(ĐCSVN)Tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần vô giá của dân tộc ta. Sợi chỉ đỏ xuyên suốt tư tưởng của Người là “Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, là xây dựng đất nước đi đôi với giữ nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội đi đôi với bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
1. Chủ tịch Hồ Chí Minh với sự nghiệp giải phóng dân tộc
Lịch sử hình thành và phát triển của nhà nước Việt Nam gắn liền với những cuộc đấu tranh của lớp lớp ông cha nhằm chống lại kẻ thù ngoại bang âm mưu chia cắt và nô dịch dân tộc ta. Trong lịch sử nhân loại, việc đấu tranh chống ngoại xâm không phải là đặc điểm riêng của một dân tộc nào, song thật hiếm có một dân tộc như Việt Nam, thường xuyên phải đấu tranh chống lại nhiều kẻ thù mạnh hơn để giành lại quyền độc lập dân tộc, thống nhất đất nước. Quyền thiêng liêng ấy đã được Lý Thường Kiệt khẳng định từ thế kỷ XI, Nguyễn Trãi nhấn mạnh trong “Bình Ngô đại cáo”, thế kỷ XV.
Từ nửa sau thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản phương Tây đã xâm chiếm hầu hết các quốc gia ở Á, phi, Mỹ La tinh, nền độc lập của Việt Nam bị đế quốc Pháp tước đoạt, nước Việt Nam bị chia cắt thành 3 miền với 3 chế độ cai trị khác nhau. “Độc lập dân tộc và thống nhất đất nước” đã trở thành ước mơ, khát vọng cháy bỏng của mỗi người dân Việt. Lớp lớp văn thân, sĩ phu và những người yêu nước đã chiến đấu, hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Tuy nhiên, tất cả các phong trào đấu tranh, các cuộc khởi nghĩa đều bị thất bại, bị dìm trong máu.
Cùng chung ước mơ, khát vọng của dân tộc, Hồ Chí Minh sớm nhận ra, những hạn chế trong đường lối đấu tranh giành độc lập của các thế hệ cha ông, ”không hoàn toàn tán thành cách làm của một người nào”. Vượt qua những lối mòn cứu nước của các bậc tiền bối, Hồ Chí Minh quyết định sang phương Tây tìm đường cứu nước. Vận mệnh của nước, của dân gắn bó mật thiết với một quyết định mà lịch sử đã chứng minh là sáng suốt phi thường. Trải qua gần 10 năm bôn ba nhiều châu lục, gắn bó với phong trào công nhân và phong trào giải phóng dân tộc, đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh đã tìm thấy con đường cứu nước và giải phóng dân tộc duy nhất đúng đắn. Từ đó, hoài bão mang lại độc lập cho dân tộc, tự do cho đồng bào chi phối toàn bộ tư duy lý luận và hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh. Được hỏi về lý do bỏ phiếu tán thành Đảng Xã hội Pháp đi theo con đường Quốc tế Cộng sản, Quốc tế thứ ba, Hồ Chí Minh đã trả lời nữ đồng chí Rôdơ rằng: ”Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu”. Cũng ngay tại Pa ri, khi Bộ trưởng thuộc địa Pháp Anbe Xarô gọi Hồ Chí Minh đến lấy cớ “hỏi thăm” để răn đe, Người đã thẳng thắn trả lời: ”Cái mà tôi cần trên đời này là: Đồng bào tôi được tự do, Tổ quốc tôi được độc lập”.
Trước khi rời Pháp, tìm đường về nước, giữa năm 1923 Hồ Chí Minh đã viết thư gởi các bạn trong “Hội liên hiệp thuộc địa”, nêu rõ những nhiệm vụ sắp tới trong chuyến đi bí mật của mình là: ”Đối với tôi, câu trả lời đã rõ ràng: Trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do, độc lập”.
