“Ông già người Việt” và những cuộc gặp với người Mỹ
QĐND – Cuối năm 1941, Nguyễn Ái Quốc bị mật vụ của Quốc dân đảng Trung Quốc bắt giữ. Họ biết ông là cộng sản nhưng cứ gán ghép cho là “gián điệp của Pháp” và bắt ông vào tù ở Liễu Châu. Cũng giống như những người Trung Quốc từ lâu, khi nhìn sang Bắc kỳ, Quốc dân đảng lúc ấy đã có ý đồ gây dựng riêng một phong trào “độc lập’ chống Pháp, đứng đầu là những người Việt thân Trung Quốc mà họ thu nhặt được. Tuy nhiên, chẳng bao lâu họ nhận ra rằng chỉ có các nhóm du kích cộng sản của Mặt trận Việt Minh do Nguyễn Ái Quốc tổ chức là những người duy nhất có kinh nghiệm hoạt động thực sự ở Đông Dương. Không ai khác ngoài Việt Minh có thể có một mạng lưới điệp viên ở đó, trừ một ngoại lệ. Trường hợp ngoại lệ này, kỳ cục thay lại là một tổ chức tình báo do một nhóm nhân viên dân sự đứng đầu gồm khoảng một chục nhà kinh doanh có quyền lợi ở Đông Dương thuộc các nước Đồng minh, mỗi người trong nhóm có tổ chức cộng tác viên riêng gồm người Pháp, Hoa và Việt; lúc đầu, mục đích của họ là làm mọi cách có thể được để bảo vệ tài sản các nước Đồng minh ở Viễn Đông. Sau trận Trân Châu Cảng, tổ chức duy nhất này bắt đầu hợp tác với du kích của ông Hồ để thu thập tin tình báo cung cấp cho lực lượng không quân của Đồng minh đóng căn cứ ở Trung Quốc và Ấn Độ.
Đầu năm 1943, từ trong nhà tù, Nguyễn Ái Quốc gửi một bức thư cho Trương Phát Khuê, viên lãnh chúa quân phiệt nam Trung Hoa, cũng là một thủ lĩnh quan trọng của Quốc dân đảng, từng tranh chấp quyền bính với Tưởng Giới Thạch và thường có quan điểm riêng của mình về Đông Dương. Nguyễn Ái Quốc nói với Trương Phát Khuê nếu được trả tự do, ông sẽ tập hợp mạng lưới tình báo của mình ở Đông Dương và sẽ cộng tác với Trương. Nhận được bức thư, Trương ra lệnh thả ông ra khỏi nhà tù ở Liễu Châu không cần báo cáo cho Tưởng Giới Thạch biết. Và chính từ thời điểm Nguyễn Ái Quốc đổi tên là Hồ Chí Minh, trước hết là để giấu lai lịch đối với Tai Li, trùm mật vụ của Tưởng. Với tên Hồ Chí Minh, ông trở thành người cầm đầu một tổ chức tập hợp rộng rãi các nhóm cách mạng người Việt gọi là Đồng minh Hội, được Trung Hoa Quốc dân đảng ủng hộ, còn Việt Minh do cộng sản tổ chức lúc đầu cũng chỉ là một bộ phận của tổ chức này.
Trong năm 1943 và 1944, Việt Minh tăng cường xây dựng lực lượng chính trị và đến cuối năm 1944, họ có một lực lượng quân sự độc lập gồm hàng vạn người dưới sự chỉ huy của Võ Nguyên Giáp, một luật sư kiêm nhà giáo trẻ tuổi, lúc bấy giờ đã bộc lộ tài năng xuất sắc về quân sự. Do tính độc lập của Việt Minh ngày càng tăng, mối quan hệ của ông Hồ với Trung Hoa Quốc dân đảng ở Trùng Khánh và Côn Minh không tránh khỏi trở nên căng thẳng. Trong tình hình đó, Trương Phát Khuê – người đã bảo trợ ông Hồ cũng chẳng làm được gì. Về phía người Pháp thì cả chính phủ Vichy (thủ tướng Pétain – ND) lẫn phe nước Pháp tự do (của tướng De Gaulle – ND) cũng đều lo lắng trước tình hình hoạt động của ông Hồ, cả hai thế lực này đã dẹp mối bất đồng có từ lâu để trao đổi tin tức mật về ông Hồ.
