Chị gái Bác Hồ – Người mẹ xứ Nghệ

Bà Thanh và mẹ

Năm 1949, tôi là nữ chiến sĩ của Đại đội quân y dã chiến thuộc Trung đoàn 9, Sư đoàn 304, trực tiếp đánh quân Pháp ở chiến trường Liên khu 4. Năm ấy, Tôi mới 21 tuổi, khá xốc vác, hăng hái. Đại đội quân y trung bình 7-8 ngày lại phải hành quân chuyển địa điểm đóng quân để tránh máy bay địch, bảo toàn cán binh cùng phương tiện quân y, thuốc men… Đang tuổi thanh niên, nên tôi đủ sức theo kịp đơn vị.

Đại đội tôi toàn là nam, chỉ có tôi là nữ. Đại đội chỉ có vài y sĩ, y tá, còn toàn là những người mới học cấp tốc nghiệp vụ y tế phục vụ chiến trường. Một lần, đơn vị hành quân suốt đêm, gần 2 giờ sáng thì tới địa phận xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Đơn vị quyết định trú quân lại. Tôi được xếp ở nhà bà Nguyễn Thị Thanh. Đại diện địa phương cho Tôi biết đó là nhà chị ruột Hồ Chủ tịch. Thấy tôi còn trẻ các đồng chí dặn thêm vài câu rồi chào bà Thanh, tạm biệt tôi, quầy quả đi nhanh để tiếp tục công việc sắp xếp chỗ ở cho các chiến sĩ.

Đặt ba lô xuống cạnh cột nhà, tôi hỏi thăm sức khỏe bà Thanh. Bà chừng hơn 60 tuổi, mắt sáng, người hơi gầy, giọng nói ấm, thân tình, dễ mến. Nhà bà Thanh chỉ là một ngôi nhà nhỏ, lợp tranh đơn sơ, mộc mạc như bao ngôi nhà của đồng bào miền Trung lúc đó. Trong nhà, mọi thứ được sắp xếp ngăn nắp, sạch sẽ, gọn gàng, đồ đạc rất ít, ngoài cái rương nhỏ, có kim, chỉ khâu để trong cái đĩa cũ xếp trên rương. Quần áo mặc hàng ngày mắc trên đinh đóng vào chiếc cột nhà. Chỗ ngủ chỉ có 1 cái chõng tre đã lên nước màu vàng bóng nên tối đến, hai bác cháu phải ngủ chung. Mùa đông năm 1949 rét lạ thường, như cắt da thịt. Hai bác cháu bàn nhau dùng rơm đánh thành 2 chiếc nệm rơm ghép với nhau trải lên chõng. Nằm trên nệm rơm tự tạo, bà còn đắp thêm chiếc chăn dạ cũ đã sờn, còn tôi đắp chiếc chăn trấn thủ của bộ đội và mặc tất cả áo quần vào cho ấm.

Buổi tối, sau một ngày ra Trú xá quân y chăm sóc thương bệnh binh, sinh hoạt như người lính, ăn cơm độn khoai sắn và có khi còn tập văn nghệ đến khản cổ… tôi về nhà thì bà Thanh đã ăn tối xong, ngồi trên võng chờ tôi như người thân.

Chiếc bếp nối với nếp nhà gianh cũng được bà Thanh dọn dẹp tinh tươm: 3 ông đầu rau sạch sẽ, cạnh là 2 chiếc nồi nhỏ, xa một chút có 2 cái bát, 2 thìa, bó đũa con, đôi đũa cả, con dao cau xếp vào cái rổ vừa, trên úp một cái sàng cũ. Đàng sau bếp có bồ cào, cuốc, lưỡi hái, dây thừng… móc lên tường bếp. Ngoài bếp có chiếc bể cạn đựng nước mưa trong vắt.