Hồ Chí Minh khẳng định muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản, ”chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên toàn thế giới khỏi ách nô lệ để giành thắng lợi trong sự nghiệp giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản, ngay từ những năm 20 của thế kỷ trước, Hồ Chí Minh đã khẳng định cách mạng trước hết cần có đảng cách mạng. Đảng phải lấy chủ nghĩa Mác- Lênin ”làm cốt”, phải gắn bó máu thịt với nhân dân, phải đặt quyền lợi của toàn dân tộc lên trên hết. Nét đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng là Người luôn dành cho yếu tố dân tộc một vị trí đặc biệt. Điều đó được thể hiện từ việc xác định các yếu tố cấu thành Đảng, xác định đường lối đến việc đặt tên Đảng. Theo đó, trong tiến trình cách mạng, nhất là ở những thời điểm có ý nghĩa quyết định như khi chuẩn bị Tổng khởi nghĩa trong Cách mạng Tháng Tám 1945 hay những năm tháng cam go của kháng chiến chống Mỹ sau này, Hồ Chí Minh thường nhấn mạnh quyền lợi dân tộc, đặt lợi ích dân tộc lên trên hết, trước hết. Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ VIII, năm 1945 dưới sự chủ trì của Hồ Chí Minh đã xác định: ”Trong lúc này, quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập tự do cho toàn thể dân tộc, chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cúng không đòi lại được”.
Đường lối cứu nước, giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh luôn là sự vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê nin phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Từ những năm 20 của thế kỷ XX, Hồ Chí Minh khẳng định chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của đất nước, Người tìm ra những, lý do lịch sử cho phép chủ nghĩa cộng sản thâm nhập vào châu Á dễ dàng hơn là châu Âu, cách mạng thuộc địa có thể thành công trước cách mạng chính quốc. Đồng chí Phạm Văn Đồng, một trong những học trò xuất sắc nhất của Hồ Chí Minh cho rằng những người nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh rất hào hứng và thú vị, tìm thấy biết bao luận điểm độc đáo của Nguyễn Ái Quốc về sự nghiệp cách mạng ở các nước thuộc địa, nghĩa là xung quanh vấn đề độc lập dân tộc. Đồng chí Phạm Văn Đồng viết: ”Ở đây, người ta không thể không ngạc nhiên cao độ lúc Hồ Chí Minh khẳng định rằng cách mạng thuộc địa có thể diễn ra và thắng lợi trước cách mạng ở chính quốc”.
Trong tiến trình lãnh đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc ở Việt Nam, Hồ Chí Minh đã sớm vượt trước các bậc tiền bối và những người cùng thời trong việc tập hợp lực lượng, tiên đoán và chớp thời cơ cho công cuộc giải phóng. Hồ Chí Minh đã đoàn kết tất cả các lực lượng trong nước, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ, giúp đỡ của nhân dân thế giới, kể cả nhân dân Pháp, nhân dân Mỹ. Đây là điểm tựa vững chắc để làm lên những chiến- công – những “đại thành công” của người Anh hùng giải phóng dân tộc Hồ Chí Minh.
Khi Hồ Chí Minh đi xa, miền Nam chưa được giải phóng. Tuy nhiên, đường lối chống Mỹ và đặc biệt là giải pháp để kết thúc cuộc đụng đầu lịch sử này, đã được Hồ Chí Minh nêu lên trong ngày đầu tiên của năm 1969: “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho nguỵ nhào”. Niềm tin chiến thắng đã được Hồ Chí Minh khẳng định ”chắc chắn” trong “Di chúc” của Người.
Cần nhấn mạnh rằng, những chiến công giải phóng vĩ đại nhất của dân tộc ta: Cách mạng Tháng Tám 1945, Chiến thắng Điện Biên Phủ chấn động địa cầu tháng 5- 1954, đặc biệt là sự nghiệp giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, kết thúc bằng chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử tháng 4- 1975, đều gắn liền với những sáng tạo cách mạng, những đóng góp to lớn của Hồ Chí Minh. Đánh giá tổng quát công lao của Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam, Điếu văn của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khẳng định: ”Dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta đã sinh ra Hồ Chủ Tịch, người anh hùng dân tộc vĩ đại, và chính Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta và non sông đất nước ta”.
