
Bà Thanh và chiến sĩ Loan năm 1949 (Họa sỹ Lê Dũng Cường vẽ theo ảnh tư liệu gia đình).
LTS. Nhân dịp Xuân Mới, nhớ về Bác kính yêu, nhớ về những năm tháng hào hùng nhưng gian nan của đất nước,Thế Giới & Việt Nam xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc ký ức không phai mờ của BS. Nguyễn Thị Thùy Loan, nữ chiến sĩ của Đại đội quân y dã chiến thuộc sư đoàn 304, tham gia đánh quân Pháp ở chiến trường Liên khu 4 – người may mắn được chị ruột của Bác Hồ, Bà Nguyễn Thị Thanh cho ở cùng nhà, chăm sóc và chỉ bảo trong những ngày đầu tham gia Cách mạng.
Mỗi khi mùa Xuân đến, là lúc người ta thường nghĩ về quá khứ, về những vùng đất mình đã đi qua với những kỷ niệm đáng nhớ. Gần đây, tôi mới có dịp về lại quê hương và Nam Đàn (Nghệ An) nơi tôi từng ở đó với một người đặc biệt cách đây hơn nửa thế kỷ.
Tôi tham gia các hoạt động yêu nước từ những ngày đầu Cách mạng tháng Tám (khi đang học tại Trường nữ sinh Đồng Khánh Huế) rồi đi bộ đội. Năm 1949, khi 21 tuổi, là nữ chiến sĩ của Đại đội quân y dã chiến thuộc Trung đoàn 9, sư đoàn 304, đánh quân Pháp ở chiến trường Liên khu 4. Khi đó, để tránh máy bay địch, bảo toàn cán binh cùng phương tiện quân y, thuốc men nên cứ khoảng 7-8 ngày chúng tôi lại phải hành quân chuyển địa điểm mới. Một lần, đơn vị hành quân suốt đêm, đến gần 2 giờ sáng thì tới địa phận thuộc xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Đơn vị quyết định trú quân lại và tôi được xếp ở nhà bà Nguyễn Thị Thanh. Đại diện địa phương cho biết đó là nhà chị ruột Hồ Chủ tịch và phụ trách Hội Mẹ chiến sĩ vùng.
Đặt ba lô xuống cạnh cột nhà, tôi liền hỏi thăm sức khỏe bà Thanh, thấy bà chừng hơn 60 tuổi, mắt sáng, người hơi gầy, giọng nói ấm, thân tình, dễ mến. Nhà bà Thanh chỉ là một ngôi nhà nhỏ, lợp tranh đơn sơ, mộc mạc như bao ngôi nhà của đồng bào miền Trung lúc đó. Ngôi nhà này do bộ đội Quân khu 4 dựng giúp để bà trông coi đất đai bên nội – họ Nguyễn Sinh. Bao quanh vườn rộng là hàng rào bằng cây dâm bụt. Trong nhà, mọi thứ được sắp xếp ngăn nắp, đồ đạc rất ít, ngoài cái rương nhỏ, còn có kim, chỉ khâu để trong cái đĩa cũ xếp trên rương. Quần áo mắc trên đinh đóng vào cột nhà. Chỗ ngủ chỉ có 1 cái chõng tre đã lên màu vàng bóng, vì thế tối đến, hai bác cháu phải ngủ chung.
Mùa đông năm 1949 rét lạ thường, như cắt da thịt. Hai bác cháu dùng rơm đánh thành 2 chiếc nệm ghép với nhau trải lên chõng. Bà Thanh nằm trên nệm rơm, đắp chiếc chăn dạ đã sờn, còn tôi đắp chiếc chăn trấn thủ bộ đội và mặc thêm áo quần cho ấm.
