(GD&TĐ) – “Tôi nhớ mãi sáng tháng Năm ấy… Trời cao và trong xanh. Mây trắng lững lờ trôi trên bầu trời Ba Đình. Trong vườn Bác, chim nhảy chuyền cành, gọi nhau ríu rít”.
Đó là những dòng hồi ký đầy xúc động của đồng chí Vũ Kỳ – người “đầy tớ trung thành” thực thụ của Chủ tịch Hồ Chí Minh gần ba thập kỷ như ông tự nhận – khi kể lại ngày đầu tiên Người đặt bút viết “mấy lời gửi lại” cho đồng bào cả nước và đồng chí trong Đảng. 48 năm về trước, khi bước vào tuổi 75, “với tinh thần vẫn sáng suốt, thân thể vẫn khỏe mạnh”, Bác Hồ bắt đầu tài liệu “Tuyệt đối bí mật” mà ngày nay chúng ta gọi đó là Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bản Di chúc được Bác khởi thảo từ ngày 10/5/1965 và Người xem lại lần cuối vào ngày 19/5/1969.
Di chúc của Bác “Trước hết nói về Đảng”, vì Đảng là nhân tố quyết định thành công của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc cũng như công cuộc xây dựng lại đất nước sau này. Tháng 5 – 1968, Người đã bổ sung vào Di chúc một điểm chỉ dẫn quan trọng: Ngay sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đã hoàn toàn thắng lợi thì “việc cần phải làm trước hết là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi Đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình, khó khăn mấy chúng ta cũng nhất định thắng lợi”. Toàn văn bản viết Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh về phần xây dựng chỉnh đốn Đảng đã thể hiện sức sống tư tưởng của Người trong khả năng vận dụng sáng tạo những lý luận cơ bản nhất về xây dựng Đảng cầm quyền của Chủ nghĩa Mác – Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của cách mạng nước ta.
Di chúc được khởi thảo trong khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta đang đi vào thời kỳ quyết liệt nhất: Mỹ ồ ạt đưa 50 vạn quân vào miền Nam, chuyển chiến lược chiến tranh đặc biệt sang chiến tranh cục bộ. Hơn nữa, ở hậu phương lớn miền Bắc phải tiếp tục chống lại cuộc chiến tranh phá hoại ngày càng ác liệt nhằm biến nơi đây trở về thời kỳ đồ đá của đế quốc Mỹ. Thế nhưng, toàn bộ Di chúc toát lên khí phách, tinh thần lạc quan chiến thắng của một bậc đại nhân, đại trí, đại dũng, luôn tin tưởng vào tương lai tất thắng của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cũng như của sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước trong tương lai: “Cuộc chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ, hy sinh nhiều hơn nữa song nhất định thắng lợi hoàn toàn. Đó là một điều chắc chắn.
Dù khó khăn gian khổ đến mấy, nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định phải cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà. Nước ta sẽ có vinh dự lớn là một nước nhỏ mà đã anh dũng đánh thắng hai đế quốc to – là Pháp và Mỹ; và đã góp phần xứng đáng vào phong trào giải phóng dân tộc”. Đó là niềm tin, là ý chí, lòng quyết tâm của Bác và của cả dân tộc. Niềm tin đó xuất phát từ đường lối độc lập tự chủ, từ phương pháp và nghệ thuật lãnh đạo cách mạng sáng tạo của Đảng. Niềm tin đó xuất phát từ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, từ tinh thần hy sinh anh dũng của bao người Việt Nam từ thế hệ này đến thế hệ khác. Niềm tin đó còn xuất phát từ sự ủng hộ, giúp đỡ to lớn của nhân dân yêu chuộng hòa bình trên toàn thế giới. Nhìn thấy trước một nước Việt Nam thắng lợi hoàn toàn, đồng bào sum họp một nhà, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra cho Đảng ta và Nhà nước ta những việc cần làm sau chiến tranh rất cụ thể, tỉ mỉ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra cho Đảng ta và Nhà nước ta những việc cần làm sau chiến tranh rất cụ thể
Sức sống lớn lao và ánh sáng kỳ diệu tỏa ra trong toàn bộ Di chúc đó là những tư tưởng nhân văn cách mạng ngời sáng và đầy giá trị nhân văn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, mà biểu hiện sinh động nhất chính là tình yêu thương sâu sắc đối với con người. Tư tưởng vì nhân dân, vì con người là điều nổi bật và xuyên suốt cuộc đời Bác mà kết tinh ở đỉnh cao trong bản Di chúc lịch sử.
Có thể nói, điều làm nên giá trị tinh thần lớn lao và ý nghĩa sâu sắc của Di chúc chính là quan điểm vì con người và giải phóng con người thấm đượm chủ nghĩa nhân đạo cao cả. Một chủ nghĩa nhân văn cách mạng sáng ngời lý tưởng cộng sản được kết tinh trong một con người vĩ đại nhất của dân tộc.
Tuy không nói nhiều về nhân dân và cách mạng thế giới, nhưng trong Di chúc, chúng ta vẫn thấy rất rõ tình cảm và tư tưởng của Người về sự gắn bó giữa nhân dân và cách mạng Việt Nam với nhân dân và sự nghiệp cách mạng thế giới nói chung.
Di chúc của Bác đề cập đến nhiều lĩnh vực khác nhau như: Chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội… của đời sống mỗi người dân Việt Nam. Nó vạch ra những vấn đề mang tính chất cương lĩnh định hướng cho sự phát triển của đất nước sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta giành được thắng lợi. Vậy mà khác với các văn bản chính luận khác, ẩn chứa bên trong mỗi từ, mỗi câu của bản Di chúc là một chất thơ được kết tụ bởi sự dồn nén cảm xúc, tình yêu thương đối với thiên nhiên, con người và cuộc đời. “Muôn vàn thương yêu” mà Người gửi lại trong Di chúc thiết tha và xúc động đối với triệu triệu trái tim hôm qua và hôm nay. Những dòng chữ như một lời tạ từ, một sự lỗi hẹn vì biết mình không kịp thấy, không kịp làm điều mình ấp ủ của một tâm hồn lớn, một nhân cách lớn.
Nếu như Tuyên ngôn độc lập là bản anh hùng ca khai sinh ra nước Việt Nam mới, thì Di chúc trở thành ánh sáng tương lai
Lịch sử đã có sự trùng hợp thiêng liêng và kỳ diệu. Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngày 2/9/1969, Người đi vào thế giới Người Hiền tại ngôi nhà sàn đơn sơ cũng thuộc Quảng trường Ba Đình lịch sử với lời nhắn gửi đến toàn Đảng, toàn quân và toàn dân trong bản Di chúc lịch sử. Nếu như Tuyên ngôn độc lập là bản anh hùng ca khai sinh ra nước Việt Nam mới, thì Di chúc là sự thể hiện thành công trọn vẹn bản khai sinh đất nước và trở thành ánh sáng tương lai. Di chúc là một văn kiện có cách viết độc đáo, trong đó tồn tại song song giữa cái vĩ đại và cái bình thường, cái mãnh liệt nồng nàn và cái điềm đạm, sâu lắng vừa trang trọng, vừa gần gũi. Với trách nhiệm trước hậu thế, Người đã cân nhắc từng ý, từng lời, nhưng mỗi ý, mỗi lời đều giản dị, chân thành, trong sáng, tự nhiên như chính cuộc đời mà Người đã sống – một tấm gương để chúng ta suốt đời học tập và làm theo.
Th.S Nguyễn Kim Thành (Bảo tàng cách mạng Việt Nam)
gdtd.vn