liêu, bảo thủ, trì trệ; thiếu gương mẫu trong công tác, học tập và sinh hoạt…

Những năm gần đây, dưới tác động mặt trái của cơ chế thị trường, y đức trở thành vấn đề bức xúc. Trước tình hình đó, ngành Y tế đã có những chủ trương, biện pháp với quyết tâm xây dựng y đức theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Ngày 23/3/1996, Bộ Y tế đã có Chỉ thị số 04-BYT về vấn đề y đức. Tiếp đó, ngày 6/11/1996, Bộ Y tế lại có Quyết định số 2088/BYT-QĐ, 12 điều về y đức.

Có thể nói những qui định về y đức nêu trên được dư luận trong ngành và cả nước ủng hộ. Những điều quy định đó đã giúp cho việc giáo dục, rèn luyện, tự phê bình và phê bình, cũng như cổ vũ phong trào thi đua phấn đấu trở thành những cán bộ, nhân viên, học sinh ưu tú… ở các cơ sở y, dược, các trường đào tạo của ngành.

Đi đôi với những nội dung về y đức đã được cụ thể hóa thành các tiêu chuẩn của người cán bộ y tế, ngành Y tế còn xây dựng các điều lệ, chức trách, chế độ, quy trình kỹ thuật và tiêu chuẩn chất lượng… cho các cơ sở điều trị, phòng bệnh, sản xuất và phân phối thuốc. Việc Nhà nước ban hành các điều luật và các văn bản dưới luật về bảo vệ sức khỏe, về môi trường, về hành nghề y, dược đã tạo cơ sở để cán bộ, nhân viên ngành Y tế nâng cao trách nhiệm và y đức.

Bước vào thời kỳ mới, ngành Y tế nước ta có nhiều điều kiện phát triển, đội ngũ cán bộ y tế có nhiều tiến bộ và cống hiến to lớn, nhưng cũng đứng trước những thách thức mới, trong đó có sự xuống cấp về y đức.

Nước ta là một nước nghèo, chậm phát triển và trải qua chiến tranh lâu dài nên để lại những hậu quả nặng nề về sức khỏe cho nhân dân. Những bệnh dịch và bệnh xã hội như sốt rét, lao, bướu cổ… còn đang là mối lo của đất nước, thì những bệnh và tệ nạn của thời đại đã lan tràn đến Việt Nam: bệnh HIV/AIDS, các bệnh nhiễm khuẩn đường tình dục, tai nạn giao thông, bệnh ung thư và tim mạch, bệnh suy dinh dưỡng ở trẻ em, bệnh suy giảm miễn dịch do suy dinh dưỡng… đã trở thành gánh nặng của ngành Y tế nước ta. Trong thời kỳ đẩy mạnh công công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nội dung y đức về cơ bản không thay đổi. Tuy vậy, người thầy thuốc hiện nay đứng trước cơ chế mới phải đấu tranh để giữ vững bản chất nghề nghiệp, bảo vệ sự trong sáng của y đức. Trước những cám dỗ của đồng tiền, trước một đối tượng phục vụ đủ mọi thành phần giai cấp, đủ mọi tầng lớp của xã hội, với mạng lưới y tế Nhà nước và mạng lưới y tế tư nhân song song tồn tại, y đức thực sự đứng trước những thách thức.

Ngành Y tế và người cán bộ y tế phải làm gì để không phân biệt đối xử trước đối tượng bệnh nhân cả giàu lẫn nghèo, người có quyền lực và người dân thường? Tâm lý xã hội cũng có sự thay đổi. Đó là tâm lý những người bỏ tiền đi chữa bệnh, thích thuốc mới, thuốc khó kiếm, tin vào thầy cho đơn thuốc đắt tiền và lấy tiền công đắt và tâm lý muốn giải quyết mọi vấn đề thật nhanh mà không phải chờ đợi thông qua đồng tiền. Tâm lý này đã ảnh hưởng cả đến lớp cán bộ nghèo, người dân nghèo. Nhiều bệnh nhân và gia đình hoàn cảnh khó khăn, do chịu ảnh hưởng của những suy nghĩ trên nên xoay xở, chạy tiền chữa bệnh, lâm vào cảnh khó khăn. Chính vì vậy, đối với mọi người bệnh, y đức đòi hỏi người thầy thuốc phải giữ bản lĩnh của mình, nhìn thẳng vào căn bệnh, vào thể trạng bệnh nhân mà điều trị, không phân biệt giàu, nghèo để có sự quan tâm hơn, kém. Nói chung, không có loại thuốc, loại xét nghiệm nào dùng riêng cho người giàu sang, loại thuốc và xét nghiệm nào dành riêng cho người nghèo khó.  Tuy nhiên, cũng không buộc phải bình quân. Tùy theo hoàn cảnh và điều kiện về ngân sách và thuốc men, người thầy thuốc sẽ dùng sao cho hợp lý với khả năng và đối tượng. Người cán bộ và nhân viên ở cơ sở điều trị còn phải đấu tranh với hiện tượng thu “phí ngầm” với mọi khâu phục vụ (từ tiêm chích đến thay áo, quần…), thiếu nhiệt tình trong khám, chữa bệnh vì không có tiền bồi dưỡng thêm hoặc làm việc qua quýt trong giờ để kéo người bệnh về phòng mạch ngoài giờ, hay thiếu trung thực trong kê đơn, kê nhiều thuốc đắt tiền rồi móc ngoặc với của hàng thuốc để nhận tiền hoa hồng…

Với y tế tư nhân, y đức cũng phải được coi trọng. Nhà nước đã ban hành Pháp lệnh hành nghề y, dược tư nhân. Do đó, hiện nay y tế tư nhân hành nghề song song với y tế nhà nước. Điều này tạo thêm thuận lợi cho người dân được khám chữa bệnh, đỡ phải chờ đợi và đi xa, cũng là để góp phần nâng cao hiệu quả và chất lượng điều trị. Lương tâm thầy thuốc và nền kinh tế thị trường, đã thúc đẩy người thầy thuốc tư chăm sóc tốt người bệnh, không ngừng nâng cao trình độ khám, chữa bệnh, có được nhiều tín nhiệm và giữ được mối quan hệ gắn bó với người bệnh. Thực tế đã có không ít thầy thuốc tư trở nên gần gũi với bệnh nhân như người thân, hết lòng chăm sóc họ, thông cảm với những người bệnh nghèo. Nhưng bên cạnh mặt được vừa nêu, y tế tư nhân cũng có những mặt trái, mặt tiêu cực, vi phạm tiêu chuẩn nghề nghiệp và y đức như kê đơn quá mức cần thiết, bán thuốc với giá cao, kéo dài thời gian điều trị (mà dân gian hay mỉa mai là bác sĩ … “nuôi bệnh”) gây khó khăn và tốn kém cho người bệnh. Vì vậy, thầy thuốc tư cần luôn cảnh giác để giữ cho y đức của mình được trong sáng. Cần nhận rõ là giữa họ với người bệnh không chỉ là quan hệ giữa thầy thuốc với bệnh nhân mà còn là quan hệ giữa người bỏ công lao động và người trả công lao động. Người thầy thuốc tư nhân nhận tiền công khám, chữa bệnh từ người bệnh là đúng, hợp pháp, không vi phạm đạo đức. Vấn đề là ở chỗ đánh giá công lao bỏ ra như thế nào để giữ được y đức và tính giá trị lao động bỏ ra đối với người nghèo, người thuộc diện chính sách như thế nào?