Hồ Chí Minh là người đi tiên phong trong công cuộc giải phóng thuộc địa. Đối với các dân tộc ở Á, Phi, Mỹ La tinh, Hồ Chí Minh là ”người thầy của nghệ thuật giành tự do độc lập”. Tổ chức UNESCO của Liên hiệp quốc tôn vinh Hồ Chí Minh là Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn hoá lớn.
2. Chủ tịch Hồ Chí Minh với sự nghiệp chấn hưng đất nước
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, giải phóng dân tộc không thể tách rời chấn hưng đất nước. Vì vậy, ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, Hồ Chí Minh đã chú ý đến việc khôi phục kinh tế chấn hưng đất nước. Với Hồ Chí Minh, thắng đế quốc phong kiến, thắng kẻ thù giai cấp là tương đối dễ, chấn hưng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa khó khăn hơn. Đây là cơ sở để Hồ Chí Minh đòi hỏi trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng phải mạnh hơn bao giờ hết, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới phương thức cầm quyền của Đảng. Cách đây 75 năm, năm 1930, Hồ Chí Minh đã cho rằng ”phương thức lãnh đạo quần chúng vô cùng quan trọng, Đảng phải hết sức quan tâm”. Đối với Hồ Chí Minh, phương thức lãnh đạo của Đảng liên quan chặt chẽ với kiện toàn tổ chức, sửa đổi, cải tiến lề lối làm việc, nâng cao tính tổ chức, kỷ luật, đạo đức cách mạng của toàn thể cán bộ, đảng viên.
Vấn đề cơ bản của các cuộc cách mạng là vấn đề nhà nước. Suốt đời mình, đặc biệt là 24 năm ( 1945 – 1969) trên cương vị là người đứng đầu nhà nước, Hồ Chí Minh đã hình thành một lý luận về nhà nước kiểu mới ở Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định: ”Để xây dựng chủ nghãi xã hội và đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà, chúng ta cần phải tăng cường sự lãnh đạo của giai cấp công nhân với nhà nước dân chủ cộng hoà”. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước đã được Người hiện thực hoá trên đất nước ta. Đảng Cộng sản Việt Nam nhấn mạnh: ”Trên thực tế, Người đã thiết lập một chính quyền mạnh mẽ, sáng suốt của nhân dân như Hiến pháp năm 1946 đã ghi”. Nhà nước ấy là nhân tố quan trọng nhất trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, chấn hưng đất nước.
Trong sự nghiệp chấn hưng đất nước, phát triển kinh tế trở thành nhiệm vụ trung tâm. Từ sau tháng 7- 1954, đến trước khi qua đời, từ những bối cảnh và cách tiếp cận khác nhau, Hồ Chí Minh nhiều lần chỉ rõ nhiệm vụ cấp bách, quan trọng nhất đối với nước ta là biến nền kinh tế lạc hậu thành một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, có nông nghiệp hiện đại, công nghiệp hiện đại, văn hóa và khoa học kỹ thuật tiên tiến. Người khẳng định: “Chủ nghĩa xã hội là nhằm nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân và do nhân dân tự xây dựng lấy”. Phát biểu tại Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ chín (khóa II), tháng 4 năm 1956 Hồ Chí Minh chỉ rõ: ”Phải luôn luôn nhớ rằng điều quan trọng bậc nhất trong kế hoạch kinh tế của chúng ta hiện nay là nhằm cải thiện dần đời sống của nhân dân”. Quan điểm trên được Hồ Chí Minh chốt lại trong “Di chúc”: ”Đảng cần phải có kế hoạch thật tối để phát triển kinh tế và văn hoá nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế, về các thành phần kinh tế trong đó kinh tế quốc doanh ”là kinh tế lãnh đạo và phát triển hơn cả” vẫn có ý nghĩa thời sự đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay.
