Chủ tịch Hồ Chí Minh – người vun đắp tình hữu nghị Việt Nam với thế giới

Bác Hồ với thiếu nhi quốc tế tại Mát-xcơ-va năm 1955. Ảnh tư liệu

QĐND – Ngay từ những ngày đầu giành lại độc lập cho dân tộc và đến mãi sau này, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nêu tấm gương sáng trong việc vun đắp tình hữu nghị của Việt Nam với chính phủ, nhân dân các nước trên thế giới. Dưới đây là những câu chuyện về tình hữu nghị ấy.

Bức tranh thêu tặng Đại tá Xtê-phen L.Noóc-ling-giơ

Nhân dịp kỷ niệm lần thứ 116 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 13-5-2006, bà Giên Coi-lơ, cháu dâu của Đại tá Xtê-phen L.Noóc-ling-giơ, đã trao tặng Bảo tàng Hồ Chí Minh bức tranh thêu tùng hạc, một kỷ vật quý của Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng Đại tá Xtê-phen L.Noóc-ling-giơ tháng 10-1945.

66 năm trước, Chiến tranh Thế giới thứ hai kết thúc, cũng là lúc nước ta chớp thời cơ, giành được độc lập. Đội quân G5, đơn vị cứu tế xã hội của Hoa Kỳ đối với quân Đồng minh do Đại tá L.Noóc-ling-giơ đứng đầu đến Hà Nội, với sứ mệnh nhân đạo là giải phóng tù binh đang bị Nhật giam giữ, đồng thời chăm sóc, hỗ trợ thuốc men, lương thực cho những số phận bất hạnh đến từ các nước khác nhau. Đoàn cứu tế xã hội Hoa Kỳ đến Hà Nội đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ Việt Nam quan tâm, giúp đỡ.

Đầu tháng 10 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh gặp Đại tá L.Noóc-ling-giơ để bàn việc giúp đỡ, vận chuyển lương thực từ Nam ra Bắc. Sự kiện này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh thông báo trong phiên họp Hội đồng Chính phủ, ngày 9-10-1945.

Bức tranh dưới bàn tay tài hoa của nghệ nhân, trên nền vải thô màu vàng nhạt, những đường thêu đã làm hình ảnh chim hạc đậu trên cây tùng hiện lên sinh động, cùng lời chúc tốt đẹp nhất của Hồ Chí Minh: “Best greetings from Ho Chi Minh, Oct. 1945” (Những lời chúc tốt đẹp nhất của Hồ Chí Minh, tháng 10 năm 1945). Đường bo bằng vải xa-tanh màu đỏ nâu càng tôn thêm vẻ đẹp tinh tế của tặng vật.

Sinh thời, Đại tá L.Noóc-ling-giơ treo bức tranh này ở nơi trang trọng nhất trong nhà riêng của ông, tại Niu Y-oóc. Trải qua hơn 60 năm, bức tranh được gia đình Đại tá L.Noóc-ling-giơ gìn giữ, rồi vượt hàng nghìn cây số, từ nước Mỹ bên kia bán cầu, trở về Việt Nam, với một thông điệp hòa bình hữu nghị giữa các dân tộc mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xây dựng.

Chủ tịch Hồ Chí Minh với gia đình Rây-mông Ô-brắc

Năm 1946, sau cuộc đàm phán với Pháp không kết quả, nhận lời mời của Chính phủ Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sang thăm Pháp với danh nghĩa Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ giữa tháng 6 đến giữa tháng 9-1946.

Ngày 27-7-1946, Việt kiều ở Pháp đã tổ chức một cuộc chiêu đãi tại Vườn Hồng Ba-ga-ten ở Pa-ri để chào mừng Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ông Rây-mông Ô-brắc có mặt trong buổi chiêu đãi. Sau đó, ông mời Bác về ở nhà mình, ở ngoại ô Pa-ri.