Y tế trên đường hiện đại hóa, ngày càng được ứng dụng nhiều thành tựu khoa học, công nghệ mới vào phục vụ nhằm nâng cao chất lượng chẩn đoán và điều trị. Cố gắng dùng máy móc để cứu chữa người bệnh, đó cũng là y đức. Nhưng người thầy thuốc có y đức không bao giờ ỷ lại hoàn toàn vào máy móc mà coi nhẹ việc trực tiếp khám bệnh và thăm hỏi bệnh nhân. Vì máy móc dù tinh vi đến đâu cũng không thay thế được người thầy thuốc. Kể cả khi có đủ phương tiện theo dõi người bệnh từ xa, nhưng nếu họ nằm trơ trọi một mình thì cũng là thiếu y đức. Người bệnh có nhu cầu được tiếp xúc, không những lợi cho việc theo dõi bệnh mà còn lợi cho cả tinh thần bệnh nhân. Người y tá lặng lẽ vào buồng bệnh tiêm cho bệnh nhân, rút kim ra rồi đi thẳng, chẳng một lời hỏi han, như vậy chưa thể nói là “Thầy thuốc như mẹ hiền” được.

Trong khám, chữa bệnh, y đức đang đòi hỏi những người cán bộ quản lý ngành phải đi sâu vào thực tiễn khá phức tạp hiện nay để làm tốt hơn việc tổ chức mạng lưới điều trị từ trung ương đến cơ sở, với cán bộ nhân viên và những trang bị cần thiết, hợp lý, thuận tiện, đạt hiệu quả đối với người bệnh và nhân dân. Cần thực hiện đầy đủ các chế độ, chính sách bảo hiểm y tế, miễn giảm viện phí đối với các đối tượng chính sách và người nghèo cũng như các chế độ chính sách đối với cán bộ, nhân viên y tế. Trong lúc chính sách lương của cán bộ y tế chưa được giải quyết thỏa đáng, việc tổ chức dịch vụ và tạo điều kiện cho thầy thuốc làm thêm để tăng thu nhập, cải thiện đời sống là hết sức cần thiết,  nhưng cũng cần phải quan tâm đến vấn đề y đức và lĩnh vực hành nghề y dược tư nhân cũng cần được quản lý chặt chẽ.

Trong sản xuất và phân phối thuốc, y đức cũng có những đòi hỏi bức thiết không thể xem nhẹ. Vấn đề đặt ra là cần có đủ thuốc sản xuất ở trong nước, kể cả biệt dược, giá rẻ hơn so với thuốc nhập khẩu, với mạng lưới phân phối tận xã, phường và những cán bộ, nhân viên tận tình, chân thật quan tâm đến chất lượng, hiệu quả của thuốc, đáp ứng kịp thời mọi nhu cầu phòng bệnh và chữa bệnh của nhân dân. Đáp ứng yêu cầu này đòi hỏi phải đề cao y đức. Đồng thời phải đấu tranh khắc phục mọi hiện tượng tiêu cực, chỉ biết đến lợi nhuận mà coi thường chất lượng, coi thường hiệu quả, coi thường nguyện vọng và lợi ích của người bệnh. Việc cho nhập khẩu tràn lan một số thuốc, nhất là biệt dược giá cao gấp một, hai chục lần những thứ thuốc mà trong nước đã sản xuất được có đủ khả năng phân phối là một việc làm vi phạm y đức.

Tư tưởng “Thầy thuốc như mẹ hiền” được Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên và khẳng định nhiều lần ngay trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp. Từ đó đến nay, ngành Y tế nước nhà, những chiến sĩ áo trắng nhất quán trong việc học tập, vận dụng lời căn dặn của Người. Bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, những di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về y đức đang soi đường và chắp cánh cho đội ngũ cán bộ y tế nước ta vượt qua mọi khó khăn và thử thách, nắm vững vận hội, vượt qua thách thức, góp phần đưa nước ta tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh…

Nghề Y là một nghề cao quý, được xã hội tôn vinh, những người thầy thuốc phải không ngừng học tập nâng cao trình độ chuyên môn, rèn luyện y đức mới thực hiện được lời dạy của Bác. Đối với cán bộ y tế cả nước nói chung và tỉnh Tiền Giang nói riêng, tư tưởng của Bác về y đức vừa là hệ thống lý luận gắn liền với thực tiễn dễ đi vào lòng người, rất dễ nhớ, dễ làm đồng thời còn là những lời dạy bảo thân thương, chân tình mà mỗi người đều thấm nhuần. Vì vậy, trong thời kỳ kinh tế thị trường như hiện nay, mỗi cán bộ y tế cần phải nghiên cứu vận dụng y đức vào từng vị trí công tác của mình để tạo điều kiện hoàn thành tốt nhất nhiệm vụ được giao, đó chính là thể hiện tinh thần trách nhiệm đối với nghề nghiệp, thực hiện lời dạy bảo đồng thời cũng là mệnh lệnh thiêng liêng xuất phát từ trái tim, từ tấm lòng tôn kính đối với Bác Hồ, vị Cha già muôn vàn kính yêu của dân tộc Việt Nam./.

Trần Thanh Thảo

tiengiang.gov.vn

Chủ tịch Hồ Chí Minh – Người tạo lập nền y đức mới

Chủ tịch Hồ Chí Minh trò chuyện với GS. Trần Hữu Tước và Bộ trưởng Phạm Ngọc Thạch (người ngồi bên trái). Ảnh: TL suckhoedoisong.vn

Suốt cuộc đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh phấn đấu cho sự nghiệp cao cả giải phóng dân tộc, giải phóng con người khỏi áp bức, bóc lột, đói nghèo, bệnh tật. Vì vậy, ngành y tế, ngành chǎm lo sức khỏe con người, là một trong những ngành được Người quan tâm nhiều nhất.