Hồ Chí Minh khẳng định để giành thắng lợi trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, chấn hưng đất nước mỗi người Việt Nam cần phát huy cao độ tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường, đồng thời tranh thủ đến mức cao nhất đồng tình ủng hộ, giúp đỡ của các lực lượng cách mạng, yêu chuộng hoà bình, dân chủ trên thế giới, kết hợp chặt chẽ nội lực với ngoại lực, sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Cách đây hơn 80 năm, ngay trên đất pháp, Hồ Chí Minh đã nói: “Tổ tiên ta đã treo bao tấm gương đạo đức và dũng cảm, chí khí và tự tôn”. Tấm gương chí khí, tự tôn ấy được Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển lên tầm cao và chiều sâu mới. Nếu trong đấu tranh giành chính quyền ở vào thời điểm quyết định, tháng Tám 1945, Hồ Chí Minh kêu gọi toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta thì trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, chấn hưng đất nước. Người đòi hỏi: ”Dân ta phải giữ nước ta”. Khi miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh vạch rõ: ”Trước đây nhân dân ta đã nêu cao tinh thần tự lực cánh sinh, trường kỳ kháng chiến, thì ngày nay lại càng phải nêu cao tinh thần tự lực cánh sinh cần kiệm xây dựng nước nhà”. Người nhắc nhở mỗi chúng ta đã là người chủ thì phải tự mình biết lo toan gánh vác, không ỷ lại ngồi chờ, mỗi người phải ra sức góp công, góp của để xây dựng nước nhà, ai cũng phải là một chiến sĩ dũng cảm phấn đấu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh cho rằng độc lập, tự do có quan hệ chặt chẽ với tự lực, tự cường. Theo Người có tự lực mới độc lập, có tự cường mới tự do. Hồ Chí Minh khẳng định: ”Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác đến giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập”.
Khôi phục và phát triển kirth tế chấn hưng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa từ một nước thuộc địa, nửa phong kiến, bị chiến tranh tàn phá nặng nề là một nhiệm vụ vô cùng khó khăn. Trong điều kiện đó việc tranh thủ sự ủng hộ giúp đỡ của các nước, nhất là những nước có trình độ kinh tế, kỹ thuật phát triển trở nên cần thiết và cấp bách. Thực tế cho thấy, Hồ Chí Minh đã sớm hình thành những quan điểm hợp tác, đoàn kết, mở cửa, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế đúng đắn.
Chưa đầy 2 tháng sau Tuyên ngôn độc lập, ngày l/11/1945 Hồ Chí Minh đã nhân danh Hội văn hoá Việt Nam, nhân danh tất cả các kỹ sư, luật sư, giáo sư và trí thức Việt Nam gởi tới Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ lời đề nghị được gửi một phái đoàn khoảng 50 thanh niên Việt Nam sang Mỹ với ý định một mặt, thiết lập những mối quan hệ văn hoá thân thiết với thanh niên Mỹ và mặt khác để xúc tiến việc tiếp tục nghiên cứu về kỹ thuật, nông nghiệp cũng như các lĩnh vực chuyên môn khác”.
Cuối năm 1946, Hồ Chí Minh gởi thư tới Liên Hợp quốc nêu bật quan điểm: Việt Nam sẵn sàng thực thi chính sách mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực, dành sự tiếp nhận thuận lợi cho đầu tư của các nhà tư bản, kỹ thuật nước ngoài vào tất cả các ngành kỹ thuật của Việt Nam, đồng thời Việt Nam chấp nhận tham gia mọi tổ chức hợp tác kinh tế quốc tế. Hồ Chí Minh chỉ rõ cần ”có những sự thương lượng để dung hoà quyền lợi của cả hai bên”, để có thể ”mời những nhà chuyên môn Pháp, cũng như Mỹ, Nga hay Tàu đến giúp chúng ta trong việc kiến thiết quốc gia”.