Trong nửa năm cuối 1944, ông Hồ bắt đầu nhìn sang phía người Mỹ, và những gì xảy ra trong hai năm tiếp sau đó, kể cả câu chuyện thơ mộng lạ lùng trong rừng giữa ông Hồ với những người lính trẻ như Giôn, đã mang âm hưởng một vở kịch vui nhưng câu chuyện trên thực tế lại có một kết thúc buồn. Vào cuối năm 1944 và đầu năm 1945, ông Hồ đã 4 lần đến cơ quan Cục Tình báo Chiến lược của Mỹ ở Côn Minh để yêu cầu viện trợ vũ khí, đáp lại Việt Minh sẽ tiến hành các hoạt động tình báo và phá hoại chống Nhật, tiếp tục hoạt động cứu trợ các phi công Mỹ bị Nhật bắn rơi. Nhưng lần nào đề nghị của ông cũng bị bác bỏ. Theo lời kể của P. E. Hi-li-oen (P. E. Helliwell), Cục trưởng Cục Tình báo Chiến lược Mỹ ở Trung Quốc luôn luôn nhất quán trong chủ trương không giúp những người đã biết rõ là cộng sản như ông Hồ vì lo ngại sẽ có hậu quả rắc rối sau chiến tranh.
Tuy nhiên, cùng thời gian ấy, vẫn theo lời kể của Hi-li-oen, dù chính sách của Tổng thống Ru-dơ-ven đã công bố là Mỹ không dính dáng gì với phong trào kháng chiến ở Đông Dương – sau này Hi-li-oen có nói rằng, bản thân ông ta không hề nhận được lệnh trực tiếp nào về vấn đề này – mà việc quyết định không giúp ông Hồ lúc đó chủ yếu là do ông Hồ không chịu cam kết chỉ dùng số vũ khí nhận được để chống Nhật chứ không dùng để chống Pháp.
Nhưng ông Hồ vẫn kiên trì thương lượng. Cuối cùng, Hi-li-oen trao cho ông 6 khẩu súng ngắn và 20.000 viên đạn, nhưng chỉ coi đó là quà tặng đáp lại việc Việt Minh cứu được 3 phi công Mỹ. Sau đó, vào thời gian Mỹ hứa trao trả độc lập cho Phi-líp-pin, ông Hồ viết thư cho Ri-sác Hép-nơ (Richard Heppner), Cục trưởng Cục Tình báo Chiến lược Mỹ ở Trung Quốc thời kỳ cuối chiến tranh Thế giới thứ II, yêu cầu Mỹ giúp đỡ bằng cách gây áp lực với Pháp trao trả độc lập cho Đông Dương. Sự thực là ông Hồ cũng còn nhận được vài sự giúp đỡ khác của Cục Tình báo Chiến lược và một số cơ quan khác của Mỹ và Đồng minh nhiều hơn 6 khẩu súng ngắn của Hi-li-oen, nhưng sự giúp đỡ về vật chất đó chẳng có gì là to lớn như khi họ hào hứng hứa hẹn khích lệ ông. Một quan chức tình báo cao cấp ở Viễn Đông đã nói: “Ông Hồ muốn làm việc với chúng ta nhưng chúng ta không bao giờ bắt tay ông ấy vì chúng ta không thể cung cấp tài chính cho ông ấy”.