Những tư tưởng, quan điểm của Người rất toàn diện, sâu sắc về y học – y tế đã trở thành nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hoạt động của ngành y tế suốt từ những ngày đầu cách mạng đến tận mai sau. Những tư tưởng, quan điểm đó là: xây dựng nền y học Việt Nam khoa học, dân tộc, đại chúng, vấn đề y đức là vai trò của y học dự phòng, vấn đề kết hợp đông y với tây y, kết hợp quân – dân y trong sự nghiệp bảo vệ và chǎm sóc sức khỏe nhân dân…

Y đức là vấn đề trung tâm, vấn đề cốt lõi trong quan điểm về y tế của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Không nghề nào quan trọng và ảnh hưởng sâu sắc đến sức khỏe và tính mạng con người như nghề y. Không nghề nào mà sai lầm hay thiếu sót ảnh hưởng lớn đến sự sống còn, đến sức khỏe con người như nghề y. Mọi nghề đều có thể làm ra sản phẩm không đủ tiêu chuẩn, có thể có hàng thứ phẩm. Ngành y tuyệt đối không cho phép như vậy. Chủ tịch Hồ Chí Minh từ những ngày đầu thành lập nước Việt Nam DCCH đã quan tâm sâu sắc đến việc bảo vệ và chǎm sóc sức khỏe nhân dân, đến ngành y. Cách mạng vừa thắng lợi, thù trong giặc ngoài rình rập, mọi việc còn ngổn ngang trǎm mối, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn phát động phong trào đời sống mới, khởi xướng phong trào “khỏe vì nước”. Người chỉ rõ: “Giữ gìn dân chủ, xây dựng nước nhà, gây đời sống mới, việc gì cũng cần có sức khỏe mới làm thành công”.

Trước công nguyên, phương Tây có Hi-pô-crát, phương Đông trải qua nghìn, vạn nǎm chưa thấy ai (kể cả ở những quốc gia có nền vǎn minh tối cổ đồ sộ như ấn Độ, Trung Quốc) nói đến vấn đề y đức. Các sách cổ Trung Hoa từ Hoàng đế, nội kinh đến bản thảo cương mục, v.v. chỉ nói về y thuật, không nói đến y đức.

ở nước ta, y đức được các danh y như Tuệ Tĩnh, nhất là Hải Thượng Lãn Ông nêu lên từ những thế kỷ trước. Nó biểu hiện truyền thống nhân ái, chuộng đạo lý, quý trọng con người của dân tộc.

Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến y đức, Người là hiện thân của đạo đức cách mạng trong sáng đối với ngành y. Người luôn luôn quan tâm giáo dục những người làm công tác y tế về vấn đề y đức.

Trong các thư gửi Trường Quân y nǎm 1946, Hội nghị Quân y nǎm 1948, Trường y tá Liên khu I nǎm 1949, Hội nghị y tế toàn quốc nǎm 1953, Người luôn nêu vấn đề này.

Người viết: “Người ta có câu: “Lương y như từ mẫu”, nghĩa là một người thầy thuốc đồng thời phải là một người mẹ hiền”. (Thư gửi Hội nghị Quân y tháng 3-1948), “Phải thương yêu người bệnh như anh em ruột thịt. Cần phải tận tâm tận lực phụng sự nhân dân”, “Lương y như từ mẫu” (Thư gửi Hội nghị cán bộ y tế toàn quốc 1953)”, “Phải thương yêu, sǎn sóc người bệnh như anh em ruột thịt của mình, coi họ đau đớn cũng như mình đau đớn, lương y phải như từ mẫu” (Thư gửi Hội nghị cán bộ y tế tháng 2-1955).

Không một nội dung nào sâu sắc hơn, đầy đủ hơn, ngắn gọn hơn, súc tích hơn, đúng đắn hơn, nói lên được sự cao cả, thiêng liêng của ngành y tế, của người thầy thuốc như lời dạy của Người về y đức. Lòng người mẹ thương con là tình cảm cao cả, thiêng liêng nhất trong mọi tình cảm của con người. Tình thương yêu, đùm bọc giữa các anh chị em ruột thịt trong gia đình là tình cảm thân thiết, quý trọng nhất, sự quan tâm nỗi đau đớn, sướng khổ của bản thân mình là gắn bó, thân thiết nhất đối với mỗi người trong cuộc đời. Trước Hồ Chí Minh, y đức chỉ là vấn đề nhân đạo, là nhân thuật, là sự giữ mình, là bổn phận, là thái độ ứng xử sao cho có lương tâm, có trách nhiệm của con người với đồng loại, của người nọ với người kia, của thầy thuốc với người bệnh. Nội dung lời thề của Hi-pô-crát chỉ là “Tôi sẽ cho chế độ ǎn uống có lợi cho bệnh nhân, không cho thuốc giết người nếu có ai yêu cầu. Tôi sẽ giữ gìn sao đời sống của tôi được trong trắng và thần thánh…”

Chín điều rǎn dạy của Hải Thượng Lãn Ông cũng chỉ là: “Chớ vì giàu sang hay nghèo hèn mà đến (thǎm bệnh) trước đến sau hay bốc thǎm lại phân biệt hơn kém…”. Đến Hồ Chí Minh, y đức được nâng lên tầm cao chưa từng có. Còn gì thiêng liêng, cao quý hơn tình cảm mẹ con? Người mẹ không những sinh thành, tạo ra cuộc sống, nuôi dưỡng, dạy dỗ con mà còn có thể hy sinh tất cả, kể cả cái quý nhất là cuộc sống của mình cho con. Còn gì thân thiết hơn, gần gũi hơn tình cảm anh em cốt nhục ? Người anh nào khi em hoạn nạn không đem tất cả sức lực, tâm huyết, không làm tất cả mọi việc có thể làm được cho em mình qua cơn hoạn nạn. Còn gì thiết thân hơn, sát sườn hơn đối với con người là sự đau đớn của chính mình? Có người nào không hết lòng, hết sức chạy chữa cho bản thân mình khi đau ốm? Hồ Chí Minh đã đem tất cả những tình cảm cao quý, thiêng liêng (tình mẹ con, tình anh em, tình cảm đối với bản thân mình) vào đạo đức của người thầy thuốc. Từ một vấn đề mang tính trách nhiệm, là thái độ ứng xử chuyển thành vấn đề không chỉ mang tính trách nhiệm, nhân đạo mà còn mang sắc thái thiêng liêng, tình cảm. Có thể nói, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tạo lập nên nền y đức mới, y đức cách mạng.

