Bài nói tại Đại hội Đảng bộ tỉnh Nam Định (21-5-1963)

Bác và đồng chí Thọ, đồng chí Lương, thay mặt Trung ương Đảng, thân ái hỏi thǎm các đồng chí đại biểu.

Mấy hôm nay, các đồng chí đã thảo luận kỹ các vấn đề. Đồng chí Thọ thay mặt Trung ương cũng đã góp nhiều ý kiến với Đại hội.

Sau khi Hội nghị Trung ương lần thứ tám đã thông qua phương hướng kế hoạch 5 nǎm lần thứ nhất, Đại hội Đảng bộ Nam Định lần này dựa vào đó, đã bàn bạc các vấn đề một cách thuận lợi.

Hôm nay, Bác chỉ nêu vài ý kiến để các đồng chí tham khảo.

Về tình hình Nam Định, trong mấy nǎm qua đảng bộ và nhân dân tỉnh nhà đã cố gắng vươn lên và thu được một số thành tích về các mặt.

Về nông nghiệp:

Các hợp tác xãnói chung đã được củng cố hơn trước, các cấp uỷ đã biết vận động đồng bào lương và giáo xây dựng được những hợp tác xã tốt, như: hợp tác xã Đồng Quỹ, Đài Môn, Tân Khang, Đại Đồng, Thượng Lỗi, v.v.. Nhờ các hợp tác xã được củng cố, cho nên trong hai nǎm qua, tuy bị thiên tai ba vụ, nhưng sản xuất nông nghiệp vẫn phát triển cả về nǎng suất, diện tích và sản lượng. Nǎng suất lúa bình quân trong hai nǎm (1961 – 1962) đạt 19 tạ 70 cân (so với nǎng suất ba nǎm trước có tǎng mỗi mẫu tây 37 cân, nhưng tǎng còn ít).

So với hồi nǎm 1958, Bác về thǎm tỉnh nhà thì đến nay, ba huyện miền đồng chiêm có phong trào đắp bờ, khoanh vùng, cấy cưỡng, đã biến hơn 12.000 mẫu tây một vụ thành hai vụ. Việc trồng màu gần đây có được chú ý hơn, nhờ đó mà lương thực hai nǎm qua có tǎng, đời sống của nhân dân tuy có nơi còn khó khǎn, nhưng nói chung đã được ổn định hơn trước.

Nhiệm vụ đối với Nhà nước như nộp thuế, trả nợ và thu mua trong nǎm 1962, các cấp uỷ đǎ hoàn thành khá nhanh và gọn.

Nhưng về hoa màu, đồng bào Nam Định trồng còn quá ít. Các cấp uỷ phải vận động nhân dân trồng nhiều hoa màu hơn nữa, nhất là khoai nước và dong riềng, để có thêm lương thực cho người và thức ǎn cho gia súc. Một ví dụ tốt: xã Trực Bình (huyện Trực Ninh) bình quân diện tích chỉ non hai sào. Nhưng nhờ đồng bào xã ấy đã ra sức trồng nhiều khoai nước mà đàn lợn đã tǎng gần gấp đôi. Nhờ có nhiều lợn mà có nhiều phân. Nhờ có nhiều phân mà nǎng suất một sào lúa từ 630 cân tǎng lên 784 cân. Nhờ nǎng suất lúa tǎng mà lương thực cũng tǎng (tính theo đầu người, nǎm 1960 chỉ có 323 cân, nǎm 1962 tǎng lên 462 cân). Đó là một kinh nghiệm tốt.

Phải vận động đồng bào trồng nhiều cây công nghiệp ở những nơi có điều kiện như trồng cói, trồng dừa… ở Nam Định trước đây có tập quán trồng dâu nuôi tằm, nhưng đến nay mới khôi phục được một phần nǎm so với trước. Đó là một thiếu sót lớn cần phải khắc phục.

Phải chú ý vận động đồng bào trồng cây ǎn quả như: cam, chanh, chuối… vàtrồng cây lấy gỗ như: xoan, tre, v.v..

Phải ra sức phát triển chǎn nuôi để thêm sức kéo, thêm phân bón, đồng thời tǎng thu nhập cho nông dân và có thêm thịt để cung cấp cho nhân dân.

Việc cải tiến kỹ thuật, là một điều rất quan trọng để phát triển nông nghiệp, Nam Định phải đẩy mạnh hơn nữa.

Về thuỷ lợito và vừa vẫn phải coi trọng. Đồng thời phải làm nhiều thuỷ lợi nhỏ, khoanh vùng, đắp bờ, chống úng ở miền bắc tỉnh và chống chua mặn ở các huyện miền ven biển.

Về phân bónthì hợp tác xã Tân Khang đã có thành tích khá. Nhưng chưa thành phong trào mạnh mẽ. Hiện nay trong tỉnh còn tới 30% ruộng cấy chay. Cần vận động đồng bào chấm dứt tệ hại ấy “Một vốc phân là một cân thóc”, muốn có nhiều lúa, nhiều khoai thì nhất định phải dùng nhiều phân bón.