Buổi tối, sau một ngày ra Bệnh xá quân y chăm sóc thương bệnh binh, và có khi còn tập văn nghệ đến muộn, khi tôi về thì bà Thanh đã ăn tối xong, ngồi trên võng chờ tôi như mẹ chờ con. Gian bếp nhỏ luôn được Bà Thanh dọn dẹp tinh tươm: 3 ông đầu rau sạch sẽ, cạnh là 2 chiếc nồi nhỏ, xa một chút có 2 cái bát, 2 thìa, bó đũa con, đôi đũa cả, con dao cau xếp vào cái rổ vừa, trên úp một cái sàng cũ. Sau bếp có bồ cào, cuốc, lưỡi hái, dây thừng… móc lên tường bếp. Ngoài bếp có chiếc vại làm bể cạn đựng nước mưa. Buổi tối bà Thanh thường thắp đèn dầu đến chừng 7 giờ rồi tắt đèn. Nằm trên chõng, bà hay kể cho tôi nghe chuyện đời một cách giản dị, dí dỏm chứ không theo kiểu răn dạy. Nhờ bà Thanh, tôi biết khá nhiều về phong tục, tập quán, danh lam, thắng cảnh xứ Nghệ; hiểu được cách sống đậm nghĩa tình, đùm bọc nhau của người dân quê bà. Bà hay hát cho tôi nghe điệu ví dặm đặc sắc mà tôi vẫn nhớ: “Mùa đông tháng giá. Sang mùa hạ nắng nồng. Em đắp chiếu nằm không… Bốn mùa cứ buồn tênh. Bao giờ hết buồn tênh?”… Cuối các câu chuyện bà hay nhấn mạnh một điều gì đó. Ví dụ: Ở đời quý nhất là thiện lương, thương người. Làm gì cũng phải nghĩ đến điều đó. Chắc do vậy, bà còn làm thêm thuốc Nam để giúp đỡ người nghèo khi ốm đau. Bà hay kể về cụ Phan Bội Châu và luôn nhắc câu châm ngôn cụ Phan tâm niệm: Lòng thành thật có thể xẻ đôi được vàng đá…
Có lần, tôi mạnh dạn hỏi về Bác Hồ, người mà bà Thanh hay gọi bằng cái tên gần gũi ở nhà là cậu Thành, bà chỉ xa xăm: Cậu nớ suốt đời vì việc nước, việc công, xa quê hương, chòm xóm, người thân… rồi bà nhìn ra phía chân trời xa. Bà cho biết tháng 10/1946 bà có ra Hà Nội thăm cậu Thành. Cuộc gặp đó thấm đẫm tình chị em sau 34 năm kể từ khi người thanh niên Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước năm 1911.
Cuộc gặp này sau đó, nhà thơ Huy Cận có miêu tả trong bài thơ “Hai chị em”: Chị đến thăm em là Chủ tịch/ Cho em thân thiết một bu gà/ Chị em băm bốn năm xa cách/ Chuyện nước, tình quê:“Chị đó a?”. Bà Thanh còn kể cho tôi nghe những kỷ niệm từ thuở nhỏ, bà là chị cả nên hay bế cậu Thành để ru em ngủ. Bà nói sau này trưởng thành, cậu Thành vẫn nhớ những lời ru, những làn điệu dân ca như hát ví, hát phường vải…
Biết cha tôi là Nguyễn Văn Lanh, một trong những thẩm phán đầu tiên của chính quyền cách mạng mới mất trên đường công tác năm 1948, các chị em tôi đều tham gia kháng chiến, mẹ tôi ở xa… nên bà càng thương tôi hơn. Hồi đó, đang tuổi ăn ngủ nên tôi ngủ rất say, nhưng luôn thức dậy từ khoảng 5h sáng. Thế nhưng khi dậy, đã thấy bà Thanh ở dưới bếp, có hôm luộc ngô, rang cơm mà không có mỡ hoặc luộc khoai. Bà luôn cẩn thận để phần cho tôi vào một cái bát nhỏ, đậy lại cho nóng rồi đi làm đồng, giống như các bà con nông dân bình thường khác.
Mãi sau này có dịp tìm hiểu, tôi mới biết bà Nguyễn Thị Thanh (1884-1954), hiệu Bạch Liên nữ sĩ, từng tham gia chống Pháp trong mạng lưới “Việt Nam Duy tân Hội” của cụ Phan Bội Châu và từng bị địch giam tại nhà lao Quảng Ngãi năm 1918… Biết vậy, tôi càng thấm thía với cách ứng xử đầy tình người, giản dị, thân tình của bà – một người phụ nữ am hiểu sử sách, truyền thống quê hương; truyền thống gia đình, sớm dấn thân vào con đường đấu tranh vì nghĩa lớn của dân tộc.
Tôi ở nhà bà Thanh khoảng chục hôm rồi lại hành quân đi tiếp. Hôm chia tay, ngày thường bà nói năng rành rẽ, có lúc nghiêm trang, nhưng hôm ấy bà ăn trầu nhiều hơn, nói ít hơn… Khi tôi chào tạm biệt, bà ôm lấy tôi thật chặt, nước mắt bà chảy ướt cả má tôi… Bà âu yếm nói đứt quãng: Gắng lên con nhé. Nhớ giữ ấm, mùa đông khi tắm giặt, nhớ ngậm củ gừng để tránh rét, tránh cảm. Hơn 60 năm trôi qua, nhưng những hình ảnh về bà Thanh, những cử chỉ mộc mạc mà ân cần như của một người mẹ quê dành cho con gái sẽ theo tôi suốt đời – ơi người mẹ xứ Nghệ yêu thương của tôi.
Nguyễn Thị Thùy Loan