Ngành y đã lấy nội dung những lời dạy của Người nêu trên làm cốt lõi tư tưởng trong mọi hoạt động. Bao tấm gương đẹp, tận tụy, hết lòng, hết sức phục vụ người bệnh nở rộ trong sự nghiệp chǎm sóc, bảo vệ sức khỏe nhân dân: Phạm Ngọc Thạch, Tôn Thất Tùng, Đặng Vǎn Ngữ, v.v. đều đã thấm nhuần và làm theo lời dạy của Người về y đức. Truyền đạt tinh thần “Thầy thuốc như mẹ hiền” của Người thành hành động cụ thể, Phạm Ngọc Thạch đã nêu: “Đến, tiếp đón niềm nở. ở, chǎm sóc tận tình. Đi, dặn dò chu đáo” làm châm ngôn, mọi thầy thuốc, nhân viên trong ngành phải tuân thủ trong việc chǎm sóc, phục vụ người bệnh. Nǎm 1979, Bộ Y tế đề ra nǎm tiêu chuẩn của người cán bộ y tế nhân dân. Nǎm 1982, Bộ Y tế nêu những yêu cầu cụ thể về “thương yêu người bệnh” cho cán bộ, nhân viên hoạt động trong các lĩnh vực khác nhau đối với việc bảo vệ, chǎm sóc sức khỏe nhân dân. Nǎm 1996, Bộ trưởng y tế Đỗ Nguyên Phương nêu lên 12 điều quy định về y đức. Ngày 10-8-1999, lại ban hành Quy định về đạo đức hành nghề dược. Ngày 3-1-2000, Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu gửi thư cho ngành y tế qua báo Sức khỏe và Đời sống đã phát triển, làm rõ hơn, cụ thể hơn lời dạy của Bác Hồ về y đức trong hoàn cảnh mới của đất nước. Tư tưởng Hồ Chí Minh về y đức từng giai đoạn, từng thời kỳ đã được thể chế hóa, cụ thể hóa thành những việc rõ ràng trong công tác phục vụ người bệnh, bảo vệ và chǎm sóc sức khỏe nhân dân. Hồ Chí Minh đã sáng tạo ra một thời đại mới, một nền vǎn hóa mới, đạo đức cách mạng mới trong lịch sử dân tộc. Đạo đức Hồ Chí Minh là sự khoan dung, nhân hậu, là lòng thương người hết mực. Trong tình thương yêu con người đó, mọi người đều có chỗ. Người không bỏ sót ai, không quên ai, nhất là những người lao khổ, bần cùng, ốm đau, bệnh hoạn. Người nói: “Mỗi người, mỗi gia đình đều có một nỗi đau khổ riêng, gộp những nỗi đau khổ riêng của mỗi người, mỗi gia đình thì thành nỗi đau khổ của tôi”. Chỉ có tấm lòng cao cả, thương người lớn lao như vậy mới có thể thấu hiểu được nỗi đau đớn của người ốm đau, bệnh tật, mới có thể nêu lên y đức của người thầy thuốc cao cả, thiêng liêng, sâu sắc như vậy.

Tư tưởng về y đức của Người mãi mãi là “pháp bảo” của ngành y tế, soi đường chỉ lối cho những người làm công tác y tế vượt qua mọi khó khǎn, thử thách, xây dựng và phát triển ngành, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao trong sự nghiệp bảo vệ và chǎm sóc sức khỏe nhân dân.

PGS, TS. Hoàng Minh

quangbinh.gov.vn

Tư tưởng Hồ Chí Minh về ngành Y tế Việt Nam

Giáo sư Tôn Thất Tùng (người mặc comple trắng bên trái) hướng dẫn Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm Bệnh viện Việt - Đức sau ngày Hà Nội giải phóng (10/10/1954). Ảnh Internet

Cả cuộc đời dành trọn cho quê hương, đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh – Người anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa kiệt xuất đã để lại cho các thế hệ con cháu Việt Nam những tư tưởng cao quý, có giá trị sâu sắc. Trong đó phải kể đến những tình cảm, những tư tưởng khoa học mang tính định hướng lâu dài dành cho ngành Y tế – một trong những ngành giữ vị trí rất quan trọng trong đời sống kinh tế – xã hội của đất nước.

Trong di sản của Người để lại, tài liệu viết về ngành Y tế không nhiều song những giá trị cốt lõi được thể hiện trong tư tưởng của Bác về lĩnh vực này đã trở thành kim chỉ nam hành động đối với toàn thể cán bộ, nhân viên trong ngành. Điều này được thể hiện ở những điểm sau:

Thứ nhất, Bác Hồ luôn đánh giá cao vai trò, nhiệm vụ của ngành Y tế trong sự nghiệp chăm sóc sức khỏe nhân dân và sự nghiệp cách mạng của đất nước.

Trong bức thư viết tháng 2/1955, Bác Hồ nêu rõ: “Chính phủ phó thác cho các cô, các chú việc chữa bệnh tật và giữ gìn sức khỏe cho đồng bào. Đó là một nhiệm vụ rất vẻ vang”. Bác Hồ cũng đã nhiều lần căn dặn cán bộ: Trên đời này không có gì sung sướng, vẻ vang hơn là được phục vụ nhân dân. Sức khỏe là vàng, không có sức khỏe thì con người không thể làm bất cứ việc gì. Chính vì vậy, muốn đất nước ngày càng phát triển thì trước hết nhân dân phải có sức khỏe tốt. Và đó là nhiệm vụ của ngành Y tế: Chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân. Đó là lý do mà Bác kính yêu đã khẳng định công việc của những người trong ngành Y tế là một “nhiệm vụ rất vẻ vang”.

Công lao của những người làm việc trong ngành Y tế có ý nghĩa rất to lớn. Sự hy sinh thầm lặng của họ đáng được Đảng, Chính phủ và toàn dân ghi nhận, trân trọng và khen ngợi thỏa đáng. Bác Hồ từng nói: “Bây giờ ta chịu khổ với nhau. Đến ngày kháng chiến thắng lợi, độc lập thành công điều kiện cho phép, Chính phủ quyết không quên công lao anh em đã cố gắng: “Chính phủ sẵn sàng khen thưởng những người xuất sắc nhất” (Tháng 6/1948).