Về cải tiến công cụ cũng có những kinh nghiệm tốt như huyện Nghĩa Hưng trước kia phải tốn một triệu ngày công để chuyển hơn 220.000 tấn phân ra đồng, nay nhờ dùng thuyền và dùng xe mà đã bớt được hơn 110.000 ngày công – Xã Giao Hải(huyện Giao Thuỷ) nhờ phát triển thuyền mà vụ chiêm nǎm 1962 gặt nhanh hơn vụ chiêm nǎm 1961, lại dôi được hơn 4.000 ngày công. Như thế vừa đỡ tốn sức lao động, vừa dành được nhiều ngày công để làm các việc khác.

Tại sao những việc Trực Bình, Nghĩa Hưng, Giao Hải làm được, các nơi khác lại không làm được? Đó là vì cán bộ các nơi khác không biết học tập những kinh nghiệm tốt.

Ở Nam Định người đông ruộng ít. Trong Đại hội này, các đồng chí đã bàn đến cuộc vận động đồng bào đi xây dựng kinh tế miền núi, miền biển, như thế là đúng. Nhưng cần phải có kế hoạch thật đầy đủ để thực hiện cho thật tốt.

Hiện nay, tỉnh ta đang tiến hành cuộc vận động cải tiến quản lý hợp tác xã, cải tiến kỹ thuật nhằm phát triển sản xuất nông nghiệp toàn diện, mạnh mẽ và vững chắc, các cô, các chú cần phải thực hiện đúng và tốt nghị quyết của Bộ Chính trị về vấn đề này. Tỉnh uỷ, huyện uỷ, đảng uỷ xã phải trực tiếp lãnh đạo. Cán bộ tỉnh và huyện phải phân công đến tận hợp tác xã, thực tế cùng cán bộ cơ sở làm việc. Đi bước nào phải thật vững chắc bước ấy. Làm nơi nào phải thật tốt nơi ấy. Không lề mề, nhưng không nóng vội.

Nam Định có 18 vạn đồng bào công giáo, các cấp uỷ phải thật quan tâm đến phần đời và phần đạo của đồng bào công giáo. Hiện nay trong tỉnh đã có 62% hộ giáo dân vào hợp tác xã. Có những hợp tác xã khá tốt như Đài Môn, Đồng Quỹ, úy Như Nam… Đồng bào công giáo càng hiểu rõ chính sách của Đảng thì càng gắn bó với hợp tác xã. Cho nên phải ra sức giúp đỡ củng cố và phát triển tốt các hợp tác xã của đồng bào công giáo nhằm làm cho hợp tác xã ngày càng vững chắc. Xã viên thu nhập ngày càng tǎng, đời sống ngày càng no ấm hơn.

Về công nghiệp:

Trong hai nǎm qua sản xuất có phát triển tiến bộ hơn trước. Nǎm 1962 Nhà máy dệt đã hoàn thành các chỉ tiêu kế hoạch của Nhà nước. Bác gửi lời khen ngợi công nhân và cán bộ Nhà máy dệt. Nǎm nay càng phải cố gắng hơn, ra sức thi đua với Nhà máy dệt Bình Nhưỡng (Triều Tiên) để hoàn thành vượt mức kế hoạch nǎm 1963 và kế hoạch 5 nǎm.

Công nghiệp địa phương và thủ công nghiệp, Tỉnh uỷ chưa lãnh đạo tốt, nhưng gần đây cũng đã bước đầu cố gắng phục vụ nông nghiệp như sản xuất vôi, phân bón, chế biến dong riềng và khoai nước, sản xuất hàng tiêu dùng cho nông dân.

Thủ công nghiệp,tỉnh ta có gần 6 vạn người thủ công nghiệp đã vào hơn 270 hợp tác xã. Về mặt tổ chức như thế là tốt. Nhưng về mặt quản lý thì còn nhiều khuyết điểm. Cuộc điều tra 83 hợp tác xã cho thấy rằng: khuyết điểm phổ biến là quản lý không tốt, sổ sách luộm thuộm, chất lượng thấp kém. Nội bộ không dân chủ. Thường có tệ tham ô, lãng phí, quan liêu. Ví dụ hợp tác xã Quang Trung, Rạng Đông, Thép Mới, Thắng Lợi, Đồng Tâm… Các cấp uỷ cần phải giúp các hợp tác xã thủ công chấn chỉnh lại cho tốt, vì thủ công nghiệp cũng là một bộ phận quan trọng trong kinh tế Nhà nước và quan hệ đến đời sống của hàng vạn đồng bào.

Bác mong rằng, từ nay cán bộ và công nhân đều ra sức thi đua phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật hơn nữa để nâng cao nǎng suất lao động, sản xuất được nhiều, nhanh, tốt, rẻ, phục vụ cho nhân dân.