Mối quan hệ giữa độc lập tự chủ , tự lực cánh sinh với hợp tác, ủng hộ, giúp đỡ quốc tế được Hồ Chí Minh luận giải khá sâu sắc. Theo Người : ”Ta được các nước bạn giúp là có thêm điều kiện tự lực cánh sinh”. Các nước bạn giúp ta cũng như thêm vốn cho ta, ta phải khéo dùng số vốn ấy để bồi bổ lực lượng, phát triển khả năng của ta, tuyệt đối không ỷ lại, đợi chờ.
Tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại nói riêng, vẫn là nền tảng tư tưởng kim chỉ nam cho hành động đối với sự phát triển của Việt Nam trong thế kỷ XXI.
3. Tiếp nối sự nghiệp giải phóng dân tộc, chấn hưng đất nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Từ quá trình dựng nước và giữ nước của cha ông, trong thời đại mới, Hồ Chí Minh khẳng định con đường phát triển của Việt Nam chỉ có thể là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ rõ: ”Từ khi thành lập đến nay, Đảng ta luôn xác định lý tưởng và mục tiêu phấn đấu của cách mạng nước ta là độc lập dân tộc gắn liền vời chủ nghĩa xã hội”. Mục tiêu và lý tưởng đó luôn được quán triệt trong chủ tương, đường lối và thể hiện sinh động trong thực tiễn gần 20 năm đổi mới.
Đại hội VI, Đại hội đổi mới đòi hỏi: ”Chúng ta phải thấu suốt và thực hiện đúng quan điểm ”Toàn dân xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc”, ”Toàn quân bảo vệ Tổ quốc và xây dựng đất nước”.
Trong xây dựng và chấn hưng đất nước thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước ta nhất quán quan điểm phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm. Gần 20 năm qua, trí tuệ, sức lực của toàn Đảng, toàn dân tập trung nhiều nhất vào lĩnh vực này, nên kết quả đạt được là to lớn. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ chín (khoá IX), Hội nghị có nhiệm vụ kiểm điểm nửa nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội IX, đồng thời chỉ ra những hạn chế, yếu kém, mục tiêu và giải pháp thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội trong những năm còn lại, đã nêu lên 4 kết quả quan trọng nhất:
l.Nền kinh tế đã vượt qua giai đoạn suy giảm, đạt mức tăng trưởng khá cao, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của một số lĩnh vực và sản phẩm có chuyển biến.
2.Cơ cấu của nền kinh tế tiếp tục có bước chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá và từng bước hiện đại hoá, phát huy các lợi thế so sánh.
3.Tiếp tục thực hiện có hiệu quả chủ trương giữ vững độc lập tự chủ về kinh tế, có tiến bộ đáng kể trong việc phát huy các nguồn nội lực của đất nước, của các thành phần kinh tế cho đầu tư phát triển, đồng thời tiếp tục mở rộng hội nhập kinh tế quốc tế.
4.Thể chế kinh tế tiếp tục được đổi mới, đang tiếp tục hình thành và phát triển các loại thị trường.
Cần nhắc lại rằng những thành tựu kinh tế nêu trên không thể tách rời việc Đảng, Nhà nước ta quán triệt và vận dụng sáng tạo tư tưởng kinh tế Hồ Chí Minh. Ngay cả trong lĩnh vực kết hợp nội lực với ngoại lực cũng thể hiện điều đó. Văn kiện Đại hội IX viết: ”Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ phải đi đôi với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, kết hợp nội lực với ngoại lực thành nguồn lực tổng hợp để phát triển đất nước”.
Bên cạnh những thành tựu, nền kinh tế nước ta vẫn còn những yếu kém cần phải khắc phục. Đó là tốc độ tăng trưởng chưa đạt mục tiêu Đại hội IX đề ra, chưa tương xứng với mức tăng đầu tư và tiềm năng của nền kinh tế, sức cạnh tranh thấp, kinh tế phát triển chưa bền vững, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, nhất là hiện đại hoá còn chậm, việc thực hiện chính sách phát triển các thành phần kinh tế còn thiếu nhất quán… Để thoát khỏi nguy cơ tụt hậu so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, để có thể bước tới đài vinh quang, sánh vai với các cường quốc năm châu như Hồ Chí Minh đã đặt ra cách đây 60 năm, chúng ta phải cố gắng nhiều hơn trong phát triển kinh tế, văn hoá, giáo dục.
Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh, trong sự nghiệp đổi mới, Đảng, Nhà nước ta nhấn mạnh giáo dục và đào tạo cùng với khoa học-công nghệ là quốc sách hàng đầu, văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội. Chủ trương đúng đắn ấy đã đưa lại những kết quả quan trọng:
1.Giáo dục, đào tạo, khoa học-công nghệ có bước phát triển mới.
2.Phát triển văn hoá, xây dựng đời sống văn hoá và nếp sống văn minh, có tiến bộ ở tất cả các tỉnh, thành trong cả nước.
Tuy vậy, những hạn chế trong lĩnh vực giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ và văn hoá mà Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ chín (khoá IX) chỉ ra cũng rất đáng được quan tâm:
Một là, sự phát triển của giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ chưa tương xứng với quốc sách hàng đầu.
Hai là, nhân tố văn hoá và con người trong phát triển chưa được nhận thức đầy đủ và chưa được coi trọng đúng mức ở nhiều cấp, nhiều ngành.
Có thể nói, gần đây nhận thức của Đảng về nhân tố văn hoá có bước phát triển. Tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ chín (khoá IX), Đảng ta cho rằng: ”Trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta luôn xác định phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chết”. Đến Hội nghị lần thứ mười (khoá IX), tháng 6-2004, Đảng chỉ rõ phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội. Sự gắn kết chặt chẽ kinh tế, chính trị, văn hoá như trên là phù hợp với tư tưởng Hồ Chí Minh. Cách đây gần nửa thế kỷ, năm 1956, Hồ Chí Minh đã nói khôi phục kinh tế, phát triển văn hoá cần rất nhiều cán bộ. ”Vậy phải đào tạo cán bộ, cán bộ phải có văn hoá làm gốc”.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đối với nước ta, dựng nước đi đôi với giữ nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội đi đôi với bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Quán triệt tư tưởng đó, Văn kiện Đại hội IX viết: ”Bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội và nền văn hoá, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ sự nghiệp đổi mới và lợi ích quốc gia, dân tộc”. Trên nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh, sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong những năm đổi mới đã đạt một số kết quả sau đây:
Một là, bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp của Đảng đối với lực lượng vũ trang.
Hai là, tiếp tục xây dựng quân đội và công an nhân dân theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, vững vàng về chính trị, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, Đảng và nhân dân.
Ba là, xây dựng, củng cố thế trận quốc phòng toàn dân, gắn với thế trận an ninh nhân dân, đặc biệt là ở những vùng trọng điểm.
Bốn là, ngăn chặn và làm thất bại âm mưu chống phá của các thế lực thù địch, giải quyết có hiệu quả các vụ, việc đột xuất, đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tội phạm, góp phần bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Đảng Cộng sản Việt Nam, người khởi xướng và lãnh đạo sự nghiệp đổi mới. Trong quá trình đó, Đảng luôn xác định xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt và ngày càng quan tâm hơn tới tự đổi mới, tự chỉnh đốn bản thân mình. Thực tế cho thấy, còn một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có cả những cán bộ, đảng viên cấp cao suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống. Tuy vậy, thành tựu quan trọng của sự nghiệp đổi mới đã khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam -Đảng lấy chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động.
Trước khi qua đời, Hồ Chí Minh để lại cho chúng ta điều mong muốn cuối cùng của Người là: “Toàn Đảng, toàn dân xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập dân chủ và giàu mạnh và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”.
Đổi mới trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh là để thực hiện điều mong muốn trên đây của Hồ Chí Minh một cách đúng đắn nhất, có hiệu quả nhất.
PGS.TS Vũ Đình Hoè
Phó giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
Bạn phải đăng nhập để bình luận.