Bác cho rằng: “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được học hành, ốm đau có thuốc, già không lao động thì được nghỉ, những phong tục, tập quán không tốt thì dần dần xóa bỏ”. “Ốm đau có thuốc” được Bác nêu lên chính là nhiệm vụ, trách nhiệm và vai trò của ngành Y tế. Nhiều cuộc họp của Bộ Chính trị và Trung ương Đảng mà Bác Hồ dự và chủ trì, đều quan tâm đến vấn đề này. Sinh thời, dù bận trăm công nghìn việc nhưng Bác Hồ đã nhiều lần làm việc với cán bộ lãnh đạo ngành Y tế, quan tâm, động viên, thăm hỏi đội ngũ thầy thuốc, khẳng định tầm quan trọng của nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe cho nhân dân.

Những thành tựu mà ngành Y tế đã đạt được trong cả thời chiến và thời bình đã khẳng định vai trò quan trọng của ngành trong công cuộc xây dựng, bảo vệ đất nước đúng như quan điểm của Bác Hồ.

Trong kháng chiến chống Pháp, dưới sự quan tâm lãnh đạo sáng suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng, Chính phủ với đường lối kháng chiến kiến quốc đúng đắn, cán bộ ngành Y tế đã khắc phục mọi khó khăn, cố gắng bền bỉ đưa công tác y tế của đất nước tiến lên. Mặc dù trong hoàn cảnh chiến tranh, công tác y tế của nước ta thời kỳ này “đã đi dần vào con đường phục vụ quảng đại nhân dân”. Lịch sử ghi danh những chiến sỹ áo trắng không quản ngại nguy hiểm, khó khăn, thiếu thốn luôn có mặt tại các chiến hào để cứu chữa thương bệnh binh, phục vụ đắc lực cho tiền tuyến. Biết bao tấm gương y, bác sỹ – chiến sỹ kiên trung, dũng cảm đã xuất hiện trên khắp chiến trường, nhiều người đã để lại một phần máu xương của mình cho sự nghiệp giải phóng đất nước, cũng có không ít người đã vĩnh viễn ra đi, để lại bao niềm đau nỗi nhớ cho gia đình, bạn bè, đồng nghiệp. Ngày 2/1/1947, Người đã có thư khen ngợi sự tận tâm của các y sĩ, khán hộ cứu thương, trong đó có đoạn: “Tôi được báo cáo rằng: Các thầy thuốc và khán hộ đều hết lòng săn sóc thương binh một cách chu đáo. Thế là các bạn cũng trực tiếp tham gia kháng chiến cứu quốc”. Trong “Báo cáo tại Hội nghị chính trị đặc biệt” (ngày 28/3/1964), Người đánh giá rằng: “Công tác y tế đã có nhiều thành tích, đã ngăn chặn được nhiều dịch bệnh và bệnh xã hội cũ, sức khỏe của nhân dân được nâng cao. Trẻ em ngày càng được săn sóc chu đáo hơn”. Công tác y tế thời kỳ này không chỉ là một mặt trận kháng chiến mà còn là một mặt trận đấu tranh chống lại bệnh tật, đem lại sức khỏe cho toàn dân, vì cuộc sống của nhân dân.

Bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đồng thời kháng chiến trường kỳ chống Mỹ giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, ngành Y tế đã nêu cao tinh thần cống hiến hết mình và nỗ lực không ngừng để vừa góp phần xây dựng cuộc sống mới, vừa trở thành hậu phương vững chắc cung cấp đầy đủ thuốc men cho toàn quân, vừa kề vai sát cánh với các chiến sĩ sẵn sàng cứu chữa kịp thời thương bệnh binh, đảm bảo sức khỏe cho họ tiếp tục kiên cường đánh đuổi kẻ thù xâm lược. Rất nhiều sinh viên y khoa mới tốt nghiệp cũng xung phong vào các chiến trường khốc liệt, đem tài sức của mình kề vai sát cánh với những người lính ngoài trận địa, góp phần vì sự nghiệp cách mạng cao đẹp của nước nhà. Hàng trăm nghìn tấn thuốc chữa bệnh, dụng cụ y tế đã được vận chuyển vào miền Nam qua đường mòn Hồ Chí Minh.

Sau khi đất nước hoàn toàn giải phóng, Bắc – Nam quy về một mối, ngành Y tế đã khẩn trương cùng với các ngành bắt tay vào công cuộc xây dựng đất nước và khắc phục những hậu quả của chiến tranh để lại. Mặc dù phải đối phó với những tác động của nền kinh tế thị trường khi bước vào thời kỳ đổi mới, ngành Y tế đã không ngừng khắc phục khó khăn, phấn đấu đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh ngày càng tăng của nhân dân. Phương châm đổi mới của ngành y tế là kế thừa, nâng cao chất lượng, kết hợp phòng bệnh và chữa bệnh, lấy dự phòng làm chính, đông tây y kết hợp để xây dựng nền y học Việt Nam phát triển bền vững.
Đánh giá cao những thành tựu của ngành Y tế đã góp phần làm nên những trang sử vẻ vang của dân tộc, Đảng và Nhà nước đã trao tặng cho các tập thể, cá nhân ngành Y tế nhiều phần thưởng cao quý, như Huân chương Sao vàng, Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Độc lập. Nhiều giáo sư, bác sỹ, dược sỹ, các nhà khoa học và cán bộ của ngành Y tế có những cống hiến to lớn trong các lĩnh vực y tế, đã đ­ược Đảng và Nhà nước trao tặng các danh hiệu Anh hùng Lao động, Huân chương Lao động và giải thư­ởng cao quý khác.

Thứ hai, Bác Hồ luôn dành sự quan tâm sâu sắc đối với những người làm việc trong ngành Y tế.

Lịch sử dân tộc vẫn còn lưu giữ những hồi ký rất cảm động của các cán bộ trong ngành Y tế khi nhớ về Bác kính yêu. Đó là sự quan tâm và tình cảm ấm áp, chân tình của Bác đối với bác sĩ Trần Hữu Tước trong chuyến tàu từ Pháp trở về Tổ quốc năm 1946, cũng như thời gian sau này. Đó là những lời lẽ hết sức xúc động của Người trong thư gửi bác sĩ Vũ Đình Tụng chia sẻ nỗi đau khi vừa biết tin con trai của bác sĩ hi sinh trong trận chiến đấu chống trả cuộc tấn công của quân Pháp vào Hà Nội. Đó còn là sự quan tâm của Người đối với những bác sĩ sống ở Việt Bắc trong thời kỳ kháng chiến gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn (thư gửi đồng chí Hoàng Hữu Nam ngày 19/3/1947). Khi nghe tin vợ bác sĩ Đặng Văn Ngữ mất, Bác viết thư thăm hỏi, động viên (thư ngày 10/6/1954)…