Bác đến ở nhà ông Rây-mông Ô-brắc 6 tuần, từ đầu tháng 8 đến giữa tháng 9-1946. Trong thời gian ở cùng gia đình, lúc đầu bà Ô-brắc và mẹ bà nấu cho Bác ăn. Sau này, thấy bận và Bác có nhiều khách, nên anh em đã cử ông Ty, một Việt kiều yêu nước đến nấu ăn cho Bác. Ông Ty có một cửa hàng ăn nhưng ông đã đóng cửa, đến phục vụ Bác. Mỗi buổi sáng, người nhà ông Ô-brắc mang đến cho Bác sách báo tiếng Pháp và báo chí tiếng Anh, Đức, Nga… Bác thường đọc báo ngay trên thảm cỏ. Hằng ngày Bác cũng tiếp khách ở ngoài vườn. Chính phủ Pháp dành cho Bác một tầng trong một ngôi nhà lớn ở gần Khải hoàn môn, nhưng Bác thường không vào Pa-ri tiếp khách, mà mời về nhà ông Ô-brắc.

Ông Ô-brắc kể lại rằng, cuối tháng 7, nhân ngày sinh của ông, Bác đã tặng ông một bức tranh của họa sĩ Vũ Cao Đàm, một trí thức Việt kiều yêu nước. Bức tranh tả một bà mẹ mới sinh con, đang vươn cánh tay dài với những ngón tay mảnh dẻ vuốt đầu cháu bé. Ít lâu sau, bà Ô-brắc sinh cháu Ê-li-da-bét. Bác đã đến nhà hộ sinh thăm, tặng hoa và nhận là người đỡ đầu. Người gọi Ê-li-da-bét là Ba-bét. Gia đình ông Ô-brắc vô cùng vui sướng và hạnh phúc. Vào những dịp sinh nhật Ba-bét, Người thường gửi thư và quà tới ông bà Ô-brắc và con gái đỡ đầu của mình. Quà của Bác là quả cầu nhỏ hay một con trâu bằng ngà, có khi là một bức ảnh chân dung của Người, hoặc một đồng tiền vàng có mang hình Bác và đặc biệt là tấm lụa vàng để Ba-bét may áo cưới.

Ba-bét sau này là giáo viên và có ba người con. Những món quà của Bác Hồ tặng, Ba-bét vẫn giữ gìn như những kỷ vật. Ba-bét đã nói với chồng và các con: “Chúng ta đang sống lại một kỷ niệm đẹp đẽ nhất trong đời mà Bác Hồ đã dành cho chúng ta”.

Sau năm 1946, ông Ô-brắc đã gặp Bác hai lần. Một lần vào năm 1955, ở Bắc Kinh, khi Bác đang thăm Trung Quốc. Bác đã mời ông ăn sáng và mời sang Hà Nội, gặp Thủ tướng Phạm Văn Đồng, để giúp giải quyết vấn đề buôn bán giữa Việt Nam và Pháp. Ông đi xe lửa từ Bắc Kinh đến Lạng Sơn, sau đó đi xe Jeep đến Hà Nội. Ông ở Việt Nam khoảng nửa tháng, đi thăm Hà Nội và Vịnh Hạ Long. Lần thứ hai, năm 1967, ông cùng Viện trưởng Viện Pa-xtơ H.Ma-cô-vích sang để trao đổi về tình hình Việt Nam. Bác cùng Thủ tướng Phạm Văn Đồng tiếp ông tại Nhà sàn, Hà Nội. Sau 12 năm xa cách, ông được gặp Bác. Đây cũng là lần cuối cùng.

Ông Ô-brắc đã viết cuốn sách “Où s attarde la mémoire” (Những gì để nhớ), xuất bản năm 1946, trong đó kể lại những kỷ niệm gắn bó với cuộc đời của ông. Bác Hồ và Việt Nam đã để lại những ấn tượng sâu sắc trong lòng vợ chồng Rây-mông Ô-brắc. Ông bà đã trở thành những người bạn thân thiết của Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân Việt Nam.