Để thiết thực đẩy mạnh phát triển kinh tế hơn nữa thì tỉnh uỷ, các đảng uỷ và cán bộ phụ trách các cơ quan, các xí nghiệp, công trường và mậu dịch cần phải thực hiện cho có kết quả tốt cuộc vận động “nâng cao tinh thần trách nhiệm, tǎng cường quản lý kinh tế tài chính, cải tiến kỹ thuật, chống tham ô, lãng phí, quan liêu”. Phải biết kết hợp chặt chẽ các cuộc vận động này với phong trào thi đua thực hiện thắng lợi kế hoạch Nhà nước nǎm 1963 và kế hoạch 5 nǎm.

Về các ngành kinh tế, vǎn hoá khác:

Về các ngành kinh tế, vǎn hoá khác, Nam Định cũng đã đạt những thành tích khá như:

Giao thông vận tải, đã cố gắng phát triển giao thông ở nông thôn, nhưng vận tải đường sông thì còn kém.

Giáo dục, phát triển khá về số lượng, nhưng kém về chất lượng, vì thiếu giáo dục chính trị và đạo đức cách mạng cho học sinh.

Phong trào vệ sinh phòng bệnh, cũng đã có những nơi tốt, như xã Nghĩa Phú (Nghĩa Hưng).

Phong trào bảo vệ trị an, cũng đạt kết quả khá, dân quân tự vệ có tiến bộ, nhưng còn phải cố gắng nhiều.

Về lãnh đạo:

Nam Định có hơn một triệu nhân dân, có gần 2 vạn 5 nghìn đảng viên và hơn 3 vạn 6 nghìn đoàn viên thanh niên lao động. Tức là cứ 100 người thì có 2 đảng viên và 3 đoàn viên. Thế là ít. Đảng viên gái (2.554 đồng chí) cũng quá ít. Cần phải có kế hoạch chu đáo để phát triển Đảng và Đoàn hơn nữa, cần phải rất chú trọng củng cố chi bộ. Đồng bào Nam Định rất chất phác, cần cù, lại có truyền thống anh dũng trong thời kỳ cách mạng và kháng chiến. Cán bộ nói chung đều tận tụy. Cho nên tỉnh ta đã có thành tích về các mặt công tác.

Nhưng chúng ta phải thật thà nhận rằng: thành tích còn ít và tiến bộ còn chậm. Vì lãnh đạo còn yếu. Các cấp, từ chi bộ đến Tỉnh uỷ, phải vì lợi ích chung của Đảng và của nhân dân mà tự phê bình một cách thành khẩn và thẳng thắn. Mỗi đảng viên, mỗi chi bộ phải luôn luôn tự hỏi: mình đã xứng đáng với vai trò lãnh đạo của Đảng hay là chưa? Sự thật là sinh hoạt nhiều chi bộ còn chưa tốt, việc giáo dục đảng viên chưa được chặt chẽ và kịp thời. Có cán bộ, đảng viên còn lãng phí nhiều trong việc cưới xin, ma chay trong gia đình mình. Thậm chí có đảng viên còn nấu rượu lậu. Họ phạm kỷ luật của Đảng, phạm pháp luật của Nhà nước, họ mất đạo đức cách mạng của người đảng viên, làm gương xấu cho quần chúng.

Trong Tỉnh uỷ thì kém đoàn kết, nội bộ thiếu dân chủ. Tỉnh uỷ mà thiếu đoàn kết thì đoàn kết sao được đảng viên và nhân dân. Kết quả là ảnh hưởng không tốt đến các ngành, các cấp trong tỉnh, đến việc thực hiện các chủ trương công tác chung của địa phương. Do đó mà Tỉnh uỷ lãnh đạo yếu, lãnh đạo còn chung chung, chưa đi sâu đi sát, chưa chú ý việc lãnh đạo điển hình, thiếu tập trung thường xuyên vào công tác trung tâm.

Ngay trên tỉnh cũng còn hiện tượng hình thức, tốn kém tiền bạc của Nhà nước, lãng phí công sức của nhân dân, như việc làm cổng của nhà triển lãm, việc phá đi xây lại nền nhà của Tỉnh ủy… Trung ương và Bác rất phiền lòng về những khuyết điểm ấy. Chúng ta phải luôn luôn thật thà tự phê bình và nghiêm chỉnh phê bình để cùng nhau tiến bộ.

Bác mong rằng sau Đại hội này, toàn Đảng bộ Nam Định sẽ ra sức khắc phục khuyết điểm; phát triển ưu điểm, đoàn kết một lòng, thực hiện đầy đủ nghị quyết của Đại hội, biến nghị quyết đó thành quyết tâm của đảng viên, đoàn viên và đồng bào cả tỉnh, để xây dựng tỉnh Nam Định thành một tỉnh giàu mạnh, làm kiểu mẫu cho toàn miền Bắc, thiết thực góp phần xứng đáng vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thực hiện hoà bình thống nhất nước nhà.

Chúc các đại biểu mạnh khoẻ, chúc Đại hội thành công.

Nói ngày 21-5-1963.

————————

Báo Nhân dân,số 3345, Ngày 25-5-1963.
cpv.org.vn

Advertisement