Đáp lại tình yêu thương vĩ đại Bác dành cho, nhiều thế hệ thầy thuốc Việt Nam đã cố gắng sống và làm việc, đóng góp không nhỏ cho sự nghiệp cách mạng của nước nhà. Giáo sư Hồ Đắc Di – một bác sĩ nổi tiếng ở Việt Nam, hiệu trưởng đầu tiên trường Đại học Y khoa của nước Việt Nam độc lập, là người hiểu thấu tư tưởng và thấm nhuần đạo đức, lối sống của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ông từng nói: “Càng sống lâu, càng suy ngẫm, càng hiểu sâu biết rộng, càng nhìn thấu kim cổ Đông Tây, ta càng thấy rõ Bác Hồ của chúng ta quả là bậc vĩ nhân của các vĩ nhân. Theo tôi, Người là một Einstein về mặt đạo đức. Lời nói nào của chúng ta có sâu xa đẹp đẽ đến đâu chăng nữa, cũng không thể nào nói lên đầy đủ tầm vóc của Người. Có lẽ chính lịch sử mới đủ sức nói lên tầm vóc đó. Điều kỳ diệu của Bác Hồ là Người là bậc thánh nhân xuất chúng nhưng lại không xa rời nhân dân đại chúng, là nhân vật thần thoại truyền kỳ nhưng lại gần gũi biết bao đối với những con người bình thường, nhỏ bé và bất hạnh. Người có ảnh hưởng sâu xa đến tâm tư, tình cảm của mỗi chúng ta, trẻ cũng như già”.

Giáo sư, bác sĩ Tôn Thất Tùng – vị bác sĩ nổi tiếng ở Việt Nam và thế giới trong lĩnh vực gan và giải phẫu gan sau cuộc gặp gỡ đầu tiên với Bác, “dưới ánh sáng của đôi mắt Bác Hồ”, tâm hồn ông đã đi theo cách mạng. Trong suốt cuộc đời mình, Giáo sư đã vinh dự được Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp dìu dắt, tin cậy với niềm tin yêu đặc biệt và tình cảm gần gũi. Không phụ lòng tin yêu của Bác, Giáo sư đã cống hiến hết mình cho sự nghiệp với mong muốn đưa nền y học Việt Nam sánh ngang với các nước trên thế giới. Giáo sư Tôn Thất Tùng đã để lại cho nền y học nước nhà 123 công trình khoa học, đặc biệt Ông là một trong những nhà khoa học đầu tiên xây dựng phương pháp mổ gan mang tên ông: “phương pháp Tôn Thất Tùng” (hay “phương pháp mổ gan khô”). Giáo sư từng viết: “Bác ơi, công ơn Bác với con thật như trời, như bể. Con nhắc lại mấy kỷ niệm đánh dấu từng chặng đời con, để ghi vào lòng, tạc vào dạ rằng, chính Bác là người đã thay đổi đời con, quyết định cả sự nghiệp khoa học của con. Bác là người cha, người thầy đã tái sinh và dạy dỗ con”.

Hàng năm, cứ mỗi độ xuân về, Người lại đi thăm và chúc Tết các tầng lớp nhân dân. Năm nào Bác cũng dành thời gian đến thăm và chúc Tết một, hai vị trí thức ngành y vào đêm giao thừa. Gặp gỡ các vị giáo sư, Bác luôn gửi lời thăm và chúc tết tới các cán bộ đang làm việc tại các bệnh viện, các bệnh nhân còn ở lại bệnh viện.

Bác Hồ nói chuyện thân mật với trí thức ngành y. Ảnh: Internet

Đối với các thầy thuốc làm việc trong ngành Y tế, Bác luôn dành cho họ sự tin tưởng, quan tâm, ân cần chỉ bảo, sử dụng đúng khả năng, động viên kịp thời. Xuất phát từ tình cảm chân thành, sâu sắc với cán bộ ngành Y tế, Bác Hồ đã chỉ ra những nội dung ngắn gọn song lại có ý nghĩa định hướng hành động cho mọi người. Ngày 27/2/1955, trong bức thư gửi Hội nghị cán bộ ngành y tế, Người căn dặn “phải thật thà đoàn kết” để “vượt được mọi khó khăn, giành được nhiều thành tích”. “Đoàn kết giữa cán bộ cũ và cán bộ mới. Đoàn kết giữa tất cả những người trong ngành Y tế – từ các bộ trưởng, thứ trưởng, bác sĩ, cho đến các anh chị em giúp việc. Bởi vì công việc và địa vị tuy có khác nhau, nhưng người nào cũng là một bộ phận cần thiết trong ngành Y tế, trong việc phục vụ nhân dân”.

Trong thư gửi cán bộ và nhân viên quân y ngày 31/7/1967, Chủ tịch Hồ Chí Minh ân cần căn dặn: “Bác nhắc nhủ các cô, các chú phải:Đoàn kết chặt chẽ, nêu cao tinh thần tập thể, thi đua học tập và công tác để tiến bộ không ngừng về chính trị, tư tưởng, về chuyên môn kĩ thuật”.

Thứ ba, phải đẩy mạnh công tác phòng bệnh

Đây là quan điểm cơ bản của công tác chăm sóc sức khỏe mà Người nêu ra từ sau Cách mạng Tháng Tám. Người nói “Mỗi một người dân yếu ớt tức là làm cho cả nước yếu ớt một phần, mỗi một người dân khỏe mạnh tức là góp phần làm cho cả nước khỏe mạnh. Việc gì cũng cần có sức khỏe mới thành công”.

Từ sau Cách mạng Tháng Tám, trong 12 điều răn cán bộ, Người căn dặn “Phải dạy đồng bào: Vệ sinh thường thức”. Đầu năm 1946, Người kêu gọi “Luyện tập thể dục, bồi bổ sức khỏe là bổn phận của mỗi người dân yêu nước” và nói: “Việc đó không tốn kém, khó khăn gì. Gái trai, già trẻ ai cũng nên làm và ai cũng làm được. Dân cường thì nước thịnh. Tôi mong đồng bào ta ai cũng gắng tập thể dục. Tự tôi, ngày nào tôi cũng tập”. Người đã phát động phong trào “Đời sống mới” với nội dung chủ yếu là giữ gìn vệ sinh. Từ khi hòa bình lập lại ở miền Bắc và trong những năm chống Mỹ cứu nước, mỗi khi đi thăm một xí nghiệp, một HTX, cơ quan, đơn vị bộ đội, trường học hay bệnh viện, trước hết Người xem xét nơi ăn, chốn ở, nhà bếp, nguồn nước, nhà tắm, hố xí và dặn dò mọi người ăn ở trật tự vệ sinh.