Bác Hồ với Thủ tướng Ấn Độ Nê-ru

Năm 1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh sang thăm Ấn Độ lần thứ hai. Trong cuộc mít-tinh có hàng vạn người dự tại Thủ đô Niu Đê-li, các bạn Ấn Độ làm sẵn một cái ghế cho Bác Hồ ngồi trên bục danh dự. Chiếc ghế trông như một cái ngai vàng, rất lớn. Trong khi đó, Thủ tướng Ấn Độ ngày ấy là J.Nê-ru thì chỉ ngồi một chiếc ghế bình thường như mọi người khác. Khi Thủ tướng Nê-ru mời Bác Hồ ngồi vào chiếc ghế đó, Bác dứt khoát từ chối. Thấy vậy, Thủ tướng Nê-ru nói: “Ngài là khách danh dự của chúng tôi, việc ngài ngồi lên chiếc ghế này chính là niềm vinh dự của chúng tôi”. Chứng kiến điều này, hàng vạn người dự mít-tinh phía dưới quảng trường đứng cả lên xem. Hai vị lãnh tụ của hai nước cứ nhường nhau, chẳng ai chịu ngồi lên chiếc ghế lớn ấy. Cuối cùng, Thủ tướng Nê-ru đành gọi người cho chuyển chiếc ghế đi, thay bằng một chiếc ghế khác giản dị hơn. Thấy vậy, hàng vạn người dân Ấn Độ dưới quảng trường rất cảm kích vỗ tay vang dội và hô rất to: “Hồ Chí Minh muôn năm! Hồ Chí Minh muôn năm!”. Chuyện này được người Ấn Độ sau đó kể lại rất nhiều, trở thành một huyền thoại của họ về Bác Hồ.

Trong chuyến thăm này, tại một bữa tiệc do Thủ tướng Nê-ru chiêu đãi Bác Hồ có món thịt gà địa phương rất nổi tiếng. Người Ấn Độ khi ăn cơm không dùng thìa, dĩa mà dùng 5 ngón tay để bốc thức ăn. Cả Bộ trưởng Ngoại giao Ấn Độ cũng muốn dùng tay bốc thức ăn. Nhưng tại bữa tiệc quốc tế người ta phải dùng dao, thìa, dĩa cho lịch sự. Khi món thịt gà được đưa ra, các quan khách Ấn Độ có vẻ không quen dùng dao, dĩa. Bác Hồ rất tinh ý, Người nói với Thủ tướng Nê-ru: “Thịt gà phải ăn bằng tay thì mới ngon chứ còn ăn bằng thìa dĩa thì khác nào nói chuyện với người yêu lại phải qua ông phiên dịch”. Nghe Bác Hồ nói vậy, cả bàn tiệc cười vang làm cho không khí bữa tiệc hôm đó rất vui vẻ và thân mật.

Bác Hồ với ba người con đỡ đầu

Sinh thời, Bác Hồ luôn luôn dành sự quan tâm và tình cảm yêu thương nhất cho các cháu thiếu nhi trong và ngoài nước, bởi đó là những chủ nhân tương lai của nước nhà và nhân loại. Tình cảm và sự quan tâm chăm sóc của Bác dành cho thiếu nhi trong nước và quốc tế thể hiện ở nhiều khía cạnh và góc độ khác nhau, trong đó có cả tình cảm mà Bác Hồ đã dành cho những người con đỡ đầu của mình.

Ngoài Ba-bét, người con đỡ đầu đầu tiên, Bác Hồ còn có hai người con khác, một là người Đức, người thứ hai là người Nga. Kơ-nớt Vôn-gang Oan-thơ Hát-man ở miền Nam nước Đức có ngày sinh trùng với ngày sinh của Người: 19- 5-1951. Chính vì sự trùng hợp ngẫu nhiên này mà ông bà Oan-thơ Hát-man, cha mẹ của Kơ-nớt, đã gửi thư tới Chủ tịch Hồ Chí Minh bày tỏ cảm tình ủng hộ cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược, giành độc lập dân tộc của nhân dân Việt Nam và xin Người nhận Kơ-nớt Vôn-gang Oan-thơ Hát-man làm con đỡ đầu.

Tại Việt Bắc, mặc dù bộn bề công việc để lãnh đạo nhân dân ta kháng chiến chống Pháp và kiến thiết đất nước, nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn dành thời gian viết thư trả lời ông bà Hát-man. 5 tháng sau ngày gửi thư, ông bà Hát-man đã nhận được thư trả lời của Người. Bức thư được đánh máy trên giấy với nội dung: “Tôi thân ái mừng bà và ông vừa có cháu trai là Kơ-nớt Vôn-gang Oan-thơ Hát-man. Tôi cảm ơn bà và ông đã gửi thư và ảnh cho tôi. Và tôi rất vui lòng nhận cháu làm con đỡ đầu. Tôi gửi biếu cháu một bức ảnh nhỏ và một đồng Việt Nam để làm kỷ niệm. Tôi chắc rằng ở trong nước Đức dân chủ nhân dân và dưới sự chăm sóc của Chủ tịch W.Pi-ếch và của Đảng, bà và ông sẽ nuôi dạy cháu mau lớn, vui vẻ, mạnh khỏe, mai sau cháu sẽ thành một chiến sĩ tốt trong sự nghiệp phát triển nước Đức xã hội chủ nghĩa, gắn chặt tình thân thiện giữa hai dân tộc Đức – Việt và giữ gìn dân chủ cùng hòa bình thế giới. Tôi gửi bà và ông lời chào thân ái, và gửi cháu nhiều cái hôn. Việt Nam 15-9-1951, Hồ Chí Minh”.