Ông Hồ còn thăm dò nhiều nguồn viện trợ khác trong các nước Đồng minh. Trung tướng Cle Chen-nôn (Claire Chennault), Tư lệnh Tập đoàn không quân 14 của Mỹ đã được các bạn bè Quốc dân đảng Trung Quốc báo trước, phải tránh liên hệ với ông Hồ nhưng rồi có lần đã có người giới thiệu “một ông già người Việt” đến xin gặp. Cũng chẳng có gì xảy ra sau lần gặp đó, nhưng người Anh thì tỏ ra sẵn sàng giúp đỡ hơn và vào tháng 11-1944, sau khi ông Hồ bí mật trở lại Bắc Kỳ với một lực lượng Việt Minh khoảng hai trăm người, họ đã thả dù tiếp tế cho những người Pháp thuộc phe kháng chiến (phe De Gaulle – ND) và cho du kích Việt Minh. Cùng đi với ông có một người trước đây có quan hệ với các nhà cựu kinh doanh Mỹ ở Đông Dương, những người này đã có lúc cộng tác với người của ông Hồ. Nhóm bí mật này vốn lúc đầu làm việc cho Cục Tình báo Chiến lược, nhưng lúc này lại thuộc quyền của một cơ quan của Lục quân Mỹ, Cơ quan Yểm trợ Không-Lục (AGAS-Air Ground Aid Service).
Số vũ khí mà ông Hồ và nhóm người ít ỏi của ông đưa về Bắc Kỳ lúc đó một phần là từ các nguồn của Cục Tình báo Chiến lược (O.S.S) mặc dù ngay từ đầu số vũ khí ấy phân phát ra không phải vì mục đích đó, một phần là lấy từ các kho vũ khí khác của Mỹ.
Ngay giữa miền rừng núi phía Bắc của Bắc Kỳ, trong một vùng hỗn tạp có đủ các loại: Phỉ Trung Quốc, tàn quân Pháp tự do, một số lính Mỹ nhảy dù xuống và nhiều nhóm quốc gia khác tích cực hoạt động, Hồ Chí Minh đã lập đại bản doanh cách mạng của mình. Bộ đội Việt Minh dưới quyền của ông Giáp, người chỉ huy trẻ tuổi, đã thành công trong hoạt động quấy rối quân Nhật, tuyên truyền vận động cho công cuộc giải phóng Việt Nam, cứu thêm được một số phi công Đồng minh. Một người Mỹ đã từng sống với ông Hồ tại cơ quan chỉ huy trong rừng của ông trong thời kỳ đó nay còn nhớ nét nổi bật nhất ở ông Hồ là “một con người có tính cách mạnh mẽ, ý chí kiên định”. Anh ta nhận xét về ông Hồ như sau: “Muốn đánh giá một con người cần dựa trên cơ sở xem người đó đang đeo đuổi cái gì. Ông Hồ không thể là người theo Pháp, và ông biết cách đánh Pháp theo cách của mình. Ông rất e ngại Trung Hoa Dân quốc, và không thể cộng tác với họ vì ông biết họ lúc nào cũng rất tham lam. Mát-xcơ-va thì ở quá xa… Nếu không đứng về phía Đồng minh trong cuộc chiến tranh, tất nhiên là ông Hồ không có thêm cơ hội giành lại độc lập cho đất nước từng bị sự thống trị lâu dài của chủ nghĩa thực dân Pháp. Nhưng bây giờ (năm 1965), ông Hồ đã ngồi lên lưng ngựa rồi, mặc dù không rõ con ngựa ông đang cưỡi là loại ngựa gì. Nhưng có thể nói chắc chắn là vào thời gian đó ông ta đã giúp chúng ta (Mỹ). Chúng ta và người Pháp lúc ấy đang ở trong thế có thể giúp ông trong tương lai. Tôi nghĩ, sau này ông ấy sẽ vẫn sẵn sàng giữ quan hệ tốt với phương Tây”./.
Quang Doãn
(Giới thiệu và biên dịch)
Kỳ 1: Câu chuyện của viên Trung úy Mỹ
Kỳ 2: Bức thư của Hồ Chí Minh
Kỳ 4: Các ông sẽ phải bỏ cuộc.