Người còn cho rằng vấn đề sức khỏe có mối quan hệ trực tiếp với cuộc kháng chiến và kiến quốc. Người nói: “Sức khỏe của cán bộ và nhân dân được bảo đảm thì tinh thần càng hăng hái. Tinh thần và sức khỏe đầy đủ thì kháng chiến càng gần thắng lợi, kiến quốc càng mau thành công”. Vì lẽ đó mà đối với tầng lớp nào, lứa tuổi nào, Người cũng luôn dặn dò mọi người phải giữ gìn và nâng cao sức khỏe. Đối với các cháu thiếu nhi, Người khuyên “Phải siêng tập thể thao cho mình mẩy được nở nang”. Trong lần về thăm bệnh xá Vân Đình vào ngày 20/4/1963, Bác căn dặn: “cần chú ý đến việc phòng bệnh, tuyên truyền và giải thích cho đồng bào xung quanh nhà thương và trong huyện biết cách giữ gìn vệ sinh, làm cho mỗi người bệnh khi khỏi bệnh biết cách phòng bệnh cho họ và gia đình họ…”.

Bác Hồ thăm Bệnh xá Vân Đình, năm 1963. Ảnh Internet

Năm 1964, trong Hội nghị chính trị đặc biệt họp tại Thủ đô Hà Nội, khi thấy Giáo sư Nguyễn Xuân Nguyên (Viện trưởng Viện mắt), Bác liền hỏi: Chú chữa mắt, chú có biết vì sao về các thôn, xóm vẫn thấy các cháu còn toét mắt nhiều? Và trong lúc giáo sư tìm câu trả lời thì Bác đã nói: Các cô, các chú chưa chú ý tuyên truyền vệ sinh phòng bệnh trong nhân dân. Phải đẩy mạnh công tác phòng các bệnh mắt sâu rộng bằng nhiều cách thì mới ăn sâu vào ý thức của mỗi người.

Trong cuộc đời, không ai muốn mình bị mang bệnh tật, ốm đau bởi “sức khỏe là vàng”. “Chữa bệnh” vừa đau đớn, vừa tốn kém về thời gian, tiền bạc. “Phòng bệnh” vừa giúp mọi người tăng cường sức khỏe, tránh được tổn hại về thể lực, tinh thần và tài chính; chủ động hơn với thời gian và cuộc sống của mình; đóng góp nhiều hơn cho gia đình, xã hội. Chính vì lẽ đó mà người ta lựa chọn: “phòng bệnh hơn chữa bệnh”.

Thứ tư, “Lương y phải như từ mẫu”.

Nghề thầy thuốc là một nghề cao quí, bởi đây là nghề chữa bệnh cứu người. Đối với các nghề khác nếu mắc phải sai lầm có thể còn có cơ hội để sửa đổi, còn đối với nghề y, nếu xảy ra một lỗi lầm hay một thiếu sót dù rất nhỏ cũng có thể gây nên những tác hại lớn đến sức khỏe và thậm chí đến tính mạng của con người, mà người mắc lỗi có khi không còn cơ hội sửa chữa, khắc phục được nữa. Cho nên, người thầy thuốc không chỉ phải giỏi về chuyên môn mà còn phải có tâm, có đức. Y đức là phẩm chất tốt đẹp, là giá trị cốt lõi của người làm công tác y tế, được biểu hiện ở tinh thần trách nhiệm cao, tận tụy phục vụ, hết lòng thương yêu chăm sóc người bệnh như chăm lo cho những người thân yêu trong gia đình của mình.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Lương y phải như từ mẫu” nghĩa là người thầy thuốc đồng thời phải như một người mẹ hiền. “Người thầy thuốc chẳng những có nhiệm vụ cứu chữa bệnh tật mà còn phải nâng đỡ tinh thần những người ốm yếu” (Thư gửi Hội nghị Quân y, tháng 3/1948).
Năm 1955, trong thư gửi cán bộ y tế toàn quốc, Bác viết: “Người bệnh phó thác tính mệnh của họ nơi các cô chú. Chính phủ phó thác cho các cô, các chú việc chữa bệnh tật và giữ gìn sức khỏe của đồng bào. Đó là nhiệm vụ rất vẻ vang. Vì vậy, cán bộ phải thương yêu, phải săn sóc người bệnh như anh em ruột thịt của mình, coi họ đau đớn như mình đau đớn. “Lương y phải như từ mẫu”, câu nói đó rất đúng”.

Khi vào thăm Bệnh xá Vân Đình, Người căn dặn: “Trong công tác phục vụ cần coi trọng cả hai mặt vật chất và tinh thần. Có thuốc tốt thức ăn ngon còn cần có thái độ phục vụ tốt, coi người bệnh như ruột thịt”.

Người nhắc cán bộ y tế: “Đừng ngại khó, ngại khổ. Phải lao mình vào chỗ bẩn để làm cho sạch, phải dấn thân vào chỗ đau để giảm bớt khổ đau, lương y phải như từ mẫu, phải dịu dàng khiêm tốn, không được hách dịch, ban ơn”.

“Lương y phải như từ mẫu” – lời dạy của Bác là yếu tố cốt lõi của đạo đức ngành y. Y đức thể hiện từ trong suy nghĩ đến hành động. Thực hiện theo lời dạy của Bác, người cán bộ y tế phải niềm nở, dịu dàng trong tiếp xúc với bệnh nhân; tận tình, cẩn trọng khi chăm sóc; ân cần, tỉ mỉ lúc dặn dò. Không được có thái độ coi thường, lạnh nhạt, dùng những lời nói vô lễ đối với người bệnh và gia đình người bệnh; không được đùn đẩy, gây phiền hà cho bệnh nhân; không được tùy tiện, qua loa, tắc trách,… dẫn đến bỏ sót bệnh, nhầm lẫn, sai sót có hại cho sức khỏe và tính mạng người bệnh,…

“Lương y như từ mẫu” là một lời khái quát ngắn gọn nhất về bản chất đạo đức của người thầy thuốc. Đó là tư tưởng quán triệt trong truyền thống y học Việt Nam từ Tuệ Tĩnh, Lãn Ông cho đến ngày nay. Trong lịch sử ngành Y tế, các thầy thuốc của thế hệ đi trước như Phạm Ngọc Thạch, Đặng Văn Ngữ, Tôn Thất Tùng, Đặng Văn Chung, Trần Hữu Tước, Đỗ Tất Lợi và thế hệ tiếp nối như Tôn Thất Bách, Lê Thế Trung, Đặng Thuỳ Trâm v.v.. đã để lại tấm gương sáng ngời về y đức, cống hiến trọn đời cho sự nghiệp y học và y tế của nước nhà.