Buổi tối bà Thanh thường thắp đèn dầu đến chừng 7 giờ rồi tắt đèn. Nằm trên chõng bà hay kể cho tôi nghe chuyện đời một cách giản dị, dí dỏm chứ không theo kiểu răn dạy. Nhờ bà Thanh, tôi biết khá nhiều về phong tục, tập quán, danh lam, thắng cảnh xứ Nghệ; hiểu được cách sống đậm nghĩa tình, đùm bọc nhau của người dân quê bà. Tôi được nghe các làn điệu ví dặm đặc sắc như: “Mùa đông tháng giá. Sang mùa hạ nắng nồng. Em đắp chiếc nằm không…Mùa nào cũng buồn tênh. Bốn mùa cứ buồn tênh. Bao giờ hết buồn tênh?”

Cuối câu chuyện bà hay nhấn mạnh: Ở đời quý nhất là thiện lương, thương người. Làm gì cũng phải nghĩ đến điều đó.

Phía trên cửa sổ gian nhà chính, bà Thanh có treo bức ảnh chụp ông bà thân sinh và mấy anh chị em nhà bà. Bức ảnh chụp rất rõ, trong đó bà Thanh chừng 15 tuổi, ngồi phía trước cùng cậu em Nguyễn Sinh Cung (Bác Hồ sau này). Đôi khi tôi mạnh dạn hỏi về Bác Hồ, bà chỉ xa xăm: chú nớ suốt đời vì việc công, xa quê hương, chòm xóm, người thân…Bà khẽ thở dài.

Biết cha tôi mới mất (Cha tôi là cụ Nguyễn Văn Lanh, một trong những thẩm phán đầu tiên của chính quyền cách mạng, được bổ nhiệm nhận công việc tại châu Văn Chấn- Phú Thọ và ốm, mất trên đường công tác năm 1949), các chị em tôi đều tham gia kháng chiến, mẹ tôi ở xa… nên bà thương tôi lắm.

Hàng ngày tôi ngủ rất say, vì đang tuổi ăn ngủ và thức dậy khoảng 5h 30 sáng, còn bà Thanh thường dậy từ hơn 3 giờ sáng. Bà thức dậy thật nhẹ, rón rén xuống bếp chế biến một trong mấy món: luộc ngô, rang nóng cơm (không có mỡ), luộc khoai. Bà ăn xong thì phần tôi để trong đĩa, đậy bát lên cho nóng rồi đi làm đồng, hoàn toàn giống như các bà con nông dân khác. Tôi thích nhất là mấy củ khoai kèm cà pháo muối vừa chín, dòn tan.

Sau này có dịp tìm hiểu, tôi mới biết bà Nguyễn Thị Thanh (1884-1954) có hiệu là Bạch Liên nữ sĩ, từng tham gia phong trào chống Pháp trong mạng lưới “Việt Nam Duy tân Hội” của chí sĩ Phan Bội Châu, bà từng bị địch giam cầm tại nhà lao Quảng Ngãi (1918)… Tôi cũng hiểu rằng: bà có cách ứng xử nhân văn, đầy tình người, lại khiêm tốn, giản dị, thân tình, bởi bà am hiểu sử sách, truyền thống quê hương, sớm dấn thân vào con đường đấu tranh vì nghĩa lớn của dân tộc, đi nhiều, tiếp xúc nhiều với thực tiễn, với đồng bào.

Tôi ở nhà bà Thanh khoảng hơn chục hôm rồi lại hành quân đi tiếp. Hôm chia tay thật bịn rịn, ngày thường bà nói năng rành rẽ, có lúc nghiêm trang, nhưng hôm ấy bà ăn trầu nhiều hơn, ân cần hơn, nói ít hơn…Khi tôi chào tạm biệt, bà ôm lấy tôi thật chặt, nước mắt bà chảy ướt cả má tôi, bà âu yếm nói đứt quãng: Gắng lên con nhé. Nhớ giữ ấm, mùa đông khi tắm giặt, nhớ ngậm củ gừng trong miệng để tránh rét, tránh cảm. Hơn sáu mươi năm trôi qua, nhưng tôi còn nhớ mãi bà Thanh, người mẹ xứ Nghệ yêu thương của tôi.

BS. NGUYỄN THỊ THÙY LOAN

vanhien.vn

Advertisement