Nhận được thư của Bác, gia đình ông Hát-man vô cùng xúc động, bởi tình cảm và sự quan tâm mà Người đã dành cho gia đình ông. Vào dịp Kơ-nớt Vôn-gang Oan-thơ Hát-man tròn 3 tuổi, Bác gửi tặng gia đình ông Hát-man một bức ảnh Người. Bức ảnh Người chụp chung với một bé gái, phía sau Bác viết: “Thân ái gửi con đỡ đầu yêu quý Kơ-nớt Vôn-gang W.Hát-man. Việt Nam, 19-5-1954 – Hồ Chí Minh”.

Gia đình ông Hát-man rất trân trọng những tình cảm của Bác Hồ dành cho họ. Các bức ảnh chụp chung trong dịp Người sang thăm Cộng hòa dân chủ Đức được lưu giữ như những kỷ vật, dù thời gian trôi qua đã nhiều năm. Còn với người con đỡ đầu của Bác, dù lúc còn học ở trường, khi tham gia quân đội hay là cán bộ kỹ thuật làm việc tại một xí nghiệp lai bò giống, Kơ-nớt đều mang theo bên mình một trong những tấm ảnh chụp chung với Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Còn cô bé người Nga, I-ri-na Đi-mi-tơ-ri-ép-na Đê-ni-a, được Bác Hồ nhận làm con đỡ đầu trong trường hợp khác.

I-ri-na Đi-mi-tơ-ri-ép-na Đê-ni-a sinh vào mùa xuân năm 1958, là con của nhà báo Đi-mi-tơ-ri Gơ-ri-gô-rê-vích và vợ là bác sĩ An-na Xta-xi-a Va-xi-lép-na, ở thành phố Giu-cốp-xki, ngoại ô Mát-xcơ-va. Mặc dù chưa một lần được gặp hay nói chuyện với Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhưng với tấm lòng kính yêu Bác, nên khi sinh con gái, họ đã viết thư gửi Người. Bức thư viết: “Chúng cháu được biết, tình yêu của Người đối với trẻ em và của trẻ em đối với Người vô cùng sâu sắc. Theo phong tục Nga cổ truyền, một phong tục tốt đẹp ở nước Nga, chúng cháu chân thành đề nghị Người làm cha đỡ đầu của đứa con nhỏ của chúng cháu – con gái tên là I-ri-sơ-ca”.

Không lâu sau ngày gửi thư, gia đình đã nhận được thư trả lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bác viết: “Cô An-na Xta-xi-a Va-xi-lép-na và chú Đi-mi-tơ-ri Gơ-ri-gô-rê-vích thân mến! Tôi đã nhận được thư của cô chú và chân thành cảm ơn cô chú đã mời tôi làm cha đỡ đầu cho con gái của cô chú. Tôi mong rằng, sự nhận lời của tôi sẽ thắt chặt hơn nữa tình đoàn kết anh em giữa hai dân tộc Việt Nam và Liên Xô. Hôn con gái đỡ đầu bé nhỏ của tôi và chúc cháu được mạnh khỏe, hạnh phúc. Chúc cô chú đạt nhiều thành tích trong công tác, trong cuộc sống. Chào thân ái, Hồ Chí Minh”.

Cùng với lá thư, còn có một bức ảnh chân dung của Người, trên đó viết dòng chữ Nga: “Hôn con I-ri-sơ-ca, chúc con mạnh khoẻ và hạnh phúc! Cha nuôi Hồ”./.

Theo qdnd.vn
Huyền Trang (st)

bqllang.gov.vn

Advertisement