Đất nước bước vào thời kỳ hội nhập và phát triển. Người thầy thuốc hiện nay đang phải đấu tranh với những tác động tiêu cực của cơ chế thị trường. Thời gian vừa qua, hiện tượng “phong bì” đang diễn ra phổ biến trong các bệnh viện, làm xói mòn giá trị đạo đức của người hoạt động nghề Y. Người dân bức xúc trước sự thiếu trách nhiệm, thái độ thờ ơ, ứng xử thiếu tôn trọng đang có xu hướng gia tăng của một bộ phận cán bộ y, bác sĩ đối với người bệnh. Điều này trở thành nỗi đau nhức nhối của toàn xã hội, của những người thầy thuốc tâm huyết với nghề. Trước những cám dỗ của đồng tiền, người thầy thuốc phải giữ bản lĩnh của mình, nhìn thẳng vào căn bệnh, vào thể trạng bệnh nhân mà điều trị, không phân biệt giàu nghèo để có sự quan tâm như nhau, phải lấy tư tưởng y đức của Bác làm kim chỉ nam để không bị lầm đường lạc lối gây ra những buồn phiền cho người bệnh.

Thứ năm, xây dựng nền y học khoa học, dân tộc và đại chúng; kết hợp Đông y và Tây y.

Người từng viết: “Trong những năm nước ta bị nô lệ, thì y học cũng như các ngành khác đều bị kìm hãm. Nay chúng ta đã độc lập tự do, cán bộ cần giúp đồng bào, giúp Chính phủ xây dựng một nền y tế thích hợp với nhu cầu của nhân dân ta. Y học càng phải dựa trên nguyên tắc: Khoa học, dân tộc và đại chúng.

Ông cha ta ngày trước có nhiều kinh nghiệm quý báu về cách chữa bệnh bằng thuốc ta, thuốc bắc. Để mở rộng phạm vi y học, các cô các chú cũng nên chú trọng nghiên cứu và phối hợp thuốc “đông” và thuốc “tây”. (Thư gửi Hội nghị cán bộ y tế, ngày 27/2/1955).

Ngày 16/1/1961, khi đến thăm Viện Nghiên cứu Đông y ở Hà Nội, Bác Hồ căn dặn: “Thuốc tây chữa được nhiều bệnh, nhưng cũng có bệnh chữa không được mà thuốc ta chữa được; thuốc ta chữa được nhiều bệnh, nhưng cũng có bệnh chữa không được mà thuốc tây chữa được… Bên nào cũng có cái ưu điểm, hai cái ưu điểm cộng lại thì chữa được bệnh tốt cho đồng bào, cho nhân dân, phục vụ cho xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thầy thuốc tây phải học Đông y, thầy thuốc ta cũng phải học Tây y… Thầy thuốc ta và thầy thuốc tây đều phục vụ nhân dân, như người có hai cái tay, hai bàn tay cùng làm việc thì làm việc được tốt, cho nên phải đoàn kết từ trên xuống dưới, từ dưới lên, đoàn kết thuốc ta và thuốc tây thành một khối để chữa bệnh cho đồng bào”. Đó chính là sự kết hợp giữa y học hiện đại và y học dân tộc.

Năm 1955, Hội nghị cán bộ y tế được tổ chức tại Thủ đô Hà Nội, vào đúng ngày 27/02/1955, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư cho Hội nghị. Bức thư ấy đã trở thành tài sản vô giá của ngành Y tế nước ta. Do ý nghĩa sâu sắc của bức thư này, ngày 06/02/1985, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã ban hành Quyết định số 39/HĐBT lấy ngày 27/02 hàng năm làm “Ngày Thầy thuốc Việt Nam” và cũng kể đó, ngày 27/02 đã trở thành ngày truyền thống của ngành Y tế.

Thực hiện Chỉ thị số 06 – CT/TW ngày 07/11/2006 của Bộ Chính trị về tổ chức cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, Quyết định số 01-QĐ/BCĐCVĐ ngày 22/10/2007, Ban Chỉ đạo Trung ương cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” đã chọn ngành y tế là đơn vị chỉ đạo điểm Cuộc vận động. Ngành y tế đã quán triệt sâu sắc rằng đây là một cuộc vận động chính trị lớn, là một chủ trương đúng đắn của Đảng, có ý nghĩa trước mắt và lâu dài, là cơ hội quý giá để ngành y tế tiếp tục đẩy mạnh việc tuyên truyền giáo dục cán bộ công chức, viên chức nâng cao trách nhiệm và đạo đức nghề nghiệp của mình theo lời dạy của Bác Hồ với tâm nguyện: Những người thầy thuốc Việt Nam chung lòng phấn đấu thực hiện lời dạy của Người đối với ngành Y tế Việt Nam “Lương y phải như từ mẫu”- tất cả vì sức khỏe của mỗi người dân, và của cộng đồng-một yếu tố cơ bản được tạo thành dân cường nước thịnh, quốc thái dân an.

Những tư tưởng sâu sắc của Người đối với ngành Y tế là di sản quý giá cho các thế hệ thầy thuốc Việt Nam, là nền tảng đạo lí của người làm nghề y, là định hướng đúng đắn cho mọi hoạt động xây dựng và phát triển ngành Y tế nước nhà. Trong giai đoạn hiện nay, hơn lúc nào hết, ngành Y tế cần đẩy mạnh thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, “Thầy thuốc phải như mẹ hiền” và xây dựng nền y tế nước nhà “hiện đại, hiệu quả, phát triển và công bằng”, góp phần làm cho đất nước phát triển hùng mạnh, sánh vai với các cường quốc năm châu như Chủ tịch Hồ Chí Minh hằng mong muốn.

Trong những ngày này, đội ngũ cán bộ, công nhân viên phục vụ trong ngành Y tế trên cả nước đang hướng tới kỷ niệm 57 năm Ngày Thầy thuốc Việt Nam (27/2/1955 – 27/2/2012). Khắc sâu lời dạy của Người: “Thầy thuốc phải như mẹ hiền”, toàn ngành Y tế Việt Nam đang nỗ lực không ngừng, ra sức thi đua phấn đấu nâng cao chất lượng khám chữa bệnh phục vụ nhân dân để xứng đáng với lòng tin yêu, dạy dỗ của Bác Hồ kính yêu, sự tin tưởng của Đảng, sự mong đợi của nhân dân và vì một đất nước Việt Nam hùng mạnh.

Thu Hiền

bqllang